[4.3]
IV.7 VƯƠNG
NHI QUỈ SỰ
(RAAJAPUTTA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Những ác nghiệp
được làm trong quá khứ". Bậc Ðạo sư khi đang ngụ
ở Jetavana, đã kể lại quỉ sự này, liên quan đến một Peta
mà đã từng làm con trai của một vị vua.
Liên quan đến điều này,
ngạ quỉ kia là kẻ mà đã lâu là con trai của một vị vua
tên là Kitava và cách đây đã lâu nó cũng đã xúc phạm đến
một vị Phật Ðộc Giác, nên phải tái sanh trong cõi Ngạ
quỉ như là một dư báo của chính nghiệp ấy; do bởi nghiệp
ấy, nó đã bị nấu sôi trong địa ngục trong nhiều ngàn năm
rồi, và chính nó là kẻ được nêu ra ở đầy bằng câu kệ
"Vị peta ấy là kẻ đã từng làm con trai của Ðức
vua.
Câu chuyện về Ngạ quỉ
này đúng như câu chuyện đã được nêu ra đầy đủ chi tiết
trong quỉ sự Saanuvaasi.m và do đó câu chuyên ấy nên được
xem theo cùng cách như nó đã được nêu ra ở đó. Khi Trưởng
lão đang giải thích vấn đề về những quyến thuộc Ngạ
quỉ của vị ấy thì Bậc Ðạo sư nói rằng, "đây
không chỉ là trường hợp đối với quyến thuộc của
ngươi, vì ngươi cũng từng làm một Peta trong kiếp ngay trước
của ngươi và đã chịu đau khổ lớn", và theo lời thỉnh
cầu của vị ấy, Bậc Ðạo sư kể lại Vương nhi quỉ sự.
1. Kết quả của những
nghiệp được làm trong quá khứ thường làm nhiễu loạn
tâm; đó là sắc, thinh, hương, vị, và xúc, tất cả đều
làm cho tâm hoan hỉ.
2. Khi vị ấy đã hưởng
sự nhảy múa, ca hát, khoái lạc và sự vui chơi đến một
giới hạn không nhỏ, vị ấy vui chơi trong vườn Ngự uyển.
Khi vị ấy đi vào Gibibbaja,
3. Vị ấy trông thấy
ẩn sĩ Sunetta, bậc đã nhiếp phục tự ngã và đã tập
trung, thiểu dục, có sự độ lượng và thoả thích trong bất
cứ cái gì phát sanh đến trong bát khất thực của Ngài.
4. Hoàng tử đi xuống
khỏi lưng voi và nói rằng, "Thưa Ngài, Ngài có kiếm
được cái gì không?" Khi ấy vị Sát đế lỵ giựt lấy
cái bát của Ngài và đưa nó lên.
5. Rồi đập vỡ cái
bát xuống đất cứng và rồi vừa đi vừa cười to, khi nói
rằng, "ta là con trai của vua Kitava . Ngươi có thể làm
gì được ta, hỡi con người ăn xin như ngươi?" kết quả
của ác nghiệp ấy mà đứa con trai của đức vua phải lãnh
chịu trong khi bị giam hãm trong địa ngục thật ác liệt.
7. Trong bốn lần tám mươi
bốn Nahuta năm, kẻ làm ác ấy chịu đau đớn dữ dội
trong địa ngục.
8. Nó bị nấu sôi khi
nằm ngưỡng mặt lên và úp mặt xuống dưới, ở bên trái
và bên phải; hai chân bị treo ngược và chỉ đứng, kẻ
ngu ấy bị nấu trong một thời gian dài.
9. Trong nhiều Nahuta và
trong nhiều ngàn năm nữa, kẻ làm ác ấy chịu đau khổ mãnh
liệt trong địa ngục.
10. Ðó là tính khốc
liệt dành cho những kẻ làm hại những kẻ vô tội. những
người làm những ác nghiệp như lăng mạ một vị ẩn sĩ có
tâm đạo nhiệt thành, thì phải bị nấu sôi.
11. Nó lãnh chịu nhiều
đau khổ ở đó trong nhiều năm và khi nó rơi khỏi đó, nó
làm một ngạ quỉ thực sự bị đói và khát.
12. Khi điều bất lợi
bắt nguồn từ sự say mê với quyền lực được nhận ra và
sự say mê với quyền lực này được từ bỏ, thì người
ta sẽ hành động bằng cách khiêm nhường.
13. Người mà có đầy
sự tôn kính đối với chư Phật thì trong chính đời sống
này sẽ được khen ngợi; và vào lúc thân hoại mạng chung,
con người có trí tuệ này sẽ sanh lên trong thiên giới.
Chú giải:
1. Ở đây, KẾT QUẢ
NHỮNG NGHIỆP ÐƯỢC LÀM TRONG QUÁ KHỨ THƯỜNG CHE MỜ TÂM
TRÍ (pubbe kataana.m kammaana.m vipaako matthaye mana.m): khi quả của
những bất thiện nghiệp được làm trong những kiếp quá
khứ sanh lên và quả của nó được thực hiện bằng thân
thường làm nhiễu loạn, nó thường tràn ngập tâm của những
người mà bị che mờ bởi ngu si; Chúng thường đẩy mạnh
những điều may mắn của riêng chúng để lấn áp và gây
ra sự rủi ro tai hoạ cho những kẻ khác - đây là ý nghĩa.
Bây giờ để chứng minh sự nhiễu loạn của tâm trí này,
"về sắc, thinh v.v.." Ðược nói đến. Ở đây VỀ
SẮC (ruupe): nghĩa là trong vấn đề thuộc sự thấy, nghĩa
là về sự đạt được như được mong muốn, về những cảnh
sắc khả ái. VỀ THINH (sadde): cách giải thích như thế
cũng được áp dụng đối với những cảnh này. Rồi bằng
những chữ đặc biệt, Ngài giải thích vấn đề mà trong
đó ngài chỉ nói một chừng mức bằng những từ chung và
nói lên những câu kệ đầu bằng, "khi vị ấy đã hưởng
sự múa, hát". Ðể chứng minh điều này.
2. Ở đây KHOÁI LẠC
(rati.m): Dục lạc. SỰ VUI CHƠI (khidda.m): Vui chơi với những
người bạn của mình v.v... Giribaja (giribbaja.m): Raajagaha
3. ẨN S~N (isi.m): vị
ấy là một ẩn sĩ, bởi vì vị ấy đã nỗ lực hành theo
những giới phần v.v... Và các pháp khác của những bậc
trí tuệ. SUNETTA (Sunetta.m): Ðức Phật Ðộc Giác có tên ấy.
ÐÃ NHIẾP PHỤC TỰ NGÃ (attadanta.m): có tâm được nhiếp
phục bởi pháp nhiếp phục cao tột. ÐÃ TẬP TRUNG
(saamaahita.m): đã tập trung bằng định của quả vị A la hán.
THOẢ THÍCH TRONG CÁI GÌ MÀ ÐI VÀO TRONG CÁI BÁT KHẤT THỰC
CỦA VỊ ẤY (u~nche pattagate rata.m): thoả thích trong, bằng
lòng với, bất cứ vật thực nào mà đi vào trong cái bát
khất thực của Ngài, cái mà được đặt vào trong bát của
Ngài, cái được thọ lãnh khi đi khất thực để nuôi mạng.
4. VÀ NÓI RẰNG,
"NGÀI CÓ KIẾM ÐƯỢC CÁI GÌ KHÔNG, THƯA NGÀI?"
(laddhaa bhante ti c'abravi): vị ấy nói với mục đích đoan chắc
rằng, "Ngài không kiếm được gì phải không, thưa Ngài?"
ÐƯA NÓ LÊN TRÊN (ucca.m paggcayha ): đưa nó lên cao, đưa cái
bát lên.
5. VÀ ÐẬP BỂ CÁI
BÁT XUỐNG ÐẤT CỨNG (tha.ndile patta.m bhinditvaa): và làm bễ
cái bát bằng cách ném nó xuống ở phần có đá trên mặt
đất. BỎ ÐI (apakkami): bỏ đi cách một khoảng đường ngắn
và khi đang đi thì nói với Ðức Phật Ðộc Giác - là người
đứng nhìn với tâm bi mẫn khi nghĩ rằng, "bị che mờ
bởi sự ngu si, người ấy đã tạo ra một sự bất hạnh lớn
cho chính mình một cách vô cớ" - Khi nói rằng, "Ta
là con trai của Ðức vua Kitava ngươi có thể làm gì được
ta, hỡi người ăn xin như ngươi?"
6. ÐỘC ÁC (bharusassa):
không biết thương hại. DỮ DỘI (Ka.tuko): khó chịu. Cái
mà (ya.m), là kết quả mà . BỊ GIAM HÃM (Samappito): bị dính
vào.
7. TRONG SÁU LẦN TÁM MƯƠI
BỐN NAHUTA CỦA NĂM (chaơ eva caturaasiiti vassaani nahutaani ca):
Nằm ngưỡng mặt lên trong tám mươi bốn ngàn năm; trong tự
úp mặt xuống, về bên trái của vị ấy, về bên phải của
vị ấy, treo chổng chân lên trời và đứng như vậy qua sáu
thời kỳ mỗi thời kỳ có tám mươi bốn ngàn năm vì lý
do này Ngài nói rằng, "Nó bị nấu sôi khi nằm ngưỡng
mặt lên và úp mặt xuống, về bên trái và bên phải của
nó, chân chổng ngược đứng như thế kẻ ngu ấy bị nấu
sôi trong một thời gian dài".
9. Những năm ấy, tuy
nhiên, là những Nuhuta, bởi vì về số thì chúng có nhiều
do đó Ngài nói, "Nahuta " CHỊU ÐAU ÐỚN MÃNH LIỆT
(bhusa.m dukkha.m nigaccit.tho): gặp phải đau đớn cùng cực.
NHIỀU (puugaami): sự tập hợp của những năm. Cả nhóm từ
này ở đây và nhóm từ ở trong câu kệ trước sẽ được
xem là đối cách trong ý nghĩa của một thời gian liên tục.
10. NHƯ VẬY
(etaadisa.m): có hình thức như vậy. TÍNH KHỐC LIỆT (ka.tuka.m):
Ðau khổ cùng cực, sự mô tả này ở trung tánh cũng giống
như câu "Vị ấy ngồi xuống ở một bên".
(Ekamanta.m nisiidi) v.v... Có hình thức như vậy là tánh khốc
liệt, là đau khổ cùng cực, dành cho những người mà làm
hại những kẻ vô tội; những người làm những ác nghiệp
như lăng mạ, xúc phạm một vị ẩn sĩ chân chánh thì bị
nấu sôi - Ðây là nên đuợc hiểu.
11. NÓ (so): con Ngạ quỉ
mà đã từng làm con trai của đức vua. Ở ÐÓ (tattha): Trong
địa ngục. THỌ LÃNH (vedayitvaa): chịu. THẬT SỰ (naama):
vì rõ ràng và dễ thấy. KHI NÓ CHẾT Ở ÐÓ (tato cuto): khi
nó mạng chung ở địa ngục. Phần còn lại cũng y như đã
được nêu ra rồi.
Như vậy bằng bài
pháp thoại này, liên quan đến Ngạ quỉ mà đã từng là
con trai của một vị vua, Ðức Thế Tôn đã làm xúc động
những người đã hội họp ở đó, và sau đó giảng giải
tứ đế và vào lúc kết thúc của thời Pháp ấy, nhiều người
chứng đắc quả thánh Tu-đà-huờn v.v...
-ooOoo-
IV: 8 PHẨN
THỰC QUỶ SỰ
(GUUTHAKHAADAKA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Sau khi đứng dậy
khỏi nhà xí". Bậc Ðạo sư khi đang ngụ tại Jetavana,
đã kể lại quỉ sự này liên quan đến một Ngạ quỉ ăn
phẩn.
Tương truyền rằng
trong một ngôi làng nọ không cách xa thành Saavatthi, một người
đàn ông giàu có đã sai dựng lên một tịnh xá dành cho một
vị Tỳ kheo mà sống nhờ vào vật thí trong gia đình của
ông ta. Các vị Tỳ kheo từ nhiều vùng khác nhau thường đến
và trú ngụ ở đó. Khi trông thấy các Ngài thì dân chúng,
với lòng tịnh tín trong tâm, bèn dâng cúng đến các Ngài bốn
món vật dụng tốt nhất. Bấy giờ vị Tỳ kheo mà sống nhờ
vào vật thí của gia đình ấy không thể chịu đựng điều
này và, bị chế ngự bởi lòng ganh tỵ, bèn chọc tức vị
gia chủ giàu có ấy bằng cách nói cho vị gia chủ biết những
lỗi lầm của những vị Tỳ kheo mà sống nhờ vào vật
thí trong gia đình của ông ta, lăng mạ họ.
Rồi vị Tỳ kheo sống
nhờ vào vật thí của gia đình chết và tái sanh làm một
Ngạ quỉ trong nhà xí của chính tịnh xá ấy, trong khi người
đàn ông giàu có chết, ông ta tái sanh làm một Ngạ quỉ
ở ngay trên đầu của con ngạ quỉ kia. Khi Ðại Ðức
Mahaamoggallaana trông thấy nó, Ngài bèn hỏi nó bằng câu kệ
này:
1. "Ai mà đứng
trong trạng thái khốn khổ sau khi đứng dậy khỏi nhà xí?
Không nghi ngờ gì, ngươi là một kẻ làm ác - tại sao ngươi
tạo ra tiếng ồn ấy".
Khi nghe qua điều này,
Ngạ quỉ ấy bèn để lộ chơn tướng của mình bằng câu
kệ này:
2. "Bạch Ngài, con
là một Ngạ quỉ đã đi đến kiếp sống đau khổ trong thế
giới của Yama . Sau khi đã làm ác nghiệp, con đã ra đi từ
đây đến thế giới của những Ngạ quỉ".
Rồi Trưởng lão hỏi
nó về nghiệp mà nó đã làm bằng câu kệ này:
3. "Vậy ác nghiệp
nào được làm bởi ngươi bằng thân, khẩu hoặc ý? Do kết
quả của ác nghiệp nào khiến ngươi bây giờ phải chịu
đau khổ này?"
Rồi Ngạ quỉ ấy nói
cho Trưởng lão biết về nghiệp mà nó đã làm bằng hai
câu kệ này:
4. "Con đã từng
cúng dường một người thường trú, là người có tánh
ganh tỵ và bỏn sẻn, ở quanh gia đình của con; vị ấy luyến
ái với gia đình của con, là người bần tiện và hay lăng
mạ.
5. Khi con đã nghe điều
mà vị ấy đã phải nói ra, con lăng mạ các vị Tỳ kheo -
chính do kết quả của nghiệp ấy khiến con đã từ đây đến
thế giới của những Ngạ quỉ".
Chú giải:
4. Ở đây CON ÐÃ CÓ MỘT
NGƯỜI THƯỜNG TRÚ (ahu aavaasiko mayha.m): Con có một vị Tỳ
kheo thường trú, trú ngụ thường xuyên trong tịnh xá mà
con đã xây dựng trong chỗ ngụ của con. VỊ ẤY LUYẾN ÁI
VỚI NHÀ CỦA CON (Ajjho sito mayha.m ghare): Do vì vị ấy lệ
thuộc vào gia đình của con về vật thực nên vị ấy bám
chắc vào nhà của con bằng sự đeo níu của ái dục.
5. VỊ ẤY (tassa): Vị
Tỳ kheo mà sống nhờ vào gia đình của con về vật thí: NHỮNG
VỊ TỲ KHƯU Bhikkavo = Bhikkhuu (Thể văn phạm hoán chuyển):
Con chửi mắng (Paribhaasina.m): Con lăng mạ. CON ÐÃ ÐI TỪ
ÐÂY ÐẾN THẾ GIỚI CỦA NHỮNG NGẠ QUỈ (petaloka.m ito
gato): Bằng cách này, con đi đến cõi Ngạ quỉ con trở
thành một Ngạ quỉ.
Khi nghe qua điều này,
Trưởng lão bèn nói lên câu kệ này để hỏi về số phận
của vị Tỳ kheo kia:
6. Người mà sống nhờ
vào gia đình của ngươi về vật thực, là một kẻ thù
mang lốt một người bạn. Con người ngu si ấy đã đi đến
sanh thú nào khi thân hoại mạng chung?
Chú giải:
6. Ở đây TRONG LỐT CỦA
MỘT NGƯỜI BẠN (Mitta va.n.nena): Bằng tướng mạo của một
người bạn, cải trang làm một người bạn.
Ngạ quỉ ấy lại giải
thích vấn đề ấy với Trưởng lão:
7. Con đang đứng ở trên
đầu, ở trên đỉnh đầu của chính người làm ác nghiệp
ấy. Vị ấy đã đi đến cõi kia và làm một người hầu
cho riêng con.
8. Bạch Ngài, cái gì
mà những người khác thải ra thì cái đó trở thành vật
thực của con; Trong khi đó cái gì chính con thải ra thì Ngạ
quỉ hầu ấy phải sống bằng cái đó".
Chú giải:
7. Ở đây CỦA CHÍNH
NGƯỜI ẤY (tass'eva): Của con Ngạ quỉ mà trước kia là vị
Tỳ kheo sống nhờ vào gia đình của con về vật thực. LÀ
NGƯỜI ÐÃ LÀM ÁC NGHIỆP ẤY (paapakammassa): Là người có
ác hạnh. CON ÐANG ÐỨNG Ở TRÊN ÐẦU, Ở TRÊN ÐỈNH (Siise
ti.t.thaami matthake): Con đang đứng ở trên đầu, và bằng
cách đứng như vậy, con đang đứng ngay trên chính đỉnh đầu,
nghĩa là không phải ở bên trong cái đầu của hắn. ÐÃ
ÐI ÐẾN CÕI BÊN KIA (paravisaya.m patto): Ðã đi đến cõi Ngạ
quỉ, là cõi bên kia so với cõi người.
8. CÁI GÌ NGƯỜI KHÁC
THẢI RA, BẠCH NGÀI, (ya.m bhadante hanant'a~n~ne): Cái gì những
người khác thải ra ở trong nhà xí, là phẩn mà họ thải
ra, bạch Ngài, thưa Ðức Ứng Cúng Mahaamoggallaana . CÁI ẤY
TRỞ THÀNH VẬT THỰC CỦA CON (eta.m me hoti bhojana.m): Phẩn
ấy trở thành vật thực của con ngày này qua ngày khác.
CÁI GÌ CHÍNH CON THẢI RA (ya.m haanamii): Phẩn mà con cũng đã
thải ra sau khi ăn phẩn trước. HẮN ÐÃ SỐNG BẰNG THỨ
ẤY (eta.m so upajiivati): Ngạ quỉ trước kia là vị Tỳ kheo
sống nhờ vào gia đình của con về vật thí, đã sống
ngày này qua ngày khác bằng cách ăn phẩn ấy của con,
nghĩa là hắn nuôi dưỡng kiếp sống của hắn bằng cách
này, trong hai người này, thì người đàn ông giàu có đã lăng
mạ các vị Tỳ kheo, là những bậc có hạnh kiểm tốt, khi
nói rằng, "tôi hy vọng rằng, các ông phải ăn phẩn là
loại vật thực mà các ông thọ hưởng"; nhưng người
mà sống nhờ vào gia đình của ông ta về vật thực thì đã
xúi dục người đàn ông giàu có ấy để nói theo cách ấy,
do đó chính hắn nên được xem là đã lăng mạ các vị Tỳ
kheo bằng cách ấy, vì lý do này nên đời sống của hắn còn
tệ hơn của người kia.
Ðại Ðức
Mahaamoggallaana nêu lên vấn đề với Ðức Thế Tôn. Ðức
Thế Tôn lấy vấn đè ấy làm nguyên nhân cần thiết đã
sanh lên và, sau khi chỉ ra những qủa khổ của sự nói lăng
mạ, bèn thuyết pháp đến hội chúng đã tụ họp ở đó.
Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho những người ấy.
-ooOoo-
IV.9 THỰC
PHẨN QUỈ SỰ
(GUUDHAKAADAKA PETAVATTHU VA.N.NANAA):
"Sau khi đứng dậy
khỏi nhà xí". Quỉ sự này được nói đến khi Bậc Ðạo
sư đang ngụ tại Jetavana, liên quan đến một nữ Ngạ quỉ
ăn phẩn.
Câu chuyện của nàng tương
tự như câu chuyện trước. Ở đó, vì tịnh xá được dựng
lên bởi nàng tín nữ ấy, nên nó đã được kể lại liên
quan đến tín nữ ấy. Tuy nhiên ở đây, đó là một tín nữ
- đây là sự khác biệt duy nhất. Trong phần còn lại của
câu chuyện này và những câu kệ thì không có cái gì mà
không có ở trong câu chuyện trước.
-ooOoo-
IV.10 QUẦN
TẬP QUỈ SỰ
(GA.NA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Các ngươi trần
truồng và có hình tướng xấu xí". Quỉ sự này được
kể lại trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Jetavana, liên
quan đến một số đông những Ngạ quỉ.
Tương truyền rằng, tại
Saavatthi có một số đông những người nọ làm thành một
nhóm người không có đức tin cũng không có lòng tịnh tín,
tâm của họ bị ám ảnh bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn
và chống lại các thiện hạnh như bố thí v.v... Chúng sống
một thời gian dài và vào lúc thân hoại mạng chung, chúng
tái sanh vào trong cõi Ngạ quỉ, ở gần với thành phố ấy.
Bấy giờ vào một hôm nọ, khi Ðại Ðức Mahaamoggallaana
đang đi đến Saavatthi để khất thực, Ngài trông thấy những
Ngạ quỉ ấy trên đường đi của Ngài và hỏi chúng bằng
câu kệ này:
1. Các ngươi trần truồng
và có hình tướng thô xấu, gầy ốm với những đường gân
lộ ra. Các ngươi là những người ốm yếu với những
xương sườn lồi ra, bây giờ các ngươi là ai, thưa các
ngài?
Chú giải:
1. Ở đây CÁC NGƯƠI CÓ
HÌNH TƯỚNG THÔ XẤU, (dubba.n.naruupaa'tha): Các ngươi có
thân hình xấu xí. Bây giờ CÁC NGƯƠI LÀ AI? (ke nu
tumhe'tha): Bây giờ quả thật các ngươi có thể là ai. THƯA
CÁC NGÀI (maarisaa): Ngài xưng hô với chúng như là những người
ngang hàng với Ngài:
Khi chúng nghe qua điều
này, thì những ngạ quỉ ấy bèn nói câu kệ này để cho
biết rằng chúng là những Ngạ quỉ.
2. Bạch Ngài, chúng con
là những ngạ quỉ, đã đi đến kiếp sống đau khổ trong
thế giới của Yama. Sau khi đã làm những ác nghiệp, chúng
con đã đi từ đây đến thế giới của những ngạ quỉ.
Trưởng lão lại hỏi
một lần nữa về nghiệp mà chúng đã làm bằng câu kệ
này:
3. "Vậy ác nghiệp
nào được làm bởi các người bằng thân khẩu hay ý? Do quả
của ác nghiệp nào khiến các ngươi phải đi từ đây đến
thế giới của những Ngạ quỉ?"
Rồi chúng giải thích
nghiệp mà chúng đã làm:
4. Ở những chỗ tắm
công cộng, chúng con tìm kiếm những đồng tiền nhỏ; dầu
những thí vật ở trong tầm tay nhưng chúng con không làm
làm nơi nương tựa cho chính chúng con.
5. Chúng con đi đến
con sông, cổ họng bị khô cháy, nhưng nó lại trở nên trống
rỗng; giữa sức nóng, chúng con đi đến bóng mát nhưng nó
trở nên bị thiêu đốt bởi mặt trời.
6. Và một làn gió như
lửa thổi vào chúng con, đốt cháy chúng con, nhưng chúng con
đáng bị điều này, bạch Ngài, và đau khổ khác còn kinh
khủng hơn thế này.
7. Hơn nữa, chúng con
đi dài những do tuần, bị đói và muốn vật thực, nhưng lại
quay lui mà không kiếm được gì cả - phước của chúng con
thật là mỏng manh.
8. Bị đói, mệt lả,
lảo đảo và chìm xuống đất, chúng con nằm ngửa xoài người
ra hay chúng con té ngã úp mặt xuống đất.
9. Khi chúng con té ngay
chỗ ấy, lịm người xuống đất, chúng con đánh rầm những
cái đầu và ngực của chúng con - quả thật phước của chúng
con thật là mỏng manh.
10. nhưng chúng con đáng
bị điều này, bạch Ngài, và đau khổ khác còn kinh khủng
hơn thế này, vì dầu thí vật ở trong tầm tay, nhưng chúng
con không làm chỗ nương tựa cho chính chúng con.
11. Rồi sau đó, khi
chúng con đã ra đi khỏi đây và có được kiếp người trở
lại, chúng con sẽ niềm nở, có giới đức và quyết tâm
làm nhiều thiện nghiệp.
Chú giải:
7. Ở đây HƠN NỮA, CHÚNG
CON ÐI NHIỀU DO TUẦN (api yojanaani gacchaama): Chúng con đi nhiều
do tuần. Ði trong trạng thái như thế nào? BỊ ÐÓI VÀ MUỐN
VẬT THỰC (chaataa aahaaragiddhino): Trong một thời gian dài
chúng con bị đói, chúng con thèm muốn vật thực, khao khát
nó, tuy nhiên dầu chúng con đã đi như thế, chúng con đã phải
quay lại mà không kiếm được một ít vật thực nào. PHƯỚC
CỦA CHÚNG CON THẬT MỎNG MANH (appapu~n~nataa): Về phước, chúng
con không có, chúng con đã không làm thiện nghiệp nào.
8. CHÚNG CON NẰM NGỮA
SẢI NGƯỜI RA (uttaanaa pa.tikiraama): Ðôi khi chúng con kết
thúc bằng sự nằm ngửa mà xem ra tựa như tất cả tay chân
của chúng con đã bị rã rời. CHÚNG CON TÉ SẤP (avakujjaa
pataamase): Ðôi khi chúng con té sấp.
9. CHÚNG CON (te ca): Những
người ấy trong chúng con. CHÚNG CON ÐÁNH VÀO NHAU ÐẦU VÀ
NGỰC CỦA CHÚNG CON (ura.m siisa~n ca gha.t.tema) Sau khi đã té
xuống, kết thúc bằng sự úp mặt và không thể đứng dậy
được, chúng con chỉ đánh đầu và ngực của nhau khi
chúng con quằn quại đau đớn.
Phần còn lại cũng
như đã được giải thích ở trên.
Trưởng lão nêu lên vấn
đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề
ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp
đến hội chúng đã hội họp ở đó. Khi nghe qua pháp thoại
này mọi người đều từ bỏ bợn nhơ của lòng bỏn sẻn
và thiên về thiện hạnh, thực hành những việc phước
như bố thí v.v...
-ooOoo-
IV.11 HOA
TỬ QUỈ SỰ
(PAA.TALIPUTTA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Ngươi đã trông
thấy những địa ngục và cõi súc sanh". Quỉ sự này
được kể lại khi Bậc Ðạo sư đang ngụ tại Jetavana, liên
quan đến một Vimaanapeta nọ.
Tương truyền rằng nhiều
thương nhân mà là những dân cư của thành Saavatthi và
thành Paa.taliputa đang đi bằng những chiếc thuyền đến
Suva.n.nabhumi khi ấy một vị thiện nam nọ, luyến ái với một
người đàn bà, bị ngã bệnh và chết. Dầu anh ta đã làm
những thiện nghiệp nhưng anh ta không sanh trong cõi Devaloka
mà lại sanh làm một vị Vimaanapeta ở dưới đại dương,
do bởi lòng luyến ái của anh ta với người đàn bà ấy.
Người đàn bà mà anh ta đã luyến ái đang trên đường đi
trong chiếc thuyền đến Suv.n.nabhuumi . Bấy giờ, vị peta vì
muốn bắt người đàn bà ấy, bèn ngăn chặn không cho chiếc
thuyền di chuyển. Rồi những thương nhân ấy khi tự hỏi
lý do gì có thể khiến cho chiếc thuyền không di chuyển,
bèn chuyền quanh cái thăm mà có điềm xấu và, do bởi năng
lực thần thông của phi nhân, cái thăm đến nằm với người
đàn bà không dưới ba lần, chính người đàn bà mà vị
ấy ái luyến. Khi trông thấy điều này thì những thương
nhân thả xuống một bó tre trong biển và để người đàn
bà xuống ở trên bó tre ấy, và ngay khi người đàn bà đã
được để xuống thì chiếc thuyền di chuyền đi nhanh đến
Suva.n.nabhuumi . Vị phi nhân dẫn người dẫn người đàn bà
lên đến cung điện của vị ấy và hưởng những thú vui
tình ái với nàng. Khi nàng đã trải qua một năm ở đó,
nàng trở nên bất mãn và xin vị peta ấy khi nói rằng,
"Chừng nào em còn sống ở đây thì em không thể hành
động cho lợi ích của em ở thế giới sau. Xin hãy đưa em
đến Paa.taliputta, thưa Ngài"; Khi bị nài xin như vậy bởi
nàng, vị ấy bèn nói lên câu kệ này:
1. Nàng đã trông thấy
địa ngục và cõi súc sanh, những Ngạ quỉ, những vị A tu
la, cũng như người và Chư thiên; Chính nàng đã trông thấy
những quả nghiệp của một người rồi. Ta sẽ đưa nàng
an toàn đến Paa.taliputta . Khi nàng đã đi đến đó rồi,
nàng phải làm những việc thiện.
Chú giải:
1. Ở đây NÀNG ÐÃ
TRÔNG THẤY NHỮNG ĐỊA NGỤC (di.t.thaa tayaa nirayaa): Nàng đã
trông thấy ngay cả những địa ngục riêng biệt. CÕI SÚC
SANH (Tiracchaanayonii): Nàng cũng đã trông thấy những con thú
có thần lực lớn như rồng và kim xí điểu v.v.. Ðây là
cách nên được hiểu. NHỮNG VỊ ASURA (Asuraa): loại
kaalaka~njaka của Asuraa . NHỮNG VỊ CHƯ THIÊN (devaa): Một số
Chư thiên thuộc cõi của bốn vị thiên vương.: Tương truyền
rằng vị ấy thường dẫn nàng đi theo vị ấy thỉnh thoảng
bằng oai lực của vị ấy và đi quanh chỉ cho nàng trông thấy
những địa ngục riêng biệt v.v... Vì lý do này nên vị ấy
nói rằng, "Chính nàng đã trông thấy quả nghiệp của
một người . Nàng đã đi đến địa ngục khác nhau v.v..
Và khi nhìn quanh nàng đã trông thấy, nàng có trông thấy,
đối với chính nàng, với chính mắt của nàng, những kết
quả của các nghiệp được làm bởi một người. "TA SẼ
ÐƯA NÀNG AN TOÀN ÐẾN PAA.TALIPUTTA (nessaami ta.m paa.taliputta.m
akkhata.m): Bây giờ ta sẽ đưa nàng đi, mà không bị làm hại,
không bị làm tổn thương, đến Paataliputta trong hình tướng
của con người nhưng khi nàng đi đến đó rồi, nàng phải
làm những thiện nghiệp, nghĩa là vì nàng đã trông thấy bằng
chính mắt của nàng những kết quả của các nghiệp thì
nàng nên chuyên tâm vào thoả thích trong việc thực hành những
việc phước.
Khi người đàn bà đã
nghe điều mà vị ấy đã phải nói ra, nàng lấy làm hoan hỉ
và nói lên câu kệ này:
2. ngài muốn cho tôi
được tốt, hỡi yakkha, Ngài muốn cho tôi được lợi ích,
Hỡi Devataa ; tôi sẽ làm điều gì mà ngài nói, Ngài là thầy
của tôi. Tôi đã trông thấy những địa ngục và cõi súc
sanh, những vị Peta, những vị Asura cũng như loài người và
Chư thiên; Chính tôi đã trông thấy những quả nghiệp của
một người. Những việc phước mà tôi quyết định sẽ làm
không phải nhỏ.
Rồi vị Peta ấy dẫn
người đàn bà đi xuyên qua hư không và đặt nàng ở giữa
thành phố Paa.taliputta rồi ra đi. Khi những người bạn và
những quyến thuộc v.v.. của nàng trông thấy nàng, thì họ
vui mừng nghĩ rằng, dầu họ đã nghe trước kia rằng nàng
đã bị thả vào trong biển và đã chết, tuy nhiên bây giờ
nàng được trông thấy và, đầy biết ơn, đã trở về an
toàn. Và họ tụ họp và hỏi nàng về biến cố. Nàng đã
kể cho họ nghe mọi chuyện mà nàng đã thấy và đã trải
qua, ngay từ đầu. Hơn nữa, những thương nhân mà là những
dân cư của thành Saavatthi đúng lúc đã đến tại Saavatthi
. Họ đi đến Bậc Ðạo sư trong thời gian thích hợp,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống ở một bên, nêu lên vấn đề
với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm
nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết giảng Chánh
Pháp cho tứ chúng. Dân chúng, đầy xúc động, trở nên
thiên về những thiện nghiệp như bố thí v.v...
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |