[3.2]
III.3 TẠO
XA QUỈ SỰ
(RATHAKAARA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Có cột bằng ngọc
bích, rực rỡ, chiếu sáng". Pháp thoại này được thuyết
giảng trong khi Bậc Ðạo sư đang ngụ ở Savatthi, liên quan
đến một nữ Ngạ quỉ nọ.
Tương truyền rằng cách
đây đã lâu, trong thời của đức Thế Tôn Kassapa, có một
người đàn bà nọ có hạnh kiểm tốt và tìm thấy đức
tin trong giáo Pháp do sự thân cận với bạn lành. Nàng dựng
lên một chỗ ngụ, trông rất khả ái, được khéo làm cân
đối bằng những bức vách có trang hoàng, những cột trụ,
những bậc thang và nền nhà. Nàng thỉnh các vị Tỳ kheo ngồi
ở đó, dâng cúng vật thực thượng vị đến các Ngài và
dâng thảo am đó đến chúng Tỳ kheo. Ðúng lúc nàng chết
và, do bởi nghiệp ác khác biệt, nàng sanh làm một
vimaanapetii gần hồ rathakaa ra trên vùng Himaalaya, chúa của
các núi. Do năng lực của thiện nghiệp về việc bố thí
ấy đến chư Tăng nên có sanh lên, ở giữa hồ ao, và được
trang sức bởi khu rừng như Nandana, một cung điện cao vút
được làm toàn bằng những báu vật, và ở tất cả các mặt
thì cực kỳ hấp dẫn, mê ly và khả ái, trong khi chính
nàng thì có nước da màu vàng ròng, trông xinh đẹp khả ái
và hấp dẫn lạ thường. Nàng sống ở trong đó, hưởng sự
vinh quang của chư thiên, nhưng cô đơn chẳng có người nam
nào. Bất mãn sanh lên trong nàng vì sống mà không có người
đàn ông nào trong trong thời gian lâu dài ấy. Nàng trở nên
bất mãn và suy nghĩ rằng, "Ta sẽ bày một mẹo!",
Nàng thả vào trong con sông một số xoài chín của chư thiên.
Mọi chuyện nên được hiểu theo cùng cách như đã được
kể lại trong quỉ sự Ka.n.nnamu.n.da . Tuy nhiên ở đây, một
chàng trai là dân cư của thành Ba la Nại, trông thấy một
trong những trái xoài ấy ở trong sông Hằng. Ðến đúng
lúc, anh ta lên đường để tìm kiếm xem nó từ đâu đến,
và trông thấy con sông ấy; và bằng cách đi theo con sông
này, đã đến tại chỗ ngụ của nàng. Khi nàng trông thấy
anh ta nàng bèn dẫn anh ta vào trong chỗ ngụ của nàng, đón
chào anh ta và mời anh ta ngồi. Khi trông thấy sự thù thắng
của nàng, anh ta bèn nói lên những câu kệ này để dò hỏi
về nó:
1. "Có cột bằng
ngọc bích, lấp lánh, rực rỡ và có vô số những bức
tranh, đó là cung điện mà nàng đã ngự lên và nàng nghỉ
ở đó, hỡi Devii có đại oại lực, trông như ánh trăng rằm.
2. Và nước da của nàng
giống như vàng tan chảy, tướng mạo chói sáng của nàng
trông vô cùng khả ái, nhưng nàng lại ngồi một mình trên
chiếc giường vinh quang vô song của nàng, xem ra nàng không
có chồng.
3. Và nàng có những hồ
sen này ở khắp bốn hướng, có nhiều hoa, với nhiều hoa
sen và hoàn toàn được trải lên bằng bụi vàng; bùn và
bèo tấm thì không được biết đến ở đó.
4. Những con thiên nga
trông khả ái và dễ thương, lội quanh ở trên mặt nước
luôn khi và kéo đàn với nhau, tất cả chúng đều duyên
dáng, hót với giọng thanh tao như những tiếng trống định
âm.
5. Chói sáng, lộng lẫy
trong sự vinh quang của nàng, nàng nghỉ khi tựa chiếc thuyền
của nàng, với đôi mi rậm, vui vẻ và giọng nói khả ái;
tay chân nỏn nà, nàng vô cùng rực rỡ.
6. Cung điện này không
có tỳ vết và đứng ngang bằng; có những công viên làm tăng
thêm sự vui thích và khoái lạc của nàng. Hỡi công nương
có sắc đẹp tột bậc, ta ước rằng ta có thể vui hưởng
với nàng ở đây giữa khoái lạc nầy".
Chú giải:
1. Ở đây, Ở ÐÓ
(tattha): trong cung điện ấy. NÀNG NGHỈ (acchasi): Nàng ngồi,
nàng trú ngụ, bất cứ lúc nào nàng muốn. HỠI DEVII (devii):
vị ấy xưng hô với nàng. CÓ OAI LỰC LỚN (mahaanubhaave):
có oai lực lớn của chư thiên, ÐANG TRONG ÐÀ CHẠY NHANH
(pathaddhani): đang đi trên quỉ đạo của chính nó, nghĩa là
trên con đường xuyên qua các khoảng rộng của những bầu
trời. NHƯ TRĂNG RẰM (pannarase va cando) nghĩa là chiếu sáng
như vầng sáng bao quanh của mặt trăng trong đêm rằm.
2. VÀ NƯỚC DA CỦA NÀNG
GIỐNG NHƯ VÀNG TAN CHẢY. (Va.n.no ca te kanakassa sannibho) Nước
da của nàng vô cùng hấp dẫn, giống như vàng tan chảy. Vì
lý do này mà vị ấy nói rằng, "Hình tướng chói sáng
của nàng trông rất diễm kiều". VÔ SONG (atula) có giá
trị lớn; nói cách khác, chúng ta nên đọc rằng hỡi con
người vô song (atula), đó là cách xưng hô của anh ta với
nàng Devataa, nghĩa là, "Hỡi người có sắc đẹp vô
song", Nàng không có chồng: N'atthi ca tuyha.m saamiko =
Saamiko ca tuyha.m n'atthi (thể văn phạm hoán chuyển).
3. NHIỀU HOA
(bahuutamalyaa): chúng có nhiều loại hoa khác nhau như hoa sen và
hoa súng xanh v.v... VỚI NHỮNG BỤI VÀNG (Suva.n.nacu.n.nehi): với
những cát vàng. Ở ÐÓ (tattha): ở trong những hồ sen ấy.
BÙN VÀ BÈO TẤM (pa"nko pa.n.nako ca): chẳng có bùn nào
hay chút rong rêu nào được biết đến.
4. NHỮNG CON THIÊN NGA
NÀY TRÔNG KHẢ ÁI VÀ DUYÊN DÁNG (Ha.msaa pi ma dassaniiyaa
manoramaa): Những con chim thiên Nga này, trông khả ái và đẹp.
LƯỚT QUANH (anupariyanti): lội tới lội lui. TRONG MỌI KHI
(sabbadaa): trong tất cả các mùa. KÉO LẠI VỚI NHAU (Samayya):
đi đến với nhau. XINH ÐẸP (Vaggu): ngọt ngào. Hát ra
(upanadanti): gáy. NHƯ TIẾNG CỦA NHỮNG CÁI TRỐNG ÐỊNH ÂM
(Dundubhiina.m va ghosa): nghĩa là do bởi tính chất về giọng
đầy ấm và ngọt ngào của chúng, tiếng của những con
chim thiên Nga ở trên hồ sen của nàng giống như tiếng của
những cái trống định âm.
5. CHÓI SÁNG (Daddaơhamaanaa):
chiếu sáng rực rỡ. TRONG SỰ VINH QUANG CỦA NÀNG (yasasaa): với
năng lực thần thông của một vị chư Thiên. TRONG CHIẾC
THUYỀN CỦA NÀNG (naanaaya): trong chiếc thuyền của nàng; vị
ấy nói điều này khi trông thấy petii đang thọ hư?ng như vậy
ở trên nước khi đang ngồi trên chiếc giường quí báu bằng
vàng, chiếc thuyền giống như hoa sen ở trong hồ sen. KHI
ÐANG TỰA avala.mba= ola.mbitvaa (thể văn phạm hoán chuyển): tựa
vào để chống đỡ. NÀNG NGHỈ (ti.t.thasi): đây là một
cách nói đối lập với chuyển động, ám chỉ về sự dừng
lại của chuyển động trong chữ "đang nghỉ". Một
cách đọc khác là Nisajjasi, ý nghĩa của nó nên được xem
giống như là nàng "đang ngồi". VỚI ÐÔI MI RẬM
(aalaarapa.mhe): đôi lông mi cong, đen, dài, VUI TƯƠI (hasite):
đầy s? tươi sáng, với khuôn mặt vui tươi. NÓI KHẢ ÁI
(piya.mvade): Nói chuyện nghe khả ái, TỨ CHI DIỄM KIỀU
(sabba"ngaka"nyaa.ni): có các chỗ trên thân đều xinh
đẹp, nghĩa là xinh đẹp ở mọi chỗ trên thân, cả lớn lẫn
nhỏ. NÀNG CHÓI SÁNG (Virocasi): Nàng chiếu sáng.
6. KHÔNG TỲ VẾT
(viraja.m): không khuyết điểm, không lỗi lầm, ÐỨNG NGANG BẰNG
(Same.thita.m) đứng trên một chỗ đất bằng,
(samabhuumnibhaage): Hay nói cách khác, vì vẻ đẹp của nó ở
khắp bốn mặt, nó đứng trong tư thế ngang bằng
(samabhaage): nghĩa là hoàn hảo ở khắp quanh. LÀM TĂNG TRƯỞNG
SỰ MÊ THÍCH VÀ KHOÁI LẠC (Ratinandiva.d.dhana.m): "nó làm
tăng thêm sự mê thích và khoái lạc của nàng", vì nó
làm tăng sự vui thích và khoái lạc, nghĩa là khiến cho hạnh
phúc và hỉ lạc của nàng tăng trưởng. HỠI CÔNG NƯƠNG
(Naari) đây là cách xưng hô của anh ta với nàng. CÓ SẮC ÐẸP
TỘT BẬC (anomadassane): trông không chê vào đâu được do sự
hoàn hảo ở các chỗ trên thân cả lớn lẫn nhỏ. GIỮA
KHOÁI LẠC NÀY (Nandane): giữa cái tạo ra khoái lạc: Ở
ÐÂY (idha): ở trong khu rừng Nandana này, hay trong cung điện
của nàng. ÐỂ TÔI CÓ THỂ VUI CHƠI (moditu.m): ta muốn rằng
ta có thể đắm chìm trong những khóai lạc của tình yêu -
đây là cách nên được hiểu.
Khi chàng trai đã nói
như vậy, thì nàng Vimaanadevataa, để trả lời vị ấy, bèn
nói câu kệ này:
7. "Hãy làm một
công việc để được thọ hưởng ở đây và hãy khiến
cho tâm của chàng thiêng về đây, khi chàng đã làm một việc
để được ở đây như vậy, chàng sẽ được xem là người
làm thoả mãn tất cả mọi ước muốn của chàng.
Chú giải:
7. Ở đây LÀM MỘT
CÔNG VIỆC ÐỂ ÐƯỢC SỐNG HƯỞNG Ở ÐÂY (karohi kamma.m
idha vedaniya.m): Hãy thực hành, chàng nên đeo đuổi một việc
thiện mà sẽ chín mùi và cho kết quả của nó ở đây
trong chỗ thần tiên này. HƯỚNG TÂM ÐẾN ÐÂY (idha nata.m)
thiêng về chỗ này; một cách đọc hoán chuy?n là lướt đến
đây (idhaninịa.m): hãy để cho tâm của chàng, hãy cho phép
tâm của chàng lướt nghiêng về chỗ này.
Khi chàng trai đã nghe
điều mà vimaanaapeti đã phải nói ra, vị ấy bèn rời khỏi
chỗ ấy, đến những con đường nhân loại, vị ấy giữ
tâm chuyên chú vào chỗ ấy và thực hành những việc phước
thích hợp và chẳng bao lâu sau, khi mạng chung, tái sanh ở
đó, cọng trú với Petii ấy. Những vị Kiết tập Tam Tạng
đã nói lên câu kệ kết thúc để giải thích vấn đề.
8. Vị ấy đã
đồng ý với nàng khi nói rằng: "Tốt lắm" và làm
một nghiệp để sống ở đó; khi đã làm một nghiệp để
sống ở đó, chàng trai tái sanh cọng trú với nàng.
Chú giải:
8. Ở đây TỐT LẮM
(Saadhu): đây là một tiểu từ chỉ sự đồng ý. VỚI
NÀNG (tassaa) với Vimaamapetii ấy. VỊ ẤY ÐÃ ÐỒNG Ý
(pa.tisu.nitvaa): vị ấy đồng ý với điều mà nàng phải
nói ra. ÐỂ ÐƯỢC SỐNG Ở ÐÓ (tahi.m vedaniiya.m): một
nghiệp thiện đem lại kết quả hạnh phúc, tức là được
sống với nàng trong cung điện ấy - Ðây là cách nên được
hiểu.
Khi họ đã hưởng sự
vinh quang của chư Thiên ở tại đó trong một thời gian
dài, vị Thiện Nam chết do hết phước của nghiệp ấy,
nhưng nàng tiên nữ thì vẫn còn sống ở đó trong một
trung gian Phật thời do phước của nàng đã gieo vào mảnh
ruộng đó. Rồi khi đức Thế Tôn của chúng ta đã xuất hiện
trong thế gian và đã lăn bánh xe chánh pháp, và đến đúng
lúc đang trú ngụ ở Jetavana, Ðại Ðức Moggallana vào một
hôm nọ, khi đang đi trên những ngọn núi, trông thấy cung
điện của nàng Vimaanapetii ấy và hỏi nàng những câu kệ
bắt đầu bằng: "có một trụ bằng ngọc bích, lấp
lánh, rực rỡ..." Nàng bèn thuật lại biến cố ấy với
Ngài ngay từ đầu, và khi đã nghe qua điều này, Trưởng lão
bèn đi đến Saavatthi và nêu lên vấn đề ấy với đức Thế
Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần
thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh Pháp cho hội
chúng đã tụ họp ở đó. Khi đã nghe qua Pháp thoại này,
dân chúng đã thực hành những việc phước như bố thí
v.v... Và trở nên có sự ưa thích với chánh Pháp.
-ooOoo-
III.4 QUỈ
SỰ VỀ TRẤU
(BHUSAPETVATTHU)
"Một người thì
sáng kiến trong khi lại một người khác". Pháp thoại
này được Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ
ở Saavatthi, liên quan đến bốn Ngạ quỉ.
Tương truyền rằng tại
một ngôi làng nọ không cách xa thành Saavatthi, có một người
thương buôn bất lương nọ, kiếm sống bằng nghề đong lường
gian dối v.v... Ông ta thường lấy một ít võ trấu, trộn
thêm đất sét nâu để làm tăng thêm trọng lượng và rồi
trộn cái này với lúa đỏ mà ông ta bán ra khi ấy. Ðứa
con trai của ông ta trở nên tức giận khi nghĩ rằng, "ông
ta đã không hành động một cách đáng kính đối với những
bạn bè của ta và những người tốt bụng của ta khi họ
đi đến nhà". Và chộp lấy miếng da lót cái ách đánh
một cái vào đầu mẹ của anh ta. Ðứa con dâu của ông
thì ăn bằng cách lấy trộm thịt được dự định cho tất
cả và khi được gọi đến một lần nữa bởi họ, để
giải thích sự kiện, chính nàng đã thề rằng, "nếu
thịt ấy được ăn bởi tôi, thì xin cho tôi ăn thịt sau
khi móc ra từ cái lưng của tôi kiếp nầy đến kiếp khác".
Vợ của ông ta nói với những người đến xin những
phương tiện kiếm sống rằng không có gì cả, và khi bị
nài ép bởi họ, bà ta thề bằng cách nói dối rằng,
"Nếu có một cái gì đó mà tôi lại nói là không có
gì thì xin cho tôi kiếm ăn bằng phẩn ở bất cứ chỗ nào
mà tôi sanh ra!"
Ðến đúng lúc, bốn
người này chết và sanh làm Ngạ quỉ trong khu rừng Vi~njha
. Ở đó, người thương buôn bất lương, do quả của những
ác nghiệp của ông ta, thường cầm trấu cháy đỏ ở cả
hai tay và rải nó ở trên đầu của ông ta và do vậy phải
chịu đau khổ lớn. Ðứa con trai của ông ta thường tự làm
bể cái đầu của chính mình bằng những cái búa sắt và
chịu đau đớn không xiết kể. Nàng dâu của ông ta, do quả
những ác nghiệp của nàng, chịu đau đớn vô hạn vì phải
ăn lấy thịt mà nàng móc ra liên tục từ cái lưng của nàng
bằng móng tay lớn, rất dài và bén của nàng; Trong khi đó,
ngay sau khi bữa ăn bằng cơm sạch và thơm mà những hạt gạo
đen đã được lấy đi từ đó, được dâng đến cho vợ của
ông ta thì nó trở thành phẩn có mùi hôi thối và ghê tởm;
bị làm thủng lỗ chỗ bởi nhiều loại sâu, bà ta thường
nắm chắc phẩn ấy bằng hai bàn tay và cảm thọ đau khổ
lớn khi ăn lấy nó.
Bấy giờ, khi bốn người
này đã sanh trong cõi Ngạ quỉ và đang chịu đau khổ lớn
thì Ðại Ðức Moggallaana, khi đang đi dạo quanh những ngọn
núi vào một ngày nọ, đi đến tại chỗ ấy và trông thấy
chúng. Trưởng lão dò hỏi những nghiệp mà chúng đã tạo
bằng câu kệ này:
1. "Một người thì
cầm trấu trong tay trong khi có người nữa; và người đàn
bà này thì ăn thịt và máu của chính mình; còn ngươi thì
ăn phẩn dơ dáy và gớm ghiếc - đây là kết quả của nghiệp
nào?"
Chú giải:
1. Ở đây TRẤU
(bhusaani) những vỏ lúa. MỘT (eko) một mình. Của lúa:
Saalim = saalino; đây là đối cách với sức mạnh của sở hữu
cách: Hắn thường rải những vỏ trấu cháy đỏ trên đầu
của hắn - Ðây là ý nghĩa. LẠI MỘT NGƯỜI KHÁC: punaaparo
= puna aparo (phối hợp cách); hắn là người đã đánh vào
đầu của mẹ nên bị lãnh quả bằng cái đầu bị nứt ra
sau khi đánh vào đầu của hắn bằng cái búa sắt - Chính
liên quan đến điều này khiến vị ấy nói. THỊT VÀ MÁU CỦA
CHÍNH NÀNG (sakama.msalohita.m): nàng ăn thịt và máu từ cái lưng
của chính nàng. - Ðây là cách nên đuợc hiểu. NHỜM GỚM
(akanmtika.m) khó chịu, không đáng ưa thích, nhờm gớm. ÐÂY
LÀ KẾT QUẢ CỦA NGHIỆP GÌ? (Kissa aya.m vipaako): ý nghĩa rằng
đây là kết quả của ác nghiệp nào khiến bây giờ người
đang chịu?
Khi Trưởng lão đã dò
hỏi như vậy về những ác nghiệp mà chúng đã làm, người
vợ của vị thương nhân bất lương khi ấy bèn nói những
câu kệ này để giải thích những nghiệp được làm bởi
tất cả họ:
2. Người này trong quá
khứ đã làm hại mẹ của mình, trong khi người này là một
vị thương nhân bất lương; Người này ăn thịt và dối gạt
bằng sự nói dối.
3. Khi tôi còn làm người
ở trong cõi người, tôi là một người vợ nhà và là nữ
gia chủ của toàn thể gia đình; Dầu ở trong tầm tay, tôi
đã giấu cái này và chẳng cho đến một ai một miếng nào
của cái này, tự che đậy mình bằng cách nói dối rằng,
" không có cái gì trong ngôi nhà này cả; nếu có mà
tôi đã đem giấu thời xin cho vật thực của tôi sẽ là phẩn!".
4. Chính do kết quả của
nghiệp ấy và do bởi sự kiện rằng tôi đã nói dối nên
bữa ăn bằng gạo thơm này biến thành phẩn dành cho tôi.
5. Các nghiệp không phải
không có quả, cũng chẳng có nghiệp nào tiêu diệt, vì tôi
phải ăn và uống phẩn có những con dòi và có mùi hôi thối
này.
Chú giải:
2. Ở đây NGƯỜI NÀY
(aya.m): Bà ta nói khi chỉ về đứa con trai của Bà ta. LÀM HẠI
(hi.msati): nó tấn công bằng bạo lực, nghĩa là nó đánh bằng
một cái búa. VỊ THƯƠNG NHÂN BẤT LƯƠNG (Kuu.tavà.nijo): một
tên thương nhân vô lại, nghĩa là người mà hành nghề bằng
sự gian dối. ÐÃ ĂN THỊT (ma.msaani khaaditvaa): đã ăn, bỡi
chính nàng, món thịt được cung cấp để dùng dành cho những
người khác và dối gạt bằng sự nói dối, khi nói rằng
nàng đã không ăn nó.
3. MỘT NGƯỜI VỢ NHÀ
(aagaari.nii): nữ gia chủ. DẦU Ở TRONG TẦM TAY (santesu): dầu
có sẵn phương tiện sống và người khác đang ngã tay xin.
TÔI ÐÃ GIẤU CÁI NÀY (pariguuhaami): tôi đã che dậy cái
này, điều này được nói với sự méo mó về thời gian. TỰ
CHE MÌNH (chaademi): Nàng che mình bằng sự nói dối. "Chẳng
có cái nào ở nhà của tôi cả".
4. BIẾN THÀNH PHẨN
DÀNH CHO TÔI (guutha.m me parivattati): bữa ăn bằng gạo thơm này
biến thành, chuyển thành phẩn vì nghiệp ấy của tôi.
5. KHÔNG PHẢI KHÔNG CÓ
KẾT QUẢ (aava~njhaani): không phải vô ích, không phải không
có kết quả. CŨNG CHẲNG CÓ NGHIỆP NÀO TIÊU DIỆT CẢ. (na
hi kamma.m vinassati) chẳng có nghiệp nào tiêu diệt cả khi đã
được gieo tạo rồi mà lại không trổ quả. CÓ NHỮNG CON
GIÒI (kimiina.m) có những con giòi, đầy những họ hàng nhà
sâu bọ. PHẨN (miơha.m): Phẩn. Phần còn lại hoàn toàn tự
rõ ràng, bởi vì nó được nêu ra ở trên rồi.
Khi Trưởng lão đã
nghe qua điều mà petii ấy đã phải nói ra, vị ấy nêu lên
vấn đề ấy với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy nó
làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết Pháp cho hội
chúng đã hội họp ở đó. Thời Pháp đó đem lại lợi
ích cho những người ấy.
-ooOoo-
III.5 TIỂU
NHI QUỈ SỰ
(KUMAARA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Trí tuệ của đấng
Thiện Thệ thật vi diệu". Ðây là Tiểu nhi quỉ sự.
Câu chuyện ấy xuất phát như thế nào?
Tương truyền rằng tại
thành Saavatthi có nhiều thiện tín tự tổ chức thành một
nhóm Phật tử và đã dựng lên ở trong thành phố ấy một
Phước xá lớn và trang hoàng nó bằng những tấm vải có
đủ màu sắc. Vào lúc sáng sớm, họ thỉnh Bậc Ðạo sư và
chư Tăng đến và thỉnh chư Tăng có đức Phật dẫn đầu
ngồi trên những chỗ ngồi được trải bằng những tấm
khăn trải đắc giá, có phẩm chất cao nhất, cúng dường các
Ngài những vật thơm và những bông hoa v.v... và tổ chức một
cuộc lễ cúng dường long trọng. Khi trông thấy cảnh này
thì một người đàn ông nọ, có tâm bị che ám bởi bợn
nhơ của lòng bỏn sẻn, không thể chịu đựng sự cúng dường
như vậy, bèn nói rằng, "Thật tốt hơn tất cả nếu
những thứ này được mang vào trong đống rác còn hơn là
cho đến những tên đầu trọc nầy". Khi nghe qua điều
này thì những thiện tín, tâm của họ bị xúc động, bèn
suy xét rằng, "Quả thật trầm trọng thay ác nghiệp đã
sanh lên trong người đàn ông bằng điều mà ông ta xúc phạm
đến chư Tăng có đức Phật dẫn đầu". Họ thuật lại
vấn đề ấy với mẹ của anh ta và nói rằng, "Bà nên
đi và sám hối đức Thế Tôn và những thinh văn đệ tử của
Ngài". "Tốt lắm", Bà ta đồng ý và khi đã quở
trách đứa con trai của bà ta, đe doạ hắn, bà đi đến đức
Thế Tôn và chúng Tỳ kheo và sám hối, thú nhận điều lầm
lỗi mà con trai của bà đã vị phạm, và cúng dường đức
Thế Tôn và chư Tăng trong bảy ngày bằng những vật thí
có món cơm dẻo.
Chẳng bao lâu sau, đứa
con trai của bà ta chết và sanh vào trong bào thai của một
cô gái điếm sống bằng những việc làm nhơ bẩn. Bấy giờ
nàng nhận ra rằng nó là một đứa con trai ngay khi nó vừa
sanh ra và sai người bỏ nó trong bãi tha ma. Nó nằm ở đó,
được bảo vệ bởi năng lực của những việc phước của
nó và, không bị quấy rầy bởi ai cả, ngủ an vui tựa như
trong lòng mẹ của hắn. Người ta nói rằng những những vị
chư Thiên đã bảo vệ hắn. Rồi khi đến rạng sáng, đức
Thế Tôn đã xuất khỏi đại bi định và đang dò xét thế
gian bằng Phật nhãn của Ngài, Ngài trông thấy đứa bé bị
bỏ hoang trong bãi tha ma và vào lúc mặt trời mọc, đi đến
bãi tha ma ấy. Dân chúng kéo đến khi nói rằng, " Bậc
Ðạo sư đã đến đây; chắc Ngài có mục đích nào đó
ở đây". Ðức Thế Tôn nói với hội chúng đã hội hợp
ở đó rằng, "đứa bé này không nên bị coi thường;
cho dù bây giờ nó bị bỏ trong bãi tha ma này trong trạng
thái bơ vơ, nhưng trong tương lai nó sẽ được sự thù thắng
cao tột cả trong đời sống này và cả trong đời sống mai
sau". Ðược hỏi bởi những người ấy, "Bạch đức
Thế Tôn, nó đã làm nghiệp gì trong kiếp quá khứ";
Ngài bèn giải thích nghiệp mà đứa bé đã làm và sự vinh
quang mà nó sẽ đạt được trong tương lai, bằng những câu
kệ bắt đầu rằng:
"Vinh
dự cao tột đang được thể hiện bởi dân chúng đến chư
Tăng có đức Phật dẫn đầu trong khi người kia thì có sự
lầm lẫn trong tâm và có lời nói lời thô lỗ, những lời
nói khiếm nhã".
Ngài thuyết giảng
chánh pháp thích hợp với những căn tánh của chúng sanh
đang hội họp ở đó và sau đó thuyết diệu pháp mà chính
chư Phật đã giác ngộ (khổ, tập, diệt, đạo). Vào lúc kết
thúc của thời Pháp ấy, tuệ quá sanh lên trong tám mươi bốn
ngàn chúng sanh. Và trước mặt đức Thế Tôn một người
đàn ông giàu có, có đến tám mươi ko.ti, đã nhận nuôi đứa
bé khi nói rằng, "Nó sẽ là con của tôi." Ðức Thế
Tôn nói rằng, "Ðứa bé này được bảo vệ bởi tài sản
lớn như vậy và được sự giúp đỡ của mọi người".
Và Ngài đi về tinh xá, và đúng lúc, khi người đàn ông
giàu có chết, cậu ta kế thừa tài sản được để lại bằng
di chúc của ông ta và khi tổ chức công việc trong gia đình,
cậu ta trở thành một gia chủ có tài sản lớn trong cùng
thành phố ấy và hăng say làm những việc phước như bố
thí v.v... Rồi một hôm nọ, các vị Tỳ kheo bắt đầu bàn
luận với nhau trong giảng đường chánh Pháp rằng, "Quả
thật kỳ diệu thay về lòng bi mẫn của Bậc Ðạo sư đối
với chúng sanh; Ðúng vậy, ngay cả đứa bé ấy là kẻ mà
lúc bấy giờ đang ở trong trạng thái bơ vơ nay lại thọ
hưởng sự vinh quang vĩ đại và đang thực hành những việc
phước cao cả".
Khi nghe qua điều này,
Bậc Ðạo sư trả lời rằng, "Này các Tỳ kheo, đây
không phải là toàn thể chừng mức của sự vinh quang của
cậu ta; vì quả thật vậy, vào lúc thân hoại mạng chung, vị
ấy sẽ tái sanh làm con của Sakka, vua của chư thiên, trong
cõi ba mươi ba và được sự vinh quang lớn của chư Thiên.".
Khi nghe qua điều này, các vị Tỳ kheo và dân chúng bèn tán
dương trí tuệ vô song của Bậc Ðạo sư, người ta nói rằng,
"khi đức Thế Tôn toàn tri trông thấy điều cần được
làm thì Ngài đi đến đó, giúp đỡ người mà đã bị bỏ
đi trong bãi tha ma hôi hám ấy ngay khi cậu ta mới sanh
ra", và nói về biến cố liên quan đến người ấy
trong suốt cuộc đời của họ. Những vị kết tập Tam tạng
nói những câu kệ để giải thích vấn đề này:
1. "Trí tuệ của
đức Thiện Thệ thật vị diệu; Bậc Ðạo sư đã trả lời
theo cá nhân: Dầu có tràn đầy phước báu nhưng có người
trở thành hạ sanh, trong khi dầu có phước báu giới hạn
nhưng có người lại trở nên cao quí.
2. Ðứa bé này bị bỏ
rơi trong bãi tha ma, vẫn sống suốt đêm bằng sự ẩm ướt
của ngón tay cái: Chẳng phải những quỉ Doạ Xoa hay những
loài bò sát mà có thể quấy rầy đứa bé, là một người
đã làm những việc phước rồi.
3. Tuy nhiên, những con
chó liếm chân của nó trong khi những con quạ và những con
giả can thì vây quanh nó; những đàn chim lấy đi những thứ
nhơ uế của sự sanh con, trong khi những con quạ thì lấy
đi ghèn từ con mắt của nó.
4. Không ai đem đến
cho nó sự bảo vệ, cũng chẳng cho nó thuốc men hay sự hun
khói bằng hạt cải, họ cũng chẳng chú ý những sự liên
kết của các vì sao hay thậm chí rải ra tất cả những hạt
ngũ cốc.
5. Bị rơi vào trong trạng
thái khốn khổ như bị mang đi vào lúc ban đêm và bị bỏ
rơi trong bãi tha ma và, run rẫy như khúc bơ tươi, đời sống
không chắc chắn, tuy nhiên vẫn tồn tại.
6. Người được chư
Thiên cung kính và loài người trông thấy vị ấy; vừa khi
trông thấy nó, Bậc vô thượng tri bèn công bố rằng,
"Ðứa bé này sẽ thành người thuộc gia đình cao cả
nhất của thành phố này do bởi tài sản của nó".
7. "Nó đã thọ
trì điều gì, bấy giờ phạm hạnh của nó là gì? do kết
quả của thiện hạnh nào khiến sau khi đi đến cảnh ngộ
như vậy, nó lại có thể tiếp tục hưởng một tiềm năng
như thế này?"
Chú giải:
1. Ở đây VI DIỆU
(Accheraruupa.m): có bản chất thù diệu. TRÍ TUỆ CỦA ÐỨC
SUGATA (sugatassa ĩàịa.m): Trí tuệ của Ðức Chánh biến Tri
không được san sẽ bởi những người khác - người ta nói
về sự toàn giác của Ngài như trí tuệ biết về những
khuynh hướng hay những căn tánh của một người v.v.. làm
sao mà trí tuệ này không ở trong tâm của những người khác?
Có người nói rằng, "Bậc Ðạo sư trả lời theo cá
nhân", Ðiều này chỉ cho thấy rằng Duy chỉ qua giáo
Pháp của Ngài mà bản tánh kỳ diệu về trí tuệ của
Ngài trở nên sáng tỏ. Rồi để chứng minh phương Pháp trả
lời này, người ta nói rằng, "dầu có đầy đủ phước
báu nhưng vẫn tại trở thành hạ sanh, dầu có phước giới
hạn nhưng vẫn có người trở thành cao quí". Ðây là
ý nghĩa: Dầu có đầy những thiện Pháp, một số cá nhân
ở đây trở thành thấp hèn về dòng dõi v.v... Do bởi một
ác nghiệp thuộc loại đã được duy trì, đã tiềm ẩn
trong tâm, trong khi dầu có phước trong giới hạn, dầu có
ít phước hơn, nhưng một số chúng sanh, do gặp được mảnh
ruộng phì nhiêu v.v... nên đã trở thành cao quí do bởi oai
lực của phước ấy.
2. TRONG BÃI THA MA
(Sìvathikaa ya): trong nghĩa trang. BẰNG SỰ ẨM ƯỚT CỦA NGÓN
TAY (A"ngu.t.thasnehena): Bằng sự ẩm ướt mà đến từ
ngón tay, nghĩa là bằng sửa mà chảy ra từ ngón tay của vị
Devataa, CHẲNG PHẢI QUỈ DOẠ XOA HAY LOÀI BÒ SÁT (na
yakkhabhuutaa na sirimsapaa vaa): chẳng phải những loài quỉ
Pisaaca hay những loại quỉ dạ xoa hay những loài bò sát hay
bất cứ loài nào mà bò khi di chuyển chỗ này chỗ kia. CÓ
THỂ QUẤY RẦY (na vihe.thayeyyu.m): có thể đàn áp tấn
công.
3. LIẾM HAI BÀN CHÂN CỦA
NÓ (palihi.msu paade): liếm hai bàn chân của nó bằng những
cái lưỡi của chúng. NHỮNG CON QUẠ (Dha"nkaa): NHỮNG
CON QUẠ (Kaakaa): NHỮNG CON GIẢ CAN VÂY QUANH NÓ (si.ngaalaa
parivattayanti): vây quanh nó một cách liên tục để bảo vệ
nó, để duy trì trạng thái về sức khỏe của nó, khi nghĩ
rằng, "Ðừng để ai làm hại đứa bé này!" NHỮNG
VẬT BẤT TỊNH CỦA SỰ SANH ÐẺ (Gabbhaasaya.m): những chất
nhơ của sự sinh đẻ. NHỮNG ÐÀN CHIM (pakkhiga.naa): Những
đàn chim như kênh kênh, diều hâu v.v... LẤY ÐI (haranti): tha
đi. CHẤT TỪ HAI CON MẮT CỦA NÓ (Akkhi mala.m): chất dơ được
tiết ra từ hai con mắt của nó.
4. KHÔNG AI (Keci): không
ai thuộc về loài người, vì những vị phi nhân đã bảo vệ.
THUỐC MEN (Osadha.m): thuốc giải độc đem lại sức khỏe
cho cả lúc ấy và trong tương lai. HAY SỰ HUN KHÓI BẰNG HẠT
CẢI (Saasapadhuupana.m vaa): sự hun khói mà người ta làm bằng
hạt cải để bảo vệ trong lúc đứa bé mới sanh ra; Người
ta giải thích rằng không có việc nào được làm ngay cả
điều này dành cho nó. NGƯỜI TA THẬM CHÍ CŨNG KHÔNG CHÚ Ý
ÐẾN SỰ GIAO HỘI CỦA CÁC VÌ SAO: Nakkhattayoga.m pina
uggahesu"m = nakkhattayutta.m pi na ugga.nhi.msu (thể văn phạm
hoán chuyển), nghĩa là không ai ném số tử vi của cậu bé
dầu bằng cách như là, người này sanh ra dưới một dấu
hiệu của hoàng đạo, dưới một ngôi sao đó đó, vào một
ngày âm lịch đó đó và vào thời gian chính xác này"
HAY NGAY CẢ RẢI RA TẤT CẢ HẠT NGŨ CỐC (Na sabbadha~n~naani
pi aakiri.msu). Người ta rải ngũ cốc như lúa v.v... được
trộn chung với dầu hạt cải để tạo nên một hành động
may mắn, như một loại thuốc giải độc đối với bịnh tật,
nghĩa là họ không làm điều này cho cậu ta.
5. NHƯ VẬY (Etaadisa.m)
như thế. BỊ BỎ RƠI VÀO TRONG TÌNH TRẠNG KHỐN KHỔ HOÀN
TOÀN (Uttamakicchapatta.m). Gặp phải tình trạng khốn khổ khốc
liệt, rơi vào cảnh đau đớn cùng cực. NHƯ BỊ MANG ÐI
VÀO LÚC BAN ÐÊM: Rattaa bhata.m = rattiya.m àbhata.m (phối hợp
cách). NHƯ CỤC BƠ TƯƠI (noniitapi.n.da.m viya): giống như cục
bơ tươi. Run rẫy (Pavedhamaana.m): run rẫy vì tình trạng còn
yếu của nó. Không chắc chắn (sasa.msaya.m) đầy hoài nghi
do bởi tánh không chắc chắn rằng liệu cậu bé có sống
hay không. TUY VẬY VẪN CÓ ÐỜI SỐNG TỒN TẠI
(jiivitasaavasesa.m) tuy vậy, với chỉ mạng sống mỏng manh nhất
vẫn đang tồn tại do bởi sự vắng mặt của những vật
chất mà đối với chúng sanh là phương tiện để duy trì mạng
sống.
6. SẼ TRỞ THÀNH NGƯỜI
TRONG GIA ÐÌNH CAO CẢ NHẤT DO TÀI SẢN CỦA VỊ ẤY
(aggakuliko bhavissati bhogato): nghĩa là cậu ta sẽ trở thành
người trong gia đình cao cả nhất, trong gia đình tốt nhất,
do bởi tài sản của vị ấy, do bởi của cải của vị ấy.
Câu kệ bắt đầu bằng: "Sự thọ trì nào là của vị
ấy" được nói đến bởi những thiện tín, về nghiệp
làm bởi cậu ta, được hỏi bởi những người ở trong bãi
tha ma ấy - đây là cách nên được hiểu.
7. Ở đây CÁI GÌ LÀ CỦA
VỊ ẤY: ki'ssa = kim assa (phối hợp cách). Sự thọ trì
(vata.m) thực hiện một phận sự. Lại một lần nữa về
cái gì? (Kissa) thuộc loại thiện hạnh nào, phận sự và phạm
hạnh nào?- đây là cách nên được hiểu, sự biến cách của
nó đã bị hoán chuyển. NHƯ VẬY (etaadisa.m): như sanh vào
trong bào thai của một cô gái điếm và bị bỏ rơi trong bải
tha ma. MỘT CẢNH NGỘ (vyasana.m ): sự rủi ro. NHƯ VẬY
(taadisa.m): rất to lớn, nghĩa là, được tồn tại suốt cả
đêm bằng sự ẩm ướt của ngón tay v.v.... Cũng như cậu bé
này sẽ được trở thành người trong gia đình cao cả nhất
trong thành phố này v.v... TIỀM LỰC (iddhi.m) chỉ về sự
vinh quang của chư thiên, về năng lực thần thông của một
vị chư thiên.
Bấy giờ đức Thế Tôn,
khi được hỏi theo cách ấy bởi những thiện tín ấy, bèn
trả lời theo đó; những vị kiết tập tam tạng nói lên bốn
câu kệ để chứng minh điều này.
8. Vinh dự cao tột
đang được thể hiện bởi những người dâng đến chư
Tăng có đức Phật dẫn đầu, trong khi cậu ta thì có sự lầm
lạc trong tâm và nói những lời thô lỗ, khiếm nhã.
9. Khi cậu ta đã loại
trừ ý nghĩ ấy và sau đó có được sự hoan hỉ và lòng tịnh
tín, cậu ta đã hầu hạ Ðức Tathaagata mà đang ngụ ở
Jetavana, trong bảy ngày, bằng món cơm dẻo.
10. Ðó là sự thực
hành của cậu ta, đó là phạm hạnh của cậu ta, đây là kết
quả của thiện hạnh ấy, sau khi đã đi đến một cảnh ngộ
như vậy, cậu ta có thể đi tiếp để hưởng một tiềm lực
như thế này.
11. Sau khi tồn tại
ngay ở đây trong một trăm năm, được cung cấp bằng tất
cả mọi điều mong muốn mà vị ấy muốn, vào lúc thân hoại
mạng chung, ra đi cọng trú với vaasava trong cuộc sống kế
tiếp".
Chú giải:
8. Ở đây BỞI NHỮNG
NGƯỜI DÂN (sanataa): Bởi tập thể những người hình thành
nhóm thiện tín ấy - Ðây là ý nghĩa. KHI (tatta): Vào lúc tỏ
sự tôn kính. Vị ấy (tassa): cậu bé ấy CÓ SỰ LẦM LẠC
TRONG TÂM (cittassa ahu a~n~nathata.m: trong kiếp trước tâm của
cậu ấy có bản chất lầm lạc và cậu ta thiếu sự tôn
kính và sự tin tưởng. KHIẾM NHÃ (asabbhi.m): cậu ta nói
thô lỗ và không đáng được nghe giữa những người có giới
đức.
9. NGƯỜI ẤY (so): Người
này (vừa mới được nêu ra). Ý nghĩ ấy (ta.m vitakka.m): ý
nghĩ ác. ÐÃ LOẠI TRỪ (pativinodiyitvaa): Ðã làm tiêu tan do
bởi sự khuyên can từ mẹ của cậu ta. ÐÃ LẤY ÐƯỢC SỰ
HOAN HỶ VÀ LÒNG TỊNH TÍN (patipasaada.m patiladdhaa) cậu ta đã
dành được, cậu ta đã làm cho sanh lên, hoan hỉ và lòng tịnh
tín. CẬU TA HẦU HẠ BẰNG MÓN CƠM DẺO (yaaguyaaupa.t.thaasi):
cậu ta hầu hạ bằng những vật thí gồm các món cháo.
TRONG BẢY NGÀY (sattaratta.m): trong bảy ngày.
10. ÐÓ LÀ SỰ THỌ
TRÌ CỦA CẬU TA, ÐÓ LÀ PHẠM HẠNH CỦA CẬU TA (ta'ssà
vata.m ta.m pana brahmacariya.m): Lòng tịnh tín trong tâm và vật
thí ấy theo cách đã được giải rõ bởi tôi ở trên là sự
thọ trì của người này cùng với phạm hạnh của vị ấy,
nghĩa là chẳng có gì khác ngoài điều này.
11. SAU KHI TỒN TẠI
(thatvaana): Sau khi vị ấy đã tồn tại ngay ở đây; trong
cõi người cho đến cuối cuộc đời của vị ấy. TRONG ÐỜI
SỐNG KẾ TIẾP (abhisa.mparaaya.m) trong kiếp sống kế tiếp của
vị ấy. VỊ ẤY SẼ RA ÐI CỘNG TRÚ VỚI VAASAVA (sahavyata.m
gacchati vaasavassa): vị ấy sẽ từ giã cõi đời và sống
chung với sakha, chúa của chư thiên, làm con trai của vị ấy;
đây là câu nói ở thì hiện tại mang ý nghĩa của thì tương
lai. Phần còn lại đã tự rõ ràng.
-ooOoo-
III.6 QUỈ
SỰ SERINII
(SERINII PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Ngươi trần truồng
và có hình tướng xấu xí". Pháp thoại này được Bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên
quan đến nữ Ngạ quỉ Serinii .
Tương truyền rằng tại
Hatthinipura, trong vương quốc của những người kuru, có một
cô gái điếm tên là Serinii . Bấy giờ có những vị Tỳ
kheo từ chỗ này chỗ nọ kéo đến đó với mục đích làm
lễ Uposatha và trở thành một hội chúng đông đảo những
vị Tỳ kheo. Khi trông thấy cảnh này, những người dân sửa
soạn những vật thí như mè, gạo v.v.... thục tô, bơ tươi
và mật ong v.v... và tổ chức một buổi lễ cúng dường lớn.
Bấy giờ vào thời ấy, cô gái điếm ấy chẳng có đức
tin hay lòng tịnh tín, và tâm của nàng bị che ám bởi bợn
nhơ của lòng bỏn sẻn. Mặc dù dân chúng đã ra sức thuyết
phục nàng khi nói rằng, "Hãy đến và tỏ lòng tuỳ hỷ
của cô với sự bố thí vật thực này!" Nhưng nàng vẫn
tỏ ra hoàn toàn không có lòng tịnh tín khi nói rằng,
"Có lợi ích gì trong việc bố thí đến những vị Sa môn
trọc đầu này? Tại sao tôi phải cho đi dầu chỉ một vật
nhỏ nhặt?" Ðúng lúc nàng chết và tái sanh làm một
petii trong một hào rãnh của một thị trấn của biên giới
nọ. Bấy giờ, một Thiện Nam nọ của vùng Hatthinipura đã
đi đến thành phố ấy để buôn bán và trải qua suốt đêm,
lúc gần sáng, anh ta đi đến cái hào ấy để làm một
công việc nọ. Khi nàng trông thấy anh ta ở đó, nàng bèn
nhận ra anh ta và, khi đứng không cách xa, tự hiện ra trần
truồng với thân chỉ có da và xương còn lại mà thôi, một
cảnh tượng nhòm gớm vô cùng. Khi anh ta trông thấy nàng,
anh ta bèn hỏi nàng câu kệ này:
1. "Nàng trần truồng
và có hình tướng xấu xí, gầy ốm với những đường gân
lộ ra, này kẻ gầy ốm với những sườn lộ ra, bây giờ
ngươi là ai mà đứng ở đây?"
Nàng cũng nói cho anh ta
biết về mình về bằng câu kệ này:
2. "Thưa ông, tôi
là một nữ Ngạ quỉ, đã đi đến kiếp sống đau khổ
trong cõi Yama . sau khi đã tạo ác nghiệp, tôi đã ra đi từ
đây đến cõi Ngạ quỉ".
Anh ta bèn hỏi nàng một
lần nữa về nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:
3. "Bây giờ ác
nghiệp nào được làm bởi nàng, bằng thân, khẩu hoặc ý?
do kết quả của nghiệp nào khiến nàng đi từ đây đến cõi
Ngạ quỉ?"
Và rồi nàng bèn kể
cho anh ta nghe về nghiệp mà nàng đã tạo và, thêm nữa, điều
cần được làm bởi anh ta để đem lại lợi ích cho nàng,
bằng sáu câu kệ này:
4. "Tôi đã kiếm
những đồng tiền ở những nơi tắm công cộng; dầu những
vật thí ở trong tầm tay nhưng tôi đã không làm chỗ nương
tựa cho tôi.
5. Bị khát bỏng, tôi
đi đến con sông, nhưng nó trở nên trống rỗng; giữa sức
nóng tôi đi đến bóng mát nhưng nó trở nên bị thiêu đốt
bởi mặt trời.
6. Và một cơn gió như
ngọn lửa thổi lên người tôi, đốt cháy tôi, nhưng tôi
đáng bị như thế này, thưa ông. Và sự đau khổ khác còn
khinh khủng hơn thế này.
7. Khi ông đi đến
Hatthinipura, ông nên nói với mẹ tôi rằng: "tôi đã
trông thấy con gái của bà đã đi đến kiếp sống đau khổ
trong thế giới của Yama . Sau khi đã làm ác nghiệp, nàng đã
đi từ đây đến cõi Ngạ quỉ.
8. Ở đây có cái được
để dành nhưng không được công bố bởi tôi. Khoảng bốn
trăm ngàn ở dưới chiếc giường.
9. Từ món tiền này,
bà nên bố thí giùm cho tôi; bà cũng có thể dùng một phần
số tiền ấy để cung cấp cho sự nuôi mạng của bà, nhưng
khi bà đã cho những vật thí thì mẹ của tôi nên hồi hướng
phước thí ấy cho tôi; thời tôi sẽ hạnh phúc và có được
dồi dào những điều mà tôi muốn."
Chú giải:
4. Ở đây TẠI NHỮNG
CHỖ TẮM CÔNG CỘNG (aanva.tesu titthesu): tại những chỗ tắm
như những con sông hay những hồ nước v.v... Mà không được
kiểm soát bởi ai cả, tại những chỗ như vậy là những
chỗ mà người ta tắm rửa thân mình: TÔI TÌM KIẾM NHỮNG
ÐỒNG TIỀN NHỎ (vicini adhamaasaka.m): bị chế ngự bởi
lòng tham lam, tôi tìm kiếm Dầu những đồng tiền nhỏ nhặt
nhất khi nghĩ rằng, "ở đây có lẽ ta có thể kiếm một
cái gì đó mà mọi người đã để xuống và rồi đã
quên." Hay nói cách khác, NHỮNG CHỖ TẮM CÔNG CỘNG
(anaavatesu titthesu): Nơi mà những vị Sa-môn và những
Bà-la-môn được tìm thấy - "Những chỗ tắm ấy"
không được kiểm soát bởi sự đi đến của bất ai và
là chỗ cung cấp nhưng phương tiện để làm thanh tịnh hạnh
kiểm và làm thanh tịnh những khuynh hướng của chúng sanh.
TÔI TÌM KIẾM NHỮNG ÐỒNG TIỀN NHỎ (vicini addhamaasaka.m): Với
tâm bị chế ngự bởi bợn nhơ của lòng bỏn sẻn và
không cho cái gì đến ai cả, đặc biệt tôi tìm kiếm ngay
cả những đồng tiền nhỏ và không tích lũy điều phước
nào. Vì lý do này mà nàng nói rằng, "dầu những vật
thí ở trong tầm tay, nhưng tôi vẫn không làm chỗ nương tựa
cho tôi".
5. BỊ KHÁT BỎNG
(tasitaa): Bị khát. Trống rỗng (rittakaa); Dầu một con sông
đang chảy đầy đến tràn ra để một con quạ có thể uống
nước từ đó, nó lại trở nên trống rỗng và không có nước,
trở nên chỉ có cát, vì ác nghiệp của tôi. GIỮA SỨC
NÓNG (u.nhesu): Trong những lúc mà trời nóng. NÓ TRỞ NÊN BỊ
THIÊU ÐỐT BỞI MẶT TRỜI (aatapo parivattati): Một chỗ có
bóng mát, khi tôi đi đến thì nơi ấy trở nên bị thiêu đốt
bởi sức nóng của mặt trời.
6. NHƯ NGỌN LỬA
(Aggiva.n.no): Chạm vào như ngọn lửa. Vì lý do này mà nàng
nói rằng nói rằng, 'thổi vào người của tôi khi thiêu đốt
tôi'. NHƯNG TÔI ÐÁNG BỊ ÐIỀU NÀY, THƯA ÔNG (eta~n ca bhante
arahaami): Nàng nói với vị thiện nam ấy một cách cung kính
khi xưng hô với vị thiện nam ấy là 'thưa ông, nhưng tôi
đáng bị đau khổ này như dã kể trên về sự đói khát
v.v... Thưa Ngài, và nỗi khổ khác còn kinh khủng hơn thế nữa,
còn khốc liệt hơn thế nữa, vì đã làm một ác nghiệp như
vậy - đây là ý nghĩa.
7. Ông nên nói: vajjesi
= vadeyyaasi (thể văn phạm hoán chuyển).
8. Ở ÐÂY CÁI ÐƯỢC
ÐỂ DÀNH (NHƯNG) KHÔNG ÐƯỢC CÔNG BỐ (ettha nikkhita.m
anakhaata.m): chừng mức của cái được để dành không được
nói đến. Rồi nàng nói rằng, 'chừng bốn trăm ngàn ở dưới
gầm giường,' chỉ về số lượng và chỗ mà nó đã được
để vào. Ở đây, GIƯỜNG (palla~nkassa): Chiếc giường mà
trước kia nàng đã nằm ở trên đó.
9. TỪ CÁI NÀY (tato):
Hãy lấy một phần từ của cải để dành ấy và cho những
vật thí đại diện cho tôi. CỦA BÀ TA (tassaa): Mẹ của
tôi.
Khi Petii ấy đã nói như
vậy, vị thiện nam liền đồng ý với điều mà nàng đã
nói. vị ấy làm xong công việc của mình ở đó, đi đến
Hatthinipura và thuật lại vấn đề với mẹ của nàng. Ðể
giải rõ sự kiện này, những vị kiết tập Tam Tạng nói rằng:
10. "Tốt lắm,"
Vị ấy đồng ý và đi đến hatthinipura, nói với mẹ của
nàng rằng: "Tôi đã trông thấy con gái của bà đã đi
đến kiếp sống đau khổ trong thế giới của Yama. Sau khi
đã làm ác nghiệp, nàng đã ra đi từ đây đến cõi của
những ngạ quỉ.
11. Khi ấy nàng ra sức
thuyết phục tôi khi nói rằng, "ông nên nói với mẹ của
tôi rằng, Tôi đã trông thấy con gái của bà đã đi đến
kiếp sống đau khổ trong thế giới của Yama. Sau khi đã
làm ác nghiệp nàng đã ra đi từ đây đến cõi của những
Ngạ quỉ.
Ở đây có cái được
để lại nhưng không được công bố bởi tôi - Chừng bốn
trăm ngàn ở dưới gầm giường.
13. Từ món tiền này,
bà nên bố thí vật thực giùm cho tôi, số tiền ấy cũng có
thể nuôi mạng cho bà. Và khi bà đã cho ra những vật thí,
mẹ của tôi nên hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi -
Rồi tôi sẽ được hạnh phúc và có dồi dào những gì mà
tôi mong ước.
14. Nhân đó bà ta cho
ra những vật thí và hồi hướng phước thí ấy đến cho nàng
- và Petii ấy được hạnh phúc và có thân trông xinh đẹp.
Chú giải:
Những lời này có thể
được hiểu dễ dàng.
Khi đã nghe qua điều này,
mẹ của nàng bèn cho ra những vật thí đến chúng tăng và
hồi hướng những vật thí này đến cho nàng. Ðược an trú
trong sự thù thắng về những phương tiện kiếm sống mà
nàng đã thọ lãnh theo cách này, nàng hiện ra trước mặt của
mẹ nàng và giải thích nguyên nhân của nó. Mẹ của nàng
báo tin cho các vị Tỳ kheo biết và các vị Tỳ kheo nêu
lên vấn đề ấy với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn
đề ấy là nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết
pháp đến hội chúng đã tụ họp ở đó. Thời pháp ấy
đem lại lợi ích cho hội chúng ở đó.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |