[2.4]
II.9 QUỈ
SỰ VỀ ANKURA
(A"NKURA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Chính mục đích
ấy mà chúng tôi đang đi".
Pháp thoại này được
Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở
Saavatthi, liên quan đến một peta tên là A"nkura . Trong trường
hợp này, A"nkura đúng ra không phải là một Peta, nhưng
vì những việc làm của vị ấy liên quan đến một Peta; Do
đó câu chuyện này được gọi là A"nkura quỉ sự.
Ðây là câu chuyện tóm tắt.
Trong thành phố
Asita~njana ở vùng Ka.msabhoga thuộc xứ Uttaraapatha, có sanh đến
cho upasaagara, đứa con trai của vua Mahaasaagara, là người cai
trị vương quốc Uttaramadhuraa, và đến cho Devagabbhaa, đứa
con gái của Mahaaka.msaka (những đứa bé sau đây:) một đứa
con gái là A"njanadevii và mười người anh của nàng là
Vaasudeva, Baladeva, candadeva, suriyadeva, Aggideva, varunadeva,
Pajjuna, Ajjuna, gha.tapa.n.dita và A"nkura - Cả thảy là mười
một vị Sát Ðế Lỵ. Bắt đầu từ kinh đô Asita~njana,
Vaasudeva và những người em của vị ấy, bằng những cái
đĩa, đã tiêu diệt các vị vua trong sáu mươi ba ngàn thành
phố của tòan cõi Diêm Phù Ðề, kết thúc tại Dvaaravatii .
trong khi đang trú ngụ tại Dvaaravatii, họ chia vương quốc
ra thành mười phần. Tuy nhiên họ đã quên phần cho đứa
em gái A~njanadevii của họ, và khi sực nhớ đến nàng, họ
bèn nói rằng, "chúng ta sẽ chia nó thành mười một phần",
nhưng A"nkura, là đứa con trai nhỏ nhất nói rằng,
"Các anh có thể cho nàng phần của tôi. Tôi sẽ kiếm sống
bằng nghề buôn bán, và các anh có thể gởi đến cho tôi
những món tiền thuế thu được từ những vùng của các
anh". "tốt lắm", họ đồng ý và sau khi đã cho
phần chia của A"nkura đến em gái của họ, thì chín vị
Vua cùng sống chung tại Dvaaravatii . Tuy nhiên A"nkura thì
mãi mê trong việc buôn bán và thường xuyên tổ chức những
cuộc bố thí lớn. Bấy giờ, vị ấy có một người nô lệ
làm viên giữ kho của vị ấy và là người có sự vui
thích trong tâm. Với lòng tịnh tín trong tâm, A"nkura kiếm
về một người con gái của một gia đình tốt và gả nàng
cho vị ấy. Vị ấy chết ngay khi đứa con trai của vị ấy
đang sanh ra và A"nkura, vào lúc sanh, đã cho cậu bé vật
thực và sự hưởng công mà vị ấy đáng ra phải trả cho
cha của nó. Rồi khi cậu bé đến tuổi trưởng thành, vấn
đề sanh lên trong hoàng gia rằng, liệu cậu ta có phải là
một nô lệ hay không. Khi A~njanadevii nghe tin này, nàng nêu gương
con bò cái và giải thoát cho anh ta khỏi tình trạng nô lệ
khi nói rằng, "Ðứa con trai của một người đàn bà tự
do thì chính người ấy cũng là người tự do". Nhưng chàng
trai vì xấu hổ, không thể cam tâm sống ở đó được, bèn
đi đến kinh đô Bheruva, là nơi mà anh ta kết hôn với đứa
con gái của một người thợ may, và kiếm sống bằng nghề
thợ may. Lúc bấy giờ, trong kinh đô Bheruva có một thương
nhân giàu có tên là Asayhamahaase.t.thi, là người cúng dường
những vật thực to lớn đến các Sa môn và Bà la môn, những
người nghèo khổ, những người sống lang thang, những người
lữ hành và những người ăn xin. Người thợ may đầy hoan
hỷ và hạnh phúc, thường đưa lên cánh tay phải của ông
ta và chỉ về chỗ ngụ của Asayhamahaase.t.thi cho những người
mà không biết ngôi nhà của vị thương nhân giàu có, khi
nói rằng, "Hãy đi đến đó và kiếm bất cứ cái gì
có thể dùng được".
Những việc làm của
ông ta được ghi lại trong kinh tạng. Trải qua một thời
gian dài, ông ta chết và sanh trong một khu rừng hoang, làm một
vị Devataa trong một cây đa, có cánh tay phải cho ra những
ước muốn. Bấy giờ cũng tại Bheruva, có một người đàn
ông chuyên trông coi những vật thí của Asayhase.t.thi, nhưng
chính ông ta thì không có niềm tin cũng không có lòng tịnh
tín, có tà kiến và không có lòng kính trọng trong việc phước.
Khi ông ta chết ông ta sanh làm một Ngạ quỉ không cách xa
chỗ ngụ của vị devaputta ấy. Những việc mà ông ta đã
làm được ghi lại trong kinh tạng. Khi Asayhaase.t.thi chết
ông ta ra đi cọng trú với sakka, vua của chư Thiên, trong
cõi ba mươi ba.
Bấy giờ sau một thời
gian, a.nkura mang những hàng hoá của ông ta trên năm trăm cỗ
xe, một vị Bà la môn nọ cũng mang theo hàng hoá của ông ta
trên năm trăm cỗ xe. V?i một ngàn cỗ xe này, hai người đi
vào con đường trong một khu rừng hoang và bị lạc đường.
Sau khi đi lang thang quanh quẩn ở đó trong nhiều ngày, họ hết
cỏ, nước và vật thực. A"nkura sai những sứ giả cỡi
ngựa đi tìm nước trong bốn hướng. Rồi vị yakkha ấy, với
cánh tay mà có thể ban ra những ước muốn, trông thấy cảnh
ngộ mà họ đã lâm vào và khi nhớ đến một vài sự giúp
đỡ mà A"nkura đã làm cho vị ấy trong những ngày trước
kia, bèn nghĩ rằng, "À được, ta phải giúp vị ấy?"
và chỉ cho vị ấy trông thấy cây đa, nơi mà vị chư Thiên
ấy sống. Tương truyền rằng, cây đa ấy có nhiều nhánh
và lá sum suê, với những tàn lá dày đặc cho bóng mát và
có vô số ngàn chồi non dài một do tuần, bề rộng và bề
cao cũng vậy. A"nkura vô cùng sung sướng khi trông thấy
nó và cắm trại ở dưới gốc cây ấy. Vị Yakkha đưa lên
cánh tay phải và trước hết cho mọi người uống nước no
đủ, sau đó cho đến bất cứ ai bất cứ cái gì cần đến.
Khi những người ấy đã được làm thoả mãn bằng nhiều
loại đồ ăn và thức uống v.v... Như họ mong ước và hết
mệt mỏi do đi đường xa, vị thương nhân Bà la môn ấy, bằng
sự suy luận bất chánh, đã suy nghĩ rằng, khi chúng ta đã
đi từ đây đến kampija để tìm kiếm của cải, thời
chúng ta sẽ làm gì? Nhưng nếu bây giờ chúng ta bắt vị
Yakkha này bằng một mưu mẹo nào đó và để vị ấy vào
trong xe thời chúng ta mới có thể trở lại chính thành phố
của chúng ta". Với ý nghĩ này trong tâm vị ấy nói
lên hai câu kệ để cho a.nkura biết mưu kế của vị ấy:
1. Xét thấy rằng
chúng ta đi đến Kamposa vì mục đích tầm cầu của cải,
nhưng muốn đạt được mục đích phải nhờ vào vị Yakkha
hằng ban cho những điều mong ước, sống ở cây đa này; vậy
chúng ta hãy đem theo vị yakkha này!
2. Khi chúng ta đã mang
được vị Dạ xoa này đi, hoặc là do sự bằng lòng của vị
ấy hoặc bằng sự cưỡng bách, và để vị ấy vào trong một
cỗ xe, thời chúng ta có thể đi nhanh đến Dvaaraka .
Chú giải:
1. Ở đây, MỤC ÐÍCH
MÀ NHỜ ÐÓ (yassa atthaaya): Lý do mà nhờ đó. ÐẾN KAMBOJA
(Kamboja.m): đến vương quốc của kamboja . NHỮNG NGƯỜI TẦM
CẦU CỦA CẢI (dhanahaaraka) tìm cách để kiếm của cải bằng
sự mua bán hàng hoá. HẰNG CHO RA NHỮNG ÐIỀU MONG ƯỚC
(kaamadado): Hằng cho ra bất cứ cái gì được ưa thích.
YAKKHA (yakkho): Deva putta. Chúng ta hãy đem theo (Niiyaamase =
Nayissaama) (Thể văn phạm hoán chuyển).
2. VỚI SỰ BẰNG LÒNG
CỦA VỊ ẤY (....): sadhukena (....): Bằng sự nài xin vị ấy.
BẰNG ÁP LỰC (Pasayha): Sau khi ép vị ấy bằng cách dùng sức
mạnh. TRÊN MỘT CỖ XE (yaana.m): trên một chiếc xe thuận tiện.
ÐẾN DVAARAKA (dvaaraka.m): đến thành phố dvaaravatii . Ý nghĩa
ở đây là: Chúng ta muốn đi từ đây Kampoja vì một mục
đích. Mục đích ấy, sẽ được nhận ra bằng chuyến đi
xa ấy, có thể được hoàn thành ngay tại đây. Ðây là vị
Dạ xoa có thể ban cho mọi điều mong ước. Do đó, chúng ta
sẽ nài xin vị Dạ xoa này, và tiến hành bằng sự bằng
lòng của vị ấy hay, nếu vị ấy không được thuyết phục,
thời chúng ta sẽ đặt vị ấy trong cỗ xe bằng cách dùng
sức mạnh, trói vị ấy ở buồng sau trong chiếc xe, và rồi
đi nhanh mang theo vị ấy từ đây đến Dvaaravatii .
Tuy nhiên khi vị Bà la
môn đã nói vậy, thì A"nkura, kiên cố trong pháp của bậc
chân nhân, đã nói lên câu kệ này để phản đối điều
đã được nói ra:
3. Người không nên bẻ
gãy những nhánh của cây mà người đã ngồi ở dưới bóng
mát của nó, vì làm hại một người bạn quả thật là một
điều ác.
Chú giải:
3. Ở đây, NGƯỜI KHÔNG
NÊN BẺ GÃY (Na bhanjeyya): Người không nên chặt đứt. LÀM
HẠI CHO MỘT NGƯỜI BẠN: Mittadubbho = Mittesu dubbhana.m (phối
hợp cách), gây tai hại cho chúng. Sẽ là một việc ác
(paapako): Làm tổn thương một người bạn sẽ không may mắn.
Cây mà bóng mát của nó giúp xua tan cơn mệt của người bị
nắng nóng - Người cũng không nên nghĩ xấu cho nó, đối với
những chúng sanh hữu tình thì còn tệ hơn biết bao nhiêu nữa?
Bấy giờ vị chư Thiên này là một thiện nhân đã có tâm
tri ân lớn, đã giúp đỡ chúng ta làm vơi giảm nỗi đau khổ.
Người không nên nghĩ sẽ làm điều gì tai hại cho vị ấy.
Chắc chắn người ấy nên được tôn kính thì đúng hơn -
đây là điều mà vị ấy đã nêu ra.
Khi nghe qua điều này,
vị Bà la môn, khi dựa vào quy tắt khéo được thành lập rằng
xử dụng hành động đạo đức giả để tiêu diệt là nền
tảng của sự thành công, bèn thốt lên câu kệ này khi đặt
mình vào vị trí đối lập với A"nkura:
4. Người nên đốn hạ
thân của cây mà người đã ngồi hay nằm ở dưới bóng
mát của nó, nếu người ấy cần đến nó.
Chú giải:
4. Ở đây, NẾU THÂN
CÂY ẤY LÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI (attho ce taadiso siyaa): nếu
nhu cầu của người là muốn được đống thân cây ấy,
thì người nên đốn hạ ngay cả thân của cây ấy, như thế
những nhánh của nó thì sá gì - đây là ý nghĩa.
Khi vị Bà la môn đã
nói theo cách này, thì A"nkura nói lên câu kệ này để
đề cao pháp của Bậc thiện nhân:
5. Người không nên
làm hại những lá của cây mà người đã ngồi hay nằm dưới
bóng mát của nó, vì kẻ làm hại một người bạn thì quả
thật là người độc ác.
Chú giải:
5. Ở đây, NGƯỜI KHÔNG
NÊN LÀM HẠI NHỮNG NGỌN LÁ (na tassa patta.m hi.mseyya): Người
không nên làm cho rụng xuống ngay cả một ngọn lá của
cây, chớ đừng nói gì những nhánh của nó - đây là ý nghĩa.
Vị Bà la môn lại nói
lên một câu kệ để đề cao quan điểm của ông ta:
6. Người nên nhổ lên
cây ấy ngay cả với những chồi rễ của nó, nhổ lên cây
mà người ấy ngồi hay nằm dưới bóng mát của nó, nếu
đó là nhu cầu của vị ấy.
Chú giải:
6. Ở đây, NGƯỜI NÊN
NHỔ NÓ LÊN CÙNG VỚI CẢ NHỮNG RỄ CỦA NÓ (samuula.m pi
ta.m abbuyha): Người nên nhổ nó lên ở đó, nghĩa là, bứng
nó lên, cùng với cả những rễ của nó, kéo theo những rễ
của nó:
Khi vị Bà la môn đã
nói theo cách này thì A"nkura bèn nói lên ba câu kệ, vì
muốn làm cho quan điểm của vị Bà la môn trở nên vô nghĩa:
7. Người không nên mưu
tính làm một điều ác ngay cả trong tâm của mình để chống
lại người mà mình đã ở lại đêm trong nhà của người
kia, và là chỗ mà người ấy đã có được đồ ăn và thức
uống - sự tri ân được các Bậc thiện Nhân hằng khen ngợi.
8. Người không nên mưu
tính một việc ác ngay cả trong tâm của mình để làm hại
người mà người ấy đã ở lại trong nhà của người mà
mình đã được tiếp đãi bằng đồ ăn và thức uống -
cánh tay không chìu theo điều ác sẽ đốt cháy kẻ làm hại
bạn của mình.
9. Người mà trước
kia đã được người ta ban cho một điều khả ái và về
sau người ấy làm hại ân nhân của mình bằng một việc
ác, người ấy là người làm hại kẻ vô tội, người ấy
sẽ không thấy điều may mắn.
7. DẦU TRONG MỘT ÐÊM
(ekarattimpi): người ấy đã ở lại trong nhà của người
kia dầu chỉ trong một đêm rất ngắn ngủi. NƠI MÀ NGƯỜI
ẤY ÐÃ ÐƯỢC ÐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG (Yatthi annapaana.m
puriso labhetha): trước mặt người ấy, bất cứ ai cũng được
đồ ăn và thức uống hay một sự nuôi ăn nào đó. MỘT NGƯỜI
KHÔNG NÊN MƯU TÍNH MỘT VIỆC ÁC NGAY CẢ TRONG TÂM MÌNH ÐÊ
LÀM HẠI NGƯỜI KIA (Na tassa paapa.m mamasaa pi cetaye): Một người
không nên nghĩ, không nên mong muốn điều xấu hay ác cho ân
nhân của mình ngay cả trong tâm của mình, đừng nói gì
dùng thân và khẩu để làm hại. Tại sao vậy? SỰ THI ÂN
ÐƯỢC CÁC BẬC THIỆN NHÂN HẰNG KHEN NGỢI (Kata~n~nutaa
sappurisehi va.n.nitaa) ngươi có sự tri ân quả thật được
chư Phật v.v... Tán dương, là người tối thắng nhất trong
những bậc chân nhân.
8. ÐÃ ÐƯỢC TIẾP
ÐÃI (Upa.t.thito): Ðược cung cấp bằng đồ ăn và thức uống,
đã được hầu hạ bằng những lời "hãy lấy cái
này, hãy ăn cái này" CÁNH TAY KHÔNG CHÌU THEO ÐIỀU TỔN
HẠI (adubbhapaanii): Cánh tay không quen hại người, cánh tay
được kềm chế. ÐỐT CHÁY KẺ LÀM HẠI MỘT NGƯỜI BẠN
(Dahate mitta dubbhi.m): Nó đốt cháy, nó tiêu diệt, kẻ hại
một người bạn. Một tội lỗi, đã gieo nên, nhắm đến
những người mà có những thiện ý và không lỗi lầm, do bởi
một người khác, sẽ đem lại sự suy sụp cho chính người
kia, không có sự ngoại lệ nào. Về nội dung thực tiễn của
nó, người mà không có lỗi quả thật đốt cháy người
kia. Vì lý do này, Ðức Thế Tôn nói rằng, "Người mà
làm hại kẻ không lỗi lầm, bậc thanh tịnh và không có sự
chê trách, thời điều ác ấy sẽ dội ngược lại chính kẻ
ngu ấy như bụi tung ngược chiều gió".
9. NGƯỜI MÀ TRƯỚC
KIA ÐƯỢC NGƯỜI TA BAN CHO MỘT HÀNH ÐỘNG KHẢ ÁI (Yo pubbe
katakalyaano) Người mà đã được người ta đem đến một vài
điều tốt, được giúp đỡ bởi một người có giới đức
nào đó. VÀ NGƯỜI MÀ VỀ SAU LÀM HẠI ÂN NHÂN CỦA MÌNH BẰNG
MỘT VIỆC ÁC (Pacchaapaapena himsati): Và người mà trong một
thời điểm tương lai nào đó giáng xuống một hành động
ác, sự rủi ro, điều xấu, đến người đã thi ân cho người
ấy. LÀ NGƯỜI BỊ BÀN TAY SẠCH TIÊU DIỆT (allapaa.nihato
poso): người ấy bị tiêu diệt, người ấy bị giáng xuống,
theo cách như đã kể trên, do bởi chính sự thự hành việc
thi ân bởi bàn tay sạch, bởi người mà đã thi ân cho người
ấy, khi làm như vậy bằng bàn tay sạch, bàn tay đã được
rữa sạch, hay nói cách khác chính bàn tay sạch của người
ấy đã bị tiêu diệt, rồi nó bị tiêu diệt, vì người
ấy đã tấn công kẻ đã thi ân cho mình; người ấy là một
kẻ vô ân. Người ấy sẽ không thấy điều may mắn (Na so
shadraani passati): Loại người đã được giải rõ như vậy
sẽ không thấy, tức là, không tìm thấy, sẽ không có được,
hạnh phúc ở trong đời này hay đời sau.
Vị Bà la môn bị đánh
bại như vậy bởi A"nkura bằng sự đề cao thiện nhận
pháp, chẳng nói thêm một lời nào nữa và nín thinh. Tuy
nhiên, khi đã nghe cuộc nói chuyện qua lại này giữa hai người
trong bọn họ và, dầu tức giận vị Bà la môn, vị yakka vẫn
nghĩ rằng, "Bây giờ cứ để như thế, về sau ta sẽ
quyết định điều gì nên làm đối với vị Bà la môn độc
ác này", và rồi nói lên câu kệ này để cho thấy phạm
vi không thể thắng phục vị ấy bởi bất cứ một người
nào khác:
10. Chẳng phải deva hay
người hay quyền lực nào khiến ta dễ dàng bị nhiếp phục
- ta là một Yakkha, đã đạt đến năng lực thần thông cao
tột, quảng đại và có sắc đẹp cùng sức mạnh.
Chú giải:
10. Ở đây, BỞI DEVA
(Devena): Bởi bất cứ vị chư Thiên nào. BỞI NGƯỜI
(Manussenavaa): Hạng người như thế cũng được áp dụng ở
đây. CŨNG CHẲNG PHẢI QUYỀN LỰC NÀO (Issariyenavaa) cũng chẳng
phải bằng quyền lực cai trị chư Thiên hay bằng quyền lực
thống trị loài người - sự thống trị các chư Thiên nghĩa
là bằng năng lực chư Thiên của bốn vị thiên vương
Sakka, Suyaama và những vị khác nữa, trong khi sự thống trị
loài người nghĩa là năng lực xuất phát từ những việc
phước của một vị chuyển luân vương. Do đó bằng sự thống
trị bao gồm những người có đại oai lực ở trong chúng
chư Thiên và nhân loại. Ngay cả những vị chư Thiên có đại
oai lực cũng không thể chinh phục những người mà đã được
nâng đỡ bằng quả của những việc phước của họ và
khi không thể bị đánh bại bởi những phương tiện ấy,
như vậy thì những người khác làm gì được. Hạm (không
dịch được) là tiểu từ không biến đổi, chỉ về sự bất
khả năng. KHÔNG DỄ DÀNG NHIẾP PHỤC ÐƯỢC (Na suppasayho):
Không thể tiêu diệt được. TA LÀ MỘT YAKKHA ÐÃ ÐẠT ÐẾN
NĂNG LỰC THẦN THÔNG CAO TỘT (Yakkho ha.m asmi paramiddhipatto):
Bằng chính những việc phước của ta, ta đã đi vào trạng
thái của một vị Yakkha. Không có ai mà bằng với một
yakkha như ta cả. Hơn nữa, ta đã đạt đến thần thông cao
tột. Ta có thần thông tối thượng của một vị yakkha. CÓ
SẮC ÐẸP VÀ SỨC MẠNH (Va.n.nabalupapanno): Có được, sở hữu,
sắc đẹp và sức mạnh thể xác. Bằng Mantra, gồm ba chữ
này vị ấy có thấy tánh chất bất khả thuyết phục
chính vị ấy. Toàn hảo về sắc tướng, vị ấy được tôn
kính bởi những kẻ khác; bởi vì vi ấy có sắc đẹp ấy
nên không bị làm thất bại bởi những kẻ phi thường. Tánh
cách sở hữu những tướng tốt ấy được xem là lý do về
tánh bất khả thuyết phục của vị ấy.
Từ đây trở đi có một
cuộc trao đổi chuyện trò bằng mười sáu câu kệ, giữa
A"nkura và vị Devaputta:
11. Bàn tay của ngươi
hoàn toàn bằng vàng, là cái chứa đựng của bộ năm, và
có mật ong chảy ra, nước trái cây có nhiều hương vị khác
nhau - Tôi nghĩ rằng Ngài phải là một Purindada ".
12. "Tôi không phải
là Deva hay Gandhabba, cũng chẳng phải là Sakka Purindada ; là một
Peta mà Ngài sẽ biết tôi, này A"nkura này người đến
đây từ Bheruva "
13. "Hạnh kiểm và
tánh nết của Ngài như thế nào trước kia khi Ngài còn ở
Bheruva? Ðiều phước cho kết quả trong bàn tay này là do bởi
loại phạm hạnh nào?"
14. "Trước kia tôi
là một người thợ may ở trong thành bheruva, lúc bấy giờ
tôi chịu khó khăn lớn và sống cuộc đời rất cực khổ.
Tôi chẳng có gì để bố thí
15. Nhưng tiệm may của
tôi thì ở rất gần Asayha, là người có đức tin và là bậc
thầy trong việc bố thí, một người có lương tâm,đã thực
hành những việc phước.
16. Những người ăn
xin và những người đi đường thuộc nhiều bộ tộc khác
nhau thường đi đến đó và họ cũng thường hỏi tôi về
chỗ ngụ của Asayha rằng, "Xin chúc lành đến Ngài!
Chúng tôi nên đi đâu,những vật thí được cho ra ở đâu?"
17. Khi được hỏi như
vậy, tôi thường đưa lên cánh tay phải cuả tôi và chỉ về
chỗ ngụ của Asayha cho họ thấy và nói rằng, "Xin
chúc lành đến các người! các người nên đến đó, vật
thí được cho ra ở đó tại chỗ ngụ của Asayha".
18. Vì lý do này khiến
bàn tay của tôi ban ra những điều mong ước, vì lý do này
khiến bàn tay của tôi có mật ong chảy ra, điều phước mà
cho kết quả trong bàn tay này là do bởi loại phạm hạnh
này".
19. Người ta nói rằng
ngài không bố thí vật thực đến ai cả bằng chính tay của
ngài nhưng vì ngài hoan hỉ với những vật thí của người
khác nên ngài đã đưa lên bàn tay của ngài và chỉ đường.
20. Vì lý do này nên
bàn tay của ngài cho ra những điều mong ước, vì lý do này
khiến bàn tay của ngài có mật ong chảy ra, do bởi loại phạm
hạnh này khiến điều phước cho quả trong bàn tay của
ngài.
21. Thưa Ngài, người mộ
đạo là người đã cho ra những vật thí bằng chính bàn
tay của mình, khi người ấy rời bỏ thân người, sẽ đi về
chỗ nào?
22. "Tôi không biết
trạng thái đi và đến của A.ngiirasa, người mà chịu đựng
điều quá sức chịu đựng, nhưng tôi đã nghe ở trước mặt
của Vessavana rằng Asayha đã đi cọng trú với Sakka ".
23. "Thật đầy đủ
để làm những việc thiện và cho ra những vật thí thích hợp.
Sau khi trông thấy bàn tay cho ra những điều mong ước này,
ai mà lại không thực hành những việc phước?
24. Như vậy, khi tôi đã
đi từ đây và trở lại Dvaaraka, tôi sẽ bố thí những vật
thực để đem lại hạnh phúc cho tôi.
25. Tôi sẽ cho đồ ăn
và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ cho nước
ở bên vệ đường, những cái giếng và những chiếc cầu
ở những chỗ mà khó đi qua.
Chú giải:
11. Ở đây, BÀN TAY CỦA
NGÀI (Paanite): Bàn tay phải của Ngài. HOÀN TOÀN BẰNG VÀNG
(Sabba so va.n.no) có màu vàng ở khắp cả, VẬT CHỨA ÐỰNG
GỒM BỘ NĂM (Pa~ncadhaaro): nó được xem là vật chứa đựng
của bộ năm: bởi vì bằng năm ngón tay của nó, nó có những
cái mạng đỡ vật mà được mọi người mong ước. CÓ MẬT
ONG CHẢY RA (Madhussayo): Có những loại nước cốt ngọt
đang chảy ra. Vì lý do này, vị ấy nói rằng, NHỮNG LOẠI
NƯỚC CỐT CÓ NHIỀU HƯƠNG VỊ CHẢY RA THÀNH NHỮNG DÒNG NHỎ
TỪ ÐÓ (naanaarasaa paggharanti): Nghĩa là nhiều loại nước cốt
ngọt chua, hăng v.v... Chảy ra từ nó. Khi bàn tay của một vị
Yakka, cho ra những điều mong ước, đang phân phát nhiều loại
vật thực cứng và mềm, có chảy ra mật ong, TÔI CHO RẰNG
NGÀI PHẢI LÀ Rurindada (Ma~n~ne' han ta.m purindada.m): Tôi nghĩ rằng
Ngài phải là Sakka purindada, nghĩa là tôi nghĩ rằng Ngài phải
là sakka, vua của chư Thiên, là người có Ðại oai lực như
vậy.
12. TÔI KHÔNG PHẢI LÀ
DEVA (n'amhi devo): Tôi không phải là một Deva như là Vassavana
v.v... CŨNG CHẲNG PHẢI LÀ GANDHABBA (na gandhabbo): Tôi cũng chẳng
phải là Deva của hôị chúng Càn Thát bà. Cũng chẳng phải
sakka purindada (na pisakko purindado) tôi cũng không phải là
sakkha, vua của chư Thiên, có cái tên là Purindada vì trong
quá khứ (pure) đã cung cấp những vật thí (daanassa) trong một
kiếp trước. Như vậy vị ấy là gì? Vị ấy nói rằng,
NGÀI NÊN BIẾT TÔI LÀ MỘT PETA, THƯA NGÀI AỊKURA (Peta.m
a.nkura jaanaahi): ngài nên biết tôi là một kẻ đã sanh làm
một Peta, thưa ngài A"nkura, ngài nên xem tôi là một
Peta, có Ðại thần thông thực. LÀ NGƯỜI ÐÃ ÐẾN ÐÂY TỪ
Bheruva (Bheruvahaa idhaagata.m): là người sau khi mang chung từ
Bheruva, đã đến đây bằng sự hoá sanh của tôi trong cây
đa này đây, ở giữa khu r?ng hoang này, nghĩa là kẻ sanh
lên ở đây.
13. NGÀI CÓ HẠNH KIỂM
NÀO. TÁNH NẾT NÀO, KHI NGÀI CÒN Ở BHERUVA? (Ki.msìlo
ki.msamaacaaro bheruvasmi.m pure tuva.m): Trước kia, trong một kiếp
quá khứ, khi Ngài còn trú ngụ ở trong thành Bheruva, thì
Ngài có hạnh kiểm gì, tánh nết gì? sau khi thực hành theo
loại hạnh kiểm nào mà có đặc tánh tránh xa những ác
nghiệp của Ngài, do bởi tánh nết mà có đặc tánh hướng
về sự thực hành những việc phước, nghĩa là Ngài có hạnh
kiểm nào thuộc về thiện hạnh như bố thí v.v...? DO BỞI
PHẠM HẠNH NÀO KHIẾN ÐIỀU PHƯỚC CHO QUẢ TRONG BÀN TAY
NÀY? (Kena tebrahmacariyena pu~n~na.m paa.nimhi ijjhati): Do bởi loại
phạm hạnh thù thắng nào khiến cho có quả phước như thế
này bây giờ chín muồi và có hiệu quả trong bàn tay của
Ngài, nghĩa là xin hãy nói cho tôi biết điều ấy. Do việc
phước, ám chỉ về quả của việc phước, do sự đọc lướt
của chữ thứ hai trong chữ kép. Vì hiển nhiên chính điều
này nên dược gọi là "phước" ở đoạn
kinh,"chính do gieo tạo những thiện nghiệp theo cách
này, này các vị Tỳ kheo, nên phước này tăng trưởng
v.v..."
14. NGƯỜI THỢ MAY
(Tunnavàyo): Người thợ làm kim. TÔI SỐNG MỘT CUỘC SỐNG VẤT
VẢ: Sukicchavutti= su.t.thu kiccha vuttiko (Phối hợp cách): tôi
có một cuộc sống cực khổ vô cùng, TÔI BỊ KHỔ CỰC LỚN
(kapa.no): Tôi nghèo khổ, nghĩa là tôi ở trong một trạng
thái khốn khổ. TÔI CHẲNG CÓ GÌ ÐỂ BỐ THÍ (Na me vijjati
Daatave): Tôi chẳng có gì xứng đáng để cho ra, chẳng có
gì để cho đến những người nghèo khổ, đến những vị
Sa môn và những vị Bà la môn, dầu tôi có những ý tưởng
muốn bố thí những vật thực - đây là ý nghĩa.
15. XƯỞNG LÀM VIỆC
(aavesana.m): Nhà, hay một phòng để làm việc. RẤT GẦN VỚI
Asayha (Asayhassa uppantike): Gần nhà của đại thương nhân
giàu có asyaha. MỘT NGƯỜI CÓ ÐỨC TIN (saddhassa) có đức
tin về quả của các nghiệp. BẬC THẦY TRONG SỰ THỰC HÀNH
BỐ THÍ (Daanapatino): về sự thực hành bố thí thì vị ấy
là bậc thầy do sự chế ngự tham và do sự thù thắng của
việc bố thí mà đã tiếp tục không gián đoạn. LÀ NGƯỜI
ÐÃ THỰC HÀNH NHỮNG VIỆC PHƯỚC (Katapu~n~nassa): Là người
thực hành những việc thuộc thiện hạnh trong quá khứ. MỘT
NGƯỜI CÓ LƯƠNG TÂM (lajjino): một người có tánh nhờm gớm
những ác nghiệp.
16. Ở ÐÓ (Tattha): Ðến
cửa tiệm ấy của tôi. NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN THƯỜNG HAY ÐẾN
(Yaacanakaayanti): Những kẻ ăn xin thường hay đến vì muốn
xin một cái gì đó từ (Asayhase.t.thi). GỒM NHIỀU LOẠI BỘ
TỘC (naanaagottaa): Nhiều bộ tộc và nhiều miền khác nhau.
NHỮNG KHÁCH ÐI ÐƯỜNG (Va.n.nibbakaa): những kẻ nói lời
khen ngợi người khác, họ là những kẻ lang thang đi đây
đó công bố tính chất chính đáng đối với một miếng
cơm đáng được ca ngợi v.v... Ca ngợi giới đức, những
quả báu và những việc phước của người mà bố thí. VÀ
HỌ THƯỜNG HỎI TÔI (Ca ma.m tattha pucchanti): Tattha không được
dịch chỉ là một tiểu từ không biến đổi; những người
ăn xin ấy và những người khác thường hỏi tôi về chỗ
ngụ của Asayha, là vị thương nhân giàu có. XIN CHÚC ÔNG
MAY MẮN! CHÚNG TÔI NÊN ÐI ÐÂU? NHỮNG VẬT THÍ ÐƯỢC CHO
Ở ÐÂU? (Kattha gacchaama bhadda.m vo kattha daana.m padiiyati): Ðiều
này cho thấy cách mà họ hỏi. Ðây là ý nghĩa: xin chúc
Ngài may mắn! Chúng tôi đã đến sau khi nghe rằng, "Những
vật thí đã được cho ra ở đây, bởi Asayhase.t.thi . Ở đâu
những vật thí được cho ra? Hay chúng tôi sẽ đi đâu- Phải
đi đến đâu để chúng tôi có thể kiếm được những vật
thí ấy?
17. ÐƯỢC HỎI NHƯ VẬY,
TÔI BÈN CHỈ RA (Tesaaha.m pu.t.tho akhaami): Khi được hỏi như
thế này bởi những người đi đường ấy về chỗ mà họ,
có thể nhận được vật thực bố thí, tôi thường cung kính
đưa bàn tay phải của tôi nói cho họ, biết về chỗ ngụ
của Asayha khi nghĩ rằng: "Do không làm những việc phước
trong quá khứ nên bây giờ tôi không thể cho ra cái gì đến
những người như thế này. Tuy nhiên, tôi có thể tạo ra
điều phước một cách rất ít ỏi, như hoan hỉ nói cho họ
biết về cách để có được những vật thí này bằng
cách chỉ cho họ ngôi nhà, nơi mà những vật thí cho ra. Vì
lý do này, vị ấy nói rằng, "Tôi đưa lên cánh tay phải
của tôi v.v...
18. VÌ LÝ DO NÀY KHIẾN
CÁNH TAY CỦA TÔI BAN RA NHỮNG ÐIỀU MONG ƯỚC: (Tena paa.ni
kaamadado): vì đã làm cho những người khác biết những vật
thí của người khác, vì chỉ có hoan hỉ kèm theo sự tôn
kính đối với những vật thí được làm bởi người khác,
nên bàn tay của tôi ban ra những ước muốn như cây như ý.
Như cây leo (Santaana), nó ban ra những điều mong ước, nghĩa
là cho ra bất cứ cái gì người ta cần đến. VÌ LÝ DO NÀY
KHIẾN BÀN TAY CỦA TÔI CÓ MẬT CHẢY RA (Tena paa.ni
madhussavo): Nó hiện ra để phân phối những điều khả ái.
19. Người ta nói rằng,
NGÀI ÐÃ KHÔNG CHO RA NHỮNG VẬT THÍ (na kira tva.m adaa daana.m)
"Kira" là một tiểu từ không biến đổi về lời
đồn. Tương truyền rằng Ngài đã không bố thí của cải
của chính Ngài, rằng ngài đã không bố thí một vật gì
đến ai cả, dầu đến Sa môn hay Bà la môn, bằng chính tay
của Ngài. NHƯNG NHỜ HOAN HỶ VỚI NHỮNG SỰ BỐ THÍ CỦA KẺ
KHÁC (Parassa daana.m anumodamaano): Nhưng ngài có tâm hoan hỉ với
những vật thí được làm bởi những người khác và nghĩ
rằng, "Ồ, ông đang ban bố những vật thí vĩ đại biết
bao!"
20. VÌ LÝ DO NÀY KHIẾN
BÀN TAY CỦA NGÀI BAN RA NHỮNG ÐIỀU ƯỚC MUỐN (Tena paa.ni
kaamdado): "Vì lý do này mà bàn tay này của Ngài ban ra những
điều mong ước theo cách này. Ồ, quả thật là kì diệu về
những việc phước!" Ðây là ý nghĩa.
21. THƯA NGÀI, NGƯỜI CÓ
TÂM ÐẠO LÀ NGƯỜI ÐÃ CHO RA VẬT THÍ BẰNG CHÍNH TAY CỦA
MÌNH (Yo so daana.m adaa bhante passanno sakapaa.nìhi): bằng sự
tôn kính, vị ấy nói với Devaputta là "Thưa Ngài, vì chỉ
do sự hoan hỉ với những vật thí được làm bởi những
người khác, thưa Ngài, Ðó là quả, đó là oai lực. Cái đó
đã đến với Ngài. Nhưng chính Asayha, vị thương nhân giàu
có, là người đã cho ra vật thí vĩ đại ấy và có tâm
hoan hỉ vào lúc vị ấy cho ra những vật thí vĩ đại ấy
bằng chính tay của vị ấy. "KHI VỊ ẤY TỪ BỎ THÂN
NGƯỜI (So hitvaa maanusa.mdeha.m). Khi vị ấy bỏ trạng thái
làm người này ở đây. VỊ ẤY ÐÃ ÐI ÐẾN CHỖ NÀO?
(Disata.mgato): ở hướng nào đến chỗ nào, vị ấy đã đi;
"vị ấy chấm dứt bằng loại số phận nào?"
22. NGƯỜI MÀ CHỊU ÐIỀU
QUÁ SỨC CHỊU ÐỰNG (Asayha Saa hino): Vị ấy là người chịu
đựng điều quá sức chịu đựng, vì vị ấy, dầu chưa phải
bậc chân nhân, nhưng đã có đức tánh chịu đựng cao để
làm theo pháp hành của bậc chân nhân về các vấn đề như
bố thí v.v... mà không thể nào chịu đựng được bởi những
người có tánh bần tiện và tham lam. CỦA A"NGIIRASA
(Angiirassa) của người mà từ những chi thể của người
ấy sự chói lọi phát ra. Ra sa là một cách nói ẩn dụ về
"Sự rực rỡ". Tương truyền rằng khi vị ấy trông
thấy những người ăn xin đi đến thì niềm hỉ lạc lớn
sanh lên trong vị ấy và sắc tướng của vị ấy trở nên
sáng chói. Vị ấy thường nói như vậy khi vị ấy trông thấy
chính điều này. SỰ ÐI VÀ SỰ ÐẾN (Gati.m aagati.m vaa):
Tôi không biết sự đi, nghĩa làm người ấy đã đi từ đây
đến định xứ nào đó, cũng không biết sự đến, nghĩa là,
người ấy đã đến đây từ một chỗ đó vào giờ đó,
điều này không nằm trong khả năng của tôi. NHƯNG TÔI ÐÃ
NGHE NÓI TỪ TRƯỚC MẶT CỦA VESSAVANA (Suta~n ca me Vessavanassa
santike): Tuy nhiên tôi đã nghe được điều này ở trước mặt
của Ðại vương Vessanvana trong khi đang hầu vị ấy. RẰNG
ASAYHA ÐÃ CỌNG TRÚ VỚI SAKKA (Sakkassa sahavyata.m gato asayho) :
Rằng Asayyhase.t.tthi) đã cọng trú với Sakkha, vua của chư
Thiên, nghĩa là vị ấy đã sanh trong cõi trời Ba mươi ba.
23. LÀM NHỮNG VIỆC THIỆN
LÀ PHẢI LẼ (Ala.m eva kaatu"m kalyaana.m): Thật thích hợp
và hữu lý để làm những việc gọi là khả ái, thiện,
và phước. Tuy nhiên để cho thấy rằng về vấn đề này
có điều dễ chịu và cởi mở cho tất cả, "và cho những
vật thí là thích hợp" được nói đến. Ðiều thích hợp
là cho ra những vật thí theo đúng với khả năng phương tiện
của mình. Rồi vị ấy nêu ra lý do: SAU KHI THẤY BÀN TAY
NÀY MÀ CHO RA NHỮNG ƯỚC MUỐN (paanikaama.da.da.m disvaa): Bởi
vì không những nói cho biết con đường dẫn đến chỗ ngụ
của bậc Thầy về việc thực hành bố thí sau khi đã hoan
hỉ với những việc phước được làm bởi một người khác,
cánh tay này làm công việc ban ra những điều mong ước
cũng được trông thấy. Sau khi thấy điều này ai sẽ không
làm những việc phước, là sự nâng đỡ trong kiếp sống
tương lai? Sau khi đã cho thấy sự đánh giá cao của vị ấy
về sự thực hành những việc phước một cách mơ hồ như
thế này vị ấy nói lên câu kệ như sau: "Khi tôi đã
đi khỏi đây" để cho thấy sự cam kết của vị ấy.
24. TÔI: So = so aha.m
("thể văn phạm hoán chuyển"). Hi (không được dịch)
là một tiểu từ dùng để nhấn mạnh. Như vậy (Numa) là một
tiểu từ về sự suy quán. KHI TÔI ÐÃ ÐI KHỎI ÐÂY. (Ito
gantvaa): khi tôi đã rời khỏi vùng hoang vu này. KHI TÔI TRỞ
LẠI DVAARAKA (anuppatvaana dvaaraka.m): và đã trở lại kinh đô
Dvaaravati . TÔI SẼ CUNG CẤP (Pa.t.thapayissaami): Tôi sẽ ban
ra.
Dạ xoa lấy làm rất
hoan hỷ khi nghe A"nkura nguyện rằng vị ấy sẽ bố thí
những vật thực, bèn sách tấn vị thương nhân làm những
việc phước thí khi nói rằng, "Ngài nên cho ra những vật
thí một cách rộng rãi, thưa Ngài. Tôi sẽ giúp ngài bằng
cách sắp xếp những công việc bằng cách nào đó để những
vật thí của Ngài không bị cạn kiệt". (Khi quay qua vị
Bà la môn), vị ấy nói tiếp rằng. "Trong khi ông, này
ông thương nhân Bà la môn, không biết khả năng của chính
mình mà dám nói rằng ông muốn mang đi một người như ta bằng
cách xử dụng sức mạnh", và sau khi khiến cho những
hàng hoá của ông ta biến mất, đe doạ ông ta, doạ sẽ hại
ông ta bằng sự tấn công của một Dạ xoa. Rồi A"nkura
nài nỉ vị ấy bằng nhiều cách, và làm nguôi ngoai vị da
xoa bằng cách bảo vị Bà la môn xin lỗi, và nhờ đó khiến
cho tất cả hàng hoá của ông ta xuất hiện trở lại. Khi
đêm đến, vị ấy để Dạ xoa ra đi và, trong khi tiếp tục
đi trên con đường của vị ấy, trông thấy một Ngạ quỉ
nọ ở gần trước mặt vị ấy, trông rất kinh khiếp, vị
ấy nói lên câu kệ này để dò hỏi về nghiệp mà nó đã
tạo;
26. "Vì lý do gì
khiến những chi thể của ngươi méo mó và khuôn mặt của
ngươi nhăn nhó? Và tại sao hai con mắt ngươi lại chảy giọt?
ác nghiệp nào được làm bởi ngươi?"
Chú giải:
26. Ở đây, méo mó
(Ku.na aa) khòm, cong queo, không thẳng. NHĂN NHÓ (Ku.naliikata.m):
Xấu xí, méo mó, dị tật. CHẢY RÒNG (Paggaharanti): chảy ra
những vật bất tịnh.
Rồi Ngạ quỷ nói lên
ba câu kệ:
27. Tôi đã trông coi những
vật thí trong phước xá của Angiirassa, là vị gia chủ yêu
quê hương và là một người có đức tin.
28. Tôi đã trông thấy
những người ăn xin ở đó đến trong trạng thái cần vật
thực, Tôi bước qua một bên và nhăn mặt.
29. Vì lý do này nên
tay chân của tôi bị méo mó và khuôn mặt của tôi bị nhăn
nhó; Ðây là lý do khiến mắt của tôi rỉ chảy. Ðây là
ác nghiệp được làm bởi tôi.
Chú giải:
27. Ở đây, CỦA
A"NGIRASSA (A"ngirassassa) v.v... Ngạ quỷ dùng những
thuộc tính này để khen ngợi Asayhase.t.tthi . Yêu Quê Hương
(Chara.m esino): ở tại nhà, trú ngụ ở trong nhà. TRONG PHƯỚC
XÁ (Daanavigge): Trong nhà nơi mà những vật thí được cho ra
ở chỗ phân phát. TÔI ÐƯỢC GIAO TRÁCH NHIỆM TRÔNG COI NHỮNG
VẬT THÍ (Daane adhikato ahu.m): Tôi được đặt vào địa vị
trông coi những vật thí, phân phát những vật thí.
28. TÔI BƯỚC QUA MỘT
BÊN (Ekamanta.m apakkamma): Khi ông ta trông thấy những người
ăn xin đến xin vật thực thì người mà trông nom những vật
thí không nên khỏi nhà, nơi mà những vật thí được cho
ra. Ông ta ở lại ngay chính chỗ đó và đầy hỉ lạc và
có sắc tướng tươi sáng, cho ra những vật thí bằng chính
tay của ông ta, và bảo những người khác cho chúng một
cách thích hợp. Còn tôi thì chẳng hành động theo cách
này, khi đứng ở đằng xa, tôi trông thấy những người
ăn xin đi đến, tôi bèn bước qua một bên và tránh mặt.
Khi đã bước qua một bên, tôi nhăn nhó mặt mày, tôi nhăn
nhó và cau mặt.
29. VÌ LÝ DO ẤY (Tena):
Bởi vì, trong khoảng thời gian mà tôi được ông chủ chỉ
định trông coi việc bố thí, tôi đã bị xâm chiếm bởi
tánh bần tiện trong lúc đem cho những vật thí và đã rời
khỏi nhà, nơi mà những vật thí được cho ra, nên tôi đã
đạt đến trạng thái cong queo của bàn chân; Bởi vì tôi
đã không cho cái mà đáng lẽ phải được cho bởi chính
hai tay của tôi, nên tôi đã đạt đến trạng thái cong queo
của bàn tay; Vì tôi không có những đặt tánh tươi vui mà
đáng ra tôi cần phải có, nên tôi đã đạt đến trạng thái
quạu cọ của mặt mày; Trong khi đó vì tôi không nhìn bằng
con mắt từ ái mà đáng ra tôi phải nhìn như thế, nên tôi
mới bị sắc tướng mờ tối này. Do đó, những ngón tay
và những ngón chân của tôi đã trở nên cong queo, mặt của
tôi trở nên méo mó, có hình tướng khó coi và nhăn nhó,
và đôi mắt của tôi thì chảy ra những vật bất tịnh,
có mùi hôi thối, nhơ nháy - đây là ý nghĩa.
Vì lý do này vị ấy
nói rằng:
30. "Vì lý do ấy
mà tay chân của tôi bị méo mó và mắt của tôi bị cau
có: Ðây là lý do khiến mắt tôi bị rỉ chảy, đây là ác
nghiệp được làm bởi tôi".
Nghe qua điều này A"nkura
thốt lên câu kệ này khi đến gần Ngạ quỷ.
31."Này kẻ khốn
khổ, nghiệp đã cư xử đúng với ngươi, khiến mắt
ngươi cau có và mắt của ngươi rỉ chảy, bởi vì ngươi
đã nhăn mặt khi trông thấy vật thí của người khác".
Chú giải:
31. Ở đây, ÐIỀU ẤY
THẬT ÐÚNG VỚI NGƯƠI (Dhammena): Ðiều đó có nguyên nhân
hoàn toàn thích hợp. Ngươi te = tava (thể văn phạm hoán
chuyển). NÀY KẺ KHỐN KHỔ (Kaapurisa). Ngươi là con người
đáng khinh, BỞI VÌ: Ya.m= Yasmaa (thể văn phạm hoán chuyển).
KHI TRÔNG THẤY VẬT THÍ CỦA NGƯỜI KHÁC: Parassa daanassa =
Parassa daanasmi.m (thể văn phạm hoán chuyển), hay nói cách
khác, đây là cách đọc.
A"nkura lại nói
lên một câu kệ để chê trách vị thương nhân ấy, là vị
thầy trong việc thực hành bố thí.
32. "Làm sao người
ta lại có thể nhờ vào một người khác khi cho ra đồ ăn,
thức uống, vật thực cứng, y phục và chỗ ngụ?"
Chú giải:
32. Ðây là ý nghĩa:
khi cho ra một vật thí, quả thật vậy, làm sao một người
có thể nhờ vào một người khác, bảo người khác làm
công việc ấy? Chính người ấy nên đích thân trông coi nó
và nên cho nó bằng chính tay của mình thí đúng hơn. Người
ấy nên tự mình làm điều này. Nói cách khác, thí vật của
người ấy có thể đi đến suy sụp trong một chỗ không
thích hợp, trong khi những người xứng đáng thọ lãnh những
vật cúng dường thì sẽ bị đói một cách đáng tiếc.
Trong khi vị ấy quở
trách vị thương nhân như vậy, A"nkura bèn nói lên hai
câu kệ để cho thấy cách hành động mà vị ấy sắp thực
hiện.
33. "Như vậy, khi tôi
đã đi khỏi đây và đã trở lại Dvaaraka, tôi sẽ cung cấp
những vật thí mà sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi.
34. Tôi sẽ cho đồ ăn
và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ chứa nước
ở bên vệ đường, những giếng nươc và những chiếc cầu
nơi mà người ta khó đi qua".
Ý nghĩa vừa nói được
nêu ra rồi.
Khi ấy bốn câu kệ
này cũng được lồng vào bởi những vị kiết tập Tam Tạng,
để cho thấy cách mà A"nkura hành động.
35. "Khi từ chỗ đó
trở về và đã trở lại Daaraka, A"nkura cung cấp những
vật thí mà sẽ đem lại hạnh phúc cho vị ấy.
36. Vị ấy cho ra đồ
ăn và thức uống, y phục và chỗ ngụ, những chỗ chứa nước
ở bên vệ đường, những giếng nước, những chiếc cầu
ở nơi mà người ta khó đi qua.
37. "Ai bị đói?
và ai bị thiêu đốt? Ai muốn mặc vào những y phục này?
Những con bò của ai bị kiệt quệ? - Từ những con bò này
người ta có thể thắng vào một con bò thiến. Ai cần dù
che? và nước hoa? Ai cần hoa? Ai cần một số giày
dép?"
38. Những người thợ
cạo, những người nấu bếp và những người bán vật thơm
luôn luôn kêu lên như vậy, cả sáng lẫn chiều, ở đó tại
chỗ ngụ của A"nkura "
Chú giải:
35. TỪ ÐÓ (Tato): Từ
khu rừng hoang ấy. KHI VỊ ẤY ÐÃ QUAY LUI (Nivattitvaa): Khi
vị ấy đã quay trở lại. VÀ ÐÃ TRỞ VỀ Dvaaraka
(Anuppatvaana dvaaraka.m): Và đã trở lại thành phố
Dvaaravatii . A"NKURA CUNG CẤP NHỮNG VẬT THÍ (Daana.m
pa.t.thayi ankuro): A"nkura thiết lập một cuộc bố thí
gồm mọi thứ cần thiết cho con đường từ nhà kho mà
được gìn giữ hoàn toàn đầy đủ bởi Yakkha MÀ SẼ
ÐEM HẠNH PHÚC CHO VỊ ẤY (Ya.m ta.m assa sukhaavaha.m): là
cái mà sẽ trổ quả hạnh phúc cho vị ấy trong cả hiện
tại lẫn tương lai.
37. AI ÐÓI? (Ko chaato)
Hãy để bất cứ ai cần ăn đến ăn bất cứ cái gì mà
người ấy thích. Ðây là ý nghĩa và sẽ được áp dụng
trong phần còn lại nữa. BỊ KHÔ CHÁY (Tasito): khát. MUỐN
MẶC VÀO (Paridahissati) nghĩa là muốn mặc áo quần. BỊ KIỆT
QUỆ (Santaani): ở trong trạng thái mệt lã. NHỮNG CON BÒ
(Yoggaani): được kéo bởi những con bò đã được thắng
vào những chiếc xe. HỌ CÓ THỂ THẮNG MỘT CON BÒ KÉO TỪ
NHỮNG CON BÒ NẦY. (Ito yo jentu vaahana.m): Họ có thể lấy
bất cứ con bò kéo nào mà họ thích từ đàn bò này ở
đây và thắng nó vào. AI CẦN DÙ? (Ko chatt'icchati): Hãy để
bất cứ ai cần dù thuộc loại cần bằng những cây bấc
v.v...thì lấy nó - đây là y nghĩa và cũng sẽ được áp
dụng cho phần còn lại. HƯƠNG THƠM (Gandha.m): Những loại
hương thơm được làm từ bốn mùi hương v.v... NHỮNG BÔNG
HOA (Maala.m): Những bông hoa thuộc loại được cột lại với
nhau và những bông hoa không được cột như vậy. MỘT SỐ
GIÀY DÉP (Upaahana.m): những loại dày dép thuộc loại như
có những vật che gót chân v.v...
38. CŨNG VẬY (Iti su):
Su (không được dịch) chỉ là một tiểu từ không biến
đổi. Chúng công bố như vậy, nghĩa là "ai đó? và ai
bị khát?" v.v... NHỮNG NGƯỜI THỢ CẠO (Kappakaa): Những
người tắm thuê. NHỮNG NGƯỜI NẤU BẾP (Sadaa): Những
người sửa soạn những bữa ăn. NHỮNG NGƯỜI BÁN NHỮNG
VẬT THƠM (maagadhaa): Những người bán các loại nhang trầm,
nước hoa. LUÔN LUÔN (Saada): suốt mọi khi, trong ngày,
ngoài ngày, cả sáng lẫn chiều, họ đều rao hò kêu gọi,
ở đó tại chỗ ngụ của Ankura - đây là cách nên được
hiểu.
Thời gian trôi qua với
sự bố thí vĩ đại được ban ra như vậy, ngôi nhà nơi mà
những vật thí được cho ra chỉ trở nên thưa thớt và có
những người đi đường tình cờ đến viếng vì muốn được
thoả mãn. Khi Ankura trông thấy điều này, vị ấy cảm thấy
không được mãn nguyện, bởi vì ý định cao cả vị ấy là
cho những vật thí, bèn gọi đến người đàn ông trẻ tên
là Sindhaka mà vị ấy đã chỉ định liên quan đến sự bố
thí của vị ấy và nói lên hai câu kệ:
39. "A"nkura ngủ
an vui" - Những người tin vào ta như vậy; nhưng ta khó
ngủ, này Sindhaka, bởi vì ta không thấy những người ăn
xin.
40. "A"nkura ngủ
an vui" - Những người tin vào ta như vậy, Nhưng, này
Sindhaka, ta khó ngủ vì những người đi đường quá
ít".
Chú giải:
39. Ở đây "AỊKURA
NGỦ AN VUI" - NHỮNG NGƯỜI TIN VÀO TA CŨNG VẬY, (Sukha.m
supati a"nkuro iti jaanaati ma.m jano): Công tử"
A"nkura là người có danh vọng và của cải, là bậc thầy
trong sự thực hành bố thí, do vị ấy đã đạt được của
cải và sự bố thí thành công nên ngủ được an vui, vị
ấy ngủ một cách dễ dàng và thức dậy một cách an
vui" - Mọi người đánh giá cao về ta như vậy. Ta ngủ
một cách khó khăn, Này Sindhuaka. TẠI SAO? VÌ TA KHÔNG THẤY
NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN (Ya.m na passaami yaacake): vì ta không thấy
những người ăn xin nhận lãnh những vật thí của ta như
ta mong ước, nghĩa là chính do bởi điều này.
40. NHỮNG NGƯỜI ÐI ÐƯỜNG
QUÁ THƯA THỚT (Appakesu vanibbake): Những khách lữ hành quá
thưa thớt, nên ta khó ngủ. - Ðây là cách nên được hiểu.
Su (không được dịch) chỉ là một tiểu từ không biến đổi,
ý nghĩa là khi có rất thưa thớt khách lữ hành.
Khi nghe qua điều này,
Sindhaka, muốn rằng vị ấy nên làm sáng tỏ khuynh hướng
cao cả của vị ấy đối với sự bố thí, bèn thốt lên
câu kệ này:
41. "Nếu Sakka,
chúa cõi Ba mươi ba và của tất cả thế giới, mà ban cho
Ngài một đặc ân, khi chọn lựa, thì Ngài sẽ chọn đặc
ân nào?"
Chú giải:
41. Ðây là ý nghĩa: nếu
Sakka, chúa chư Thiên trong cõi trời Ba mươi ba và cũng là
chúa tất cả thế gian, mà ban cho Ngài một đặc ân khi nói
rằng, "Hãy chọn bất cứ ân huệ nào mà tâm của ngươi
khao khát, này A"nkura", " Khi chọn lựa, khi mong
ước, thì ngài muốn chọn loại đặc ân nào?"
Rồi Ankura nói lên hai
câu kệ thành thực công bố ý định của vị ấy.
42-43. "Nếu Sakka,
chúa của cõi Ba mươi ba, mà ban cho ta một đặc ân, thời
ta sẽ chọn lấy đặc ân từ Sakka như vầy: Khi ta thức dậy
vào lúc mặt trời mọc sẽ xuất hiện những vật thực chư
Thiên và những người ăn xin có giới đức, trong khi ta
đang bố thí thì chúng sẽ không bị hết, sau khi ta đã bố
thí thì ta không cảm thấy hối tiếc và tâm của ta có
lòng tịnh tín khi ta bố thí.
Chú giải:
42-43. KHI TÔI THỨC DẬY
(Kaalu.t.thitassa me sato): Khi tôi dậy vào lúc sáng sớm, tinh tấn
và hăng hái để cúng dường và hầu hạ những bậc xứng
đáng thọ lãnh vật cúng dường và đang cần đến. VÀO
LÚC MẶT TRỜI LÊN (Suriyuggamana.m papi): Vào lúc mặt trời đến.
SẼ CÓ XUẤT HIỆN NHỮNG LOẠI VẬT THỰC CỦA CHƯ THIÊN
(Dibbà Bhakkaa Paatubhaveyyu.m): Sẽ có sanh lên vật thực mà
thuộc về cõi chư Thiên. TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN CÓ
GIỚI ÐỨC (Sìlavanto ca yaacakaa): và sẽ có những người
ăn xin có giới đức và có bản tánh thiện. TRONG KHI TÔI
ÐANG BỐ THÍ, CHÚNG SẼ KHÔNG CẠN HẾT (Dadato me na
khiiyetha): trong khi tôi đang cho đến những người mới đến
thì những vật thí của tôi sẽ không cạn hết, sẽ không
khánh tận. Sau khi tôi đã cho, tôi sẽ không cảm thấy hối
tiếc khi tôi thấy rằng một người nào đó không xứng đáng
thọ lãnh vật thí ấy. TÂM CỦA TÔI SẼ CÓ TỊNH TÍN KHI
TÔI CHO (Dada.m citta.m pasaadeyya.m): Tâm của tôi sẽ có tịnh
tín trong khi tôi đang cho, tôi chỉ cho trong khi tôi có lòng tịnh
tín mà thôi. TÔI SẼ CHỌN ÐẶC ÂN TỪ Sakka (Eva.m
Sakkavara.m vare): Tôi sẽ chọn 5. đặc ân đó từ Sakka, chúa
của chư Thiên như vầy: Những đặc ân về sức khoẻ, về
những vật thí và đặc ân có những người xứng đáng thọ
lãnh những vật bố thí. Về điều này câu, "Khi tôi thức
dậy" ám chỉ đặc ân về sức khỏe, (Câu sẽ xuất hiện
những vật thực của chư Thiên là về những vật thí, và
những người ăn xin có giới đức Là những người xứng
đáng thọ lãnh vật cúng dường; "và trong khi tôi cho
chúng sẽ không thọ cạn hết" là đặc ân về những vật
thí vô hạn; và "sau khi tôi đã cho, tôi sẽ không cảm
thấy hối tiếc và tâm của tôi có lòng tịnh tín khi tôi
cho" là đặc ân được làm người bố thí. Năm điều
này được mong ước để chúng trở thành những đặc ân,
nên hiểu những đặc ân ấy là như vậy, vì mục đích của
những việc phước ấy bao gồm sự bố thí cao tột.
Khi A"nkura công bố
ý định của vị ấy, thì một người đàn ông tên là
Sonaka, mà đang ngồi ở đó, là nhười có tánh cẩn thận,
bèn nói hai câu kệ khi muốn ngăn cản vị ấy đừng bố thí
quá mức.
44. "Người không
nên ban bố tất cả những vật sở hữu của mình cho người
khác; Người nên vừa cho những vật thí vừa bảo vệ tài
sản của mình. Do đó, của cải tốt hơn sự bố thí, những
gia đình không tồn tại được do sự bố thí quá mức.
45. Không phải không
cho, cũng không phải cho quá mức mà được các bậc trí
khen ngợi đâu. Do đó, của cải tốt hơn sự bố thí; người
nên thực hiện sự tiết độ. Ðây là cách của những kẻ
cương quyết.
Muốn thử vị ấy
Sindhaka, sau đó đã nói lên một lần nữa những câu kệ bắt
đầu bằng, "Người không nên ban ra tất cả những sở
hữu của mình."
Chú giải:
44. Ở đây, tất cả
NHỮNG VẬT SỞ HỮU CỦA MÌNH (Sabbavittaani): Tất cả những
vật sở hữu và những phương tiện, gồm cả động sản và
bất động sản, nghĩa là những loại của cải của mình.
ÐẾN MỘT NGƯỜI KHÁC: Pare= Pa ra.mhi (Thể văn phạm hoán
chuyển); Nghĩa là đại điện một người khác (parassa). NGƯỜI
KHÔNG NÊN BAN RA (Na pavecche) Người không nên bố thí khi nghĩ
rằng, "Những người xứng đáng thọ lãnh những vật
thí là sẳn có". Và không giữ lại cái gì. Nghĩa là người
không nên biến hết tất cả tài sản của mình thành vật
bị hy sinh. Người nên vừa CHO NHỮNG VẬT THÍ (Dateyya
daana~n ca): Người nên dùng tất cả mọi thứ để làm vật
thí; hơn nữa, người khôn nên cho những vật thí theo đúng
với phương tiện của mình sau khi định gía lợi tức thu
nhập và số chi tiêu. VÀ BẢO VỆ CỦA CẢI CỦA MÌNH
(Dhana~n ca rakkhe). Người nên chăm sóc của cải của mình bằng
cách kiếm cho được cái chưa kiếm được; hay nói cách
khác, người nên bảo vệ tài sản của mình theo cách nầy,
đây là nền tảng của sự bố thí vật thực.
"Một phần tư tài
sản của người thì người nên hưởng, hai phần tư người
nên để vào công việc, trong khi phần thứ tư thì nên đem
cất, nếu không người sẽ gặp khó khăn."
Quả thật, vậy ba con
đường này cần phải được thực hành theo bằng sự thay
đổi qua lại, những người làm luật đã nói như thế. DO
ÐÓ, (tasmaa): Bởi vì khi bảo vệ của cải của một người
và khi tạo ra những vật thí, Người ấy đang hành động vì
sự lợi ích cho cả hai đời, và bởi vì sự bố thí lệ
thuộc vào của cải, do đó của cải thì tốt hơn, thù thắng
hơn sự bố thí, và sự bố thí quá mức không nên thực
hành - đây là ý nghĩa. Vì lý do này mà vị ấy nói rằng,
"Những gia đình không còn tồn tại do bố thí quá mức.
(Atippadaanena kulaa na honti). Những gia đình không tồn tại,
không còn tiếp tục, nghĩa là chúng bị tiêu diệt mất, do
sự thực hành bố thí quá mức khi người không biết phạm
vi về của cải của mình mà sự bố thí như vậy lệ thuộc
vào. Bây giờ, khi lập nên sự kiện rằng điều này được
khen ngợi bởi Bậc trí tuệ, vị ấy nói lên câu kệ rằng:
"Không phải không bố thí, cũng không phải bố thí quá
mức".
45. Ở đây, KHÔNG PHẢI
KHÔNG BỐ THÍ CŨNG KHÔNG PHẢI BỐ THÍ QUÁ MỨC (Adaana.m
atidaana~nca): không phải hoàn toàn không bố thí dầu một nắm
cơm hay một vá vật thực, cũng không phải bố thí quá mức,
là tánh rộng rãi mà trong đó những giới hạn vượt quá mức,
làm như vậy được khen ngợi, được tán dương, bởi những
bậc trí tuệ có tuệ quán và có trí tuệ đã sanh lên. Do
hoàn toàn không bố thí, người ta bị mất đi hạnh phúc
trong đời sau, trong khi cho quá mức thì gia đình của người
sẽ không thể tiếp tục tồn tại. ÐÂY LÀ CÁCH SỐNG CỦA
NHỮNG NGƯỜI KIÊN QUYẾT (Sa dhiiradha.mmo): trong vấn đề bố
thí quá mức đã được nói ở trên và sự không bố thí,
đây là cách sống của những người kiên quyết, của những
người bền chí và những người rành mạch về chánh hạnh
và thiện hạnh - vị ấy giải thích rằng đây là con đường
mà những người có trí ấy thực hành theo.
Khi qua điều này,
A"nkura bèn công bố phương châm và hành động mà vị
ấy sẽ thực hành bằng bốn câu kệ, để cố gắng làm
cho người kia thay đổi tâm ý của mình:
46. Thưa ngài, thực ra
tôi vẫn muốn tiếp tục bố thí, và nếu điều ấy là đúng
thời những người xứng đáng sẽ kết hợp với tôi - như
đám mưa làm đầy chỗ đất thấp, tôi sẽ làm thoả mãn tất
cả những người đi đường.
47. Khi người trông thấy
những người ăn xin thì sắc tướng của người trở nên tươi
sáng và khi người đã cho thì thấy vui thích - đây là hạnh
phúc dành cho người sống ở nhà.
48. Khi người trông thấy
những người ăn xin thì sắc tướng của người sẽ trở nên
tươi sáng, và khi người đã cho rồi thì sẽ thấy hoan hỉ
- đây là sự thực hành thành công của sự hy sinh.
49. Ngay trước khi bố
thí người nên hoan hỷ; khi đang bố thí tâm của mình nên
tịnh tín; khi người đã bố thí rồi, thì người cũng được
vui thích - đây là lối thực hành thành công của sự hy
sinh".
Chú giải:
46. Ở đây, QUẢ THỰC
SẼ ÐÚNG HƠN (Aho vata): quả thật nó sẽ tốt đẹp. Thưa
ngài (re) là một hình thức xưng hô. Rằng tôi sẽ chỉ tiếp
tục bố thí: Aha.m eva da jja.m = aha.m dajja.m eva (thể văn phạm
hoán chuyển). Ðây là ý nghĩa tóm tắt trong đoạn này, cho
dù, như người ta nói, đây là quan điểm của những người
rành mạch về chánh pháp, rằng của cải thì tốt hơn bố
thí, tôi cũng muốn tiếp tục bố thí.VÀ NHỮNG NGƯỜI XỨNG
ÐÁNG SẼ KẾT HỢP VỚI TÔI (Santo ca ma.m sappurisaa
bhajeyyu.m): và rằng trong trường hợp mà tôi cho thì những
người xứng đáng có giới đức, an tịnh và chân chánh,
có thiện hạnh về thân, khẩu và ý sẽ kết hợp với
tôi, sẽ đến gần tôi. NHƯ ÐÁM MƯA LÀM ÐẦY VÙNG ÐẤT
THẤP (Negho 'va ni.nna.m paripuurayanto) và quả thật đúng hơn
là tôi sẽ làm thoả mãn họ, làm cho thành tựu những mong
ước của tất cả những người đi đường như một đám
mưa lớn trút xuống những vùng đất thấp, trên những chỗ
nằm dưới thấp.
47. KHI NGƯỜI TRÔNG THẤY
NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN (Yassa yaacanake disvaa): Khi người ấy trông
thấy những người ăn xin thì sắc tướng của con người yêu
quê hương sẽ trở nên tươi sáng, và lòng tịnh tín sẽ
sanh lên khi người ấy nghĩ rằng, " Hầu hạ các ngài
trong lúc sớm nhất sẽ thật sự là phước điền cho
ta", trong khi người ấy cho, thì người ấy sẽ được
hoan hỷ tâm; người ấy sẽ được tràn ngập bởi hỷ lạc.
Ðiều này (Ta.m): Cảnh tượng những người ăn xin ở đây,
lòng tịnh tín này khi trông thấy nhưng người ăn xin và sự
hoan hỷ sau khi đã cho những vật thích hợp.
49. NGAY TRƯỚC KHI BỐ
THÍ NGƯỜI NÊN HOAN HỈ (Pubbe 'va daanaa sumano): Ngay trước
khi bố thí, từ lúc sửa soạn những vật thí trở đi, người
nên hoan hỉ, người nên khởi hỉ tâm với tác ý cho ra những
vật thí khi nghĩ rằng, " Ta sẽ để xuống kho của cải
mà sẽ theo ta như sự xây dựng vinh quang của ta trong đời
sau. KHI BỐ THÍ, TÂM CỦA NGƯỜI NÊN TỊNH TÍN (dada.m citta.m
pasaadaye): Khi cho, khi đặt vật thực vào trong tay của những
người xứng đáng thọ lãnh những vật cúng dường, tâm của
người nên tịnh tín khi nghĩ rằng, "Từ của cải mà
không có giá trị, tôi đang tạo ra một vật thí có giá trị".
TRONG KHI NGƯỜI ẤY BỐ THÍ RỒI, THÌ NGƯỜI NÊN VUI THÍCH
TIẾP (Datvaa attamano hoti): Trong khi người đã cho ra rồi những
vật thí đến những người xứng đáng thọ lãnh những vật
cúng dường, thì người nên vui thích, hoan hỷ, đầy hỉ lạc
khi nghĩ rằng, " Ta đã thực hiện điều mà được qui
định bởi những bậc trí tuệ. ồ, điều này là thiện,
điều này là thù thắng": Ðây LÀ SỰ THỰC HÀNH THÀNH
CÔNG CỦA VIỆC HY SINH (esaa ya~n~nassasampadaa): sự thành tựu
trong ba tác ý mà được xem là hoan hỷ và được kết hợp
bởi lòng tịnh tín trong quả của các nghiệp - Tác ý trước,
đang, và sau khi cho những vật thí - đây là sự thực hành
thành công, sự thành tựu của việc hy sinh; chẳng còn cách
nào khác - đây là ý nghĩa.
Khi A"nkura đã công
bố như vậy phương châm hành động mà vị ấy sắp thực
hiện hằng ngày, vẫn duy trì sự bố thí vĩ đại, ý định
của vị ấy về sự bố thí càng ngày càng được gia tăng
nhiều hơn. Do bởi điều này khiến cho toàn thể vương quốc
lúc bấy giờ phải dẹp qua công việc để nhường chỗ cho
những lễ hội. Khi sự bố thí vĩ đại ấy đang tiến hành
thì những người mà đã nhận được những phương tiện cần
thiết cho cuộc sống đã bỏ mọi công việc làm ăn của họ
và đi dạo quanh tuỳ thích. Do bởi điều này khiến những
kho báu của hoàng gia trở nên trống rỗng và nhân đó, các
vị vua sai sứ giả đến A"nkura, nói lại rằng,
"vì những vật bố thí của Ngài, thưa Ngài, nền kinh tế
của chúng tôi đã bị suy sụp và những kho báu của chúng
tôi đã trở nên trống rỗng. Ngài nên biết giới hạn
thích hợp đến chừng mức mà vật thí nên được cho
ra".
Khi nghe qua điều này,
A"nkura đi đến dakkhinaapatha, và tại vùng tamil sai dựng
lên một số lớn những phước xá ở một chỗ không cách
xa biển, và duy trì những sự bố thí vĩ đại của vị ấy
ở đó trong suốt cuộc đời còn lại của vị ấy. Vào
lúc thân hoại mạng chung, vị ấy tái sanh vào cõi ba mươi
ba. Những người kiết tập Tam tạng nói những câu kệ này
để cho thấy sự vinh quang của những vật thí của vị ấy
và sự tái sanh trong thiên giới của vị ấy:
50. Sáu chục ngàn cỗ
xe chứa đầy vật thực thường xuyên được cho đến mọi
người ở chỗ ngụ của A"nkura, là người có con mắt
nhìn về những việc phước.
51. Ba ngàn người nấu
bếp, trang sức những bông tai có cẩn ngọc, là những người
trông coi những vật thí cho sự dâng hiến, nhờ A"nkura
mà họ được sự nuôi mạng.
52. Sáu chục người đàn
ông, là những chàng thanh niên trang sức những vòng tai có cẩn
châu ngọc, chẻ củi ở chỗ bố thí vật thực vĩ đại của
A"nkura .
53. Sáu chục ngàn phụ
nữ, tất cả đều trang sức và có mang châu ngọc, sửa soạn
nhiều loại gia vị tại chỗ bố thí vĩ đại của
A"nkura .
54. Sáu chục ngàn phụ
nữ, tất cả đều trang sức và có mang châu ngọc, đứng sẵn
sàng với cái vá trong tay tại chỗ bố thí vĩ đại của
A"nkura .
55. Vị Sát đế lỵ này
đã bố thí dồi dào đến nhiều người, vị ấy đã bố
thí trong một thời gian dài, ân cần, bằng sự quan tâm chu
đáo và bằng chính tay của vị ấy, nhiều lần, nhiều lần.
56. A"nkura đã duy
trì sự bố thí vĩ đại của vị ấy trong một thời gian dài,
trong nhiều nửa tháng, trong nhiều mùa và nhiều năm.
57. Sau khi A"nkura đã
thực hành sự bố thí như vậy và hy sinh như vậy trong một
thời gian dài như vậy, vị ấy từ bỏ thân xác của con người
và đi đến cõi ba mươi ba.
Chú giải:
50. Ở đây, SÁU CHỤC
NGÀN CỖ XE (Satthivaa hassaani= vaahaana.m satthisahassaani) (phối
hợp cách): Sáu chục ngàn cỗ xe chứa đầy gạo thơm v.v...
được cho ra thường xuyên, ngày này qua ngày khác, đến dân
chúng, đến những nhóm chúng sanh, ở chỗ ngụ của
A"nkura, là người có con mắt nhìn về những việc phước,
là người chuyên tâm trong việc bố thí, là người nghiêng
về sự bố thí - đây là cách nên được hiểu.
51. BA NGÀN NGƯỜI NẤU
BẾP (Tisahassaani sudaa hi) nhiều đến ba ngàn người nấu bếp
để sửa soạn những bữa ăn và những điều này được
chỉ ra ở đây chỉ là những người đầu bếp trưởng, nên
hiểu là mỗi người trong những người đầu bếp này đều
có vô số những người đầu bếp khác làm theo lời căn dặn
của trưởng bếp. Một số người đọc, là tisahassaani
suudaana.m: (thể văn phạm hoán chuyển), TRANG SỨC NHỮNG
VÒNG TAI CÓ CẨN NGỌC (aamuttama.niku.n.dalaa): Mang nhiều loại
bông tai được trang sức và có cẩn ngọc châu. Nhưng đây
chỉ là một ví dụ, vì họ cũng được trang phục, mang những
chiếc vòng và dây lưng nữa. HỌ KIẾM SỐNG ÐƯỢC LÀ NHỜ
A"NÁKURA (A"nkura.m upajiivanti): Họ sống nhờ vào vị
ấy, nghĩa là họ lệ thuộc vào vị ấy về việc kiếm sống
của họ. LÀ NGƯỜI TRÔNG COI NHỮNG VẬT THÍ CHO SỰ HY SINH
(daane ya~n~nassa vyaava.taa) là người nhiệt tâm trông coi những
vật thí, trông coi hành động hy sinh, cho sự hy sinh, cho cái
được gọi là sự hy sinh vĩ đại ấy.
52. NHỮNG CHÀNG TRAI CHẺ
CỦI (Ka.t.tha.m phaalenti maa.navaa): Những người dân trẻ có
ăn mặc gọn gàng và trang sức, chẻ, bửa củi để nấu
nhiều loại vật thực cần thiết, gồm cả loại cứng và
loại mềm v.v...
53. NHỮNG LOẠI GIA VỊ
(Vìdha), những loại gia vị được xem là những thứ thích
hợp để thêm vào vật thực. SỬA SOẠN (pi.n.denti): Ðược
trộn bằng cách xay chung với nhau.
54. VỚI CÁI VÁ TRONG
TAY (Dabbigaaha): Với cái muỗng lớn trong tay. ÐỨNG SẴN
SÀNG (upa.t.thitaa): họ đi và đứng ở những ch? mà bữa ăn
được phục vụ.
55. NHIỀU (Bahu.m): một
lượng lớn, số nhiều. ÐẾN NHIỀU NGƯỜI (bahuuna.m): đến
vô số. CHO (paadaasi): bố thí bằng nhiều cách khác nhau.
TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI (cira.m). Trong một thời gian lâu; Vị
ấy sanh lên khi thọ mạng của con người là hai chục ngàn
năm, đã bố thí dồi dào đến nhiều người trong suốt thời
gian ấy. Ðể cho thấy cách mà vị ấy đã bố thí "với
sự trông nom chu đáo v.v..." được nói đến. ở đây VỚI
SỰ TRÔNG NOM CHU ÐÁO (sakkacca.m): Với sự tôn kính, với điều
mà được cần đến và không suy tính. BẰNG CHÍNH TAY CỦA
VỊ ẤY sahatthaa= sahatthena (thể văn phạm hoán chuyển):
không chỉ bằng mệnh lệnh. CẨN THẬN (citti.m katvaa): Vị
ấy cúng dường đến họ bằng những ý nghĩ cho ra của vị
ấy có sự tôn kính và xem trọng. TRỞ ÐI TRỞ LẠI
(punappuna.m): Nhiều lần, vị ấy không làm điều ấy một lần
hay vài lần mà đã bố thí trong số vô trường hợp, đây
là cách nên được hiểu. Bấy giờ để giải rõ đúng cái
mà vị ấy đã làm niều lần, các vị kiết tập tam tạng
đã nói lên câu kệ bắt đầu: (A"nkura) duy trì sự bố
thí vĩ đại của vị ấy trong một thời gian dài, trong nhiều
nửa tháng và nhiều tháng.
56. Ở đây, TRONG NHIỀU
THÁNG (bahumaase): Trong nhiều và vô số tháng, bắt đầu bằng
tháng (Citta). NHỮNG NỬA THÁNG (pakkhe): Trong nhiều nửa
tháng, nửa tháng hạ huyền và nửa tháng thượng huyền của
tháng. Trong NHIỀU MÙA VÀ NHIỀU NĂM (uttusa.m vaccharaani ca):
Trong nhiều mùa như xuân hạ v.v... Và trong nhiều năm, mỗi
năm bắt đầu bằng tháng citta; đây là đối cách mang ý
nghĩa một thời gian dài liên tục. TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI
(diigha.m antara.m): Trong một thời gian dài, trong khi đã giải
thích rồi rằng, "vị ấy đã bố thí trong một thời
gian dài", nói về sự duy trì việc bố thí của vị ấy
trong một thời gian dài, câu kệ bắt đầu rằng,
"Ankura đã duy trì sự bố thí vĩ đại của vị ấy
trong một thời gian dài, trong nhiều nửa tháng và nhiều
tháng" được lập lại để nhấn mạnh rằng vị ấy
đã duy trì sự bố thí ấy trong một thời gian dài không
gián đoạn - Ðây là cách nên được hiểu.
57. NHƯ VẬY (eva.m):
Theo cách đã giải thích. ÐÃ CHO VÀ ÐÃ THỰC HÀNH SỰ HY
SINH (datvaa yaasitvaaca): Những điều này đều giống nhau như
một về ý nghĩa: Ðã bố thí bằng cách cho ra những vật
thí đến những người xứng đáng thọ lãnh những vật
cúng dường và, lại nữa, thực hành những sự hy sinh bằng
sự hy sinh vĩ đại cho đến tất cả những ai cần đến
nhiều như họ mong muốn theo cách đã giải rõ, nghĩa là vị
sát đế lỵ này đã cho ra một cách dồi dào đến nhiều
người. VỊ ẤY BỎ THÂN XÁC CỦA CON NGƯỜI VÀ ÐI ÐẾN
CÕI BA MƯƠI BA (So hitvaa maanusa.m deha.m taavatimsuupago ahu): Vào
lúc kết thúc đời sống, A"nkura từ bỏ trạng thái
làm người và đi về với thiên chúng trong cõi ba mươi ba bằng
sự tái sanh.
Trong khi vị ấy đang
thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên sau khi đã sanh vào
trong cõi ba mươi ba như vậy, trong thời của Ðức Thế Tôn
của chúng ta có một chàng trai tên là Indaka, là người với
lòng tịnh tín trong tâm, đã cúng dường một muỗng vật thực
đến Trưởng lão Anuruddha khi Ngài đang đi khất thực. Ðến
lúc vị ấy chết, do oai lực của việc phước đã gieo vào
phước điền, được tái sanh trong cõi ba mươi ba, làm một
vị chư Thiên có oai lực và đại thần thông, chiếu sáng rực
rỡ và vượt trội hơn vị chư Thiên A"nkura về mười
thuộc tính như tướng mạo chư Thiên v.v... Vì lý do này,
có lời nói rằng:
58. Sau khi cho một muỗng
vật thực đến anuruddha, Indaka bỏ thân xác của con người
và đến cõi ba mươi ba.
59. Về mười cách,
Indaka sáng chói hơn A"nkura: Là dung sắc, giọng nói, vị,
hương thơm và vật xúc chạm, tất cả đều khả ái với
tâm.
60. Về thọ mạng và
danh tiếng, nước da, sự hạnh phúc và quyền lực- Như vậy
Indaka sáng chói hơn A"nkura .
Chú giải:
59. Ở đây, VỀ TƯỚNG
MẠO (ruupe): Về vấn đề liên quan đến hình tướng, nghĩa
là về sự thù thắng của hình tướng của vị ấy. GIỌNG
NÓI (sadde) v.v... Ðiều tương tự cũng được áp dụng như
vậy vào những chữ nầy.
60. VỀ SỰ TRƯỜNG THỌ
(aayunaa): Về thọ mạng. Nhưng không phải rằng thọ mạng của
các vị chư Thiên được nói đến là một khoảng thời
gian dài có xác định chăng? Ðiều ấy đúng nhưng chỉ là
một quy luật chung vì, quả thật vậy, cái chết đến với
một vài vị chư Thiên một cách yểu thọ vì không có những
phương tiện v.v... Tuy nhiên, Iídaka sẽ sống đủ ba Ko.ti và
sáu chục ngàn năm nữa. Vì lý do này mà có lời nói rằng
"Vị ấy vượt trội hơn về sự trường thọ". VỀ
DANH VỌNG (yasasaa): sự thù thắng về tuỳ tàng đông đảo
của vị ấy. VỀ NƯỚC DA (va.n.nena): Sự thù thắng về sắc
thân của vị ấy. VỀ QUYỀN UY (aadhipaccena): Về quyền tối
cao.
Khi A"nkura và Indaka
thọ hưởng sự vinh quang của chư Thiên sau khi tái sanh trong
cõi trời ba mươi ba như vậy thì Ðức Thế Tôn của chúng
ta, vào hạ thứ bảy sau khi chứng đắc nhất thiết trí, đã
thị hiện song thông vào đêm trăng tròn của tháng Aasaalhii,
ở dưới gốc cây Ga.ndamba gần cổng của thành Saavatthi .
Ðúng lúc, Ngài đi bằng ba bước chân, đến cõi ba mươi ba
và ngồi trên tảng đá Pa.n.dukambala ở dưới chân của cây
San hô, để thuyết giảng Abhidha.mma . Khi chiếu sáng rực rỡ
như mặt trời mới mọc ở trên núi Yugandhara, Ngài chiếu
ra hào quang từ chính thân của Ngài, vượt trội ánh sáng của
những vị chư Thiên đi chung và những vị Brahma đã hội họp
ở đó t? mười ngàn thế giới. Ngài trông thấy Indaka ngồi
ở gần bên, và A"nkura ngồi ở cách xa mười hai do tuần,
và nói lên câu kệ này với mục dích giải thích tầm quan
trọng về pháp thành tựu nơi những bậc xứng đáng thọ
lãnh vật cúng dường:
"Một sự bố thí
vĩ đại đã được cho bởi ngươi, này A"nkura, trong một
thời gian dài. Người lại ngồi quá cách xa - hãy đến trước
mặt của Như Lai".
Khi nghe qua điều này,
A"nkura bèn bạch rằng, "Bạch Ðức Thế Tôn, con đã
cho ra nhiều vật thực trong một thời gian dài, và dầu con
đã duy trì sự bố thí vĩ đại ấy, nhưng vì không có được
những bậc xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng dường,
giống như hạt giống được gieo vào thửa ruộng có đất
cằn cỗi, nên không có quả báu dồi dào. Nhưng đối với
Indaka, dầu vị ấy chỉ cho một vật thí gồm một muỗng vật
thực, bởi vì vị ấy có được người xứng đáng thọ
lãnh vật cúng dường, nên có trổ sanh, như hạt giống được
gieo trên đám ruộng phì nhiêu, quả phước vô cùng dồi
dào này. Những vị kiết tập Tam tạng nói những câu kệ
này để minh hoạ quan điểm này:
61. Khi Ðức Phật, bậc
cao quí nhất trong nhân loại, đang ngụ ở trên núi đá
Pa.nduka.mpala ở dưới chân của cây san hô trong cõi ba mươi
ba, Những vị chư Thiên từ mười ngàn thế giới đã đến
tụ họp và tỏ sự tôn kính đến Ðức Phật khi Ngài lưu
lại trên đỉnh núi.
63. Chẳng có vị chư
Thiên nào vượt trội Ðức Phật về sắc tướng - Ðức Phật
trội hơn tất cả những vị chư Thiên ấy, riêng Ngài chiếu
sáng rực rỡ.
64. Vào lúc ấy,
A"nkura ở cách xa mười hai do tuần trong khi Indaka, sáng
chói hơn Vị ấy, đang ở gần bên Ðức Phật.
65. Ðức Phật, khi
nhìn vào cả Iíkura và Indaka, bèn nói những lời này để
đề cao những bậc đáng thọ lãnh vật cúng dường.
66. "Một sự bố
thí vĩ đại được cho ra bởi ngươi, này A"nkura, trong
một thời gian dài. Vậy mà Ngươi đã ngồi quá cách xa,
hãy đến trước mặt Như lai".
67. Bị thúc dục bởi
Bậc đã tu chứng, A"nkura bèn đáp lại rằng, "những
vật thí ấy có lợi ích gì cho con đâu? Chúng không có được
những bậc xứng đáng thọ lãnh vật thí,
68. Trong khi đó, vị
yakkha Indaka này đã cho ra một vật thí có phần nhỏ bé, thế
mà sáng chói hơn chúng con như mặt trăng sáng trội các vì
sao.
69. Cũng như nhiều hạt
giống được gieo trên đám ruộng khô cằn, nó không cho kết
quả dồi dào cũng không làm hài lòng người gieo.
70. Cũng vậy, nhiều vật
thí, khi được đặt vào trong những người có hạnh kiểm
nghèo nàn, thì không cho kết quả dồi dào, cũng không làm
hài lòng người cho.
71. Và cũng như, khi hạt
giống ít mà được gieo trên một đám ruộng phì nhiêu và
có những đám mưa thích hợp tưới xuống, thì kết quả
làm hài lòng người gieo.
72. Cũng vậy, có quả
lớn khi việc phước, dầu nhỏ nhặt nhất, được làm đối
với những người có bản tánh như có giới đức và có đức
tánh khác..."
Chú giải:
61. Ở đây: Ở CÕI BA
MƯƠI BA (taavati.mse): trong cõi Ba mươi ba. Ở TRÊN NÚI ÐÁ
PANDUKAMBALA (silaaya.m pa.n.dukampale): Khi Ðức Phật, là bậc
cao quí nhất trong nhân loại, đang ngụ ở trên chiếc ngai bằng
đá tên là Pa.n.duka.mpala - đây là cách nên được hiểu.
62. CÁC VỊ CHƯ THIÊN
ÐÃ HỘI HỌP TỪ MƯỜI NGÀN THẾ GIỚI (dasasu lokadhaatuusi
sannipatitvaana devataa): Các vị chư Thiên thuộc cõi dục và
các vị chư Thiên thuộc cõi Brahmaa đã hội họp cùng với
những vị chư Thiên trong mười ngàn cakkavaala (thế giới sa
bà) để tỏ sự tôn kính đến Ðức Phật, Ðức Thế Tôn,
và với mục đích để nghe pháp, vì lý do này mà có lời
nói rằng "Và tỏ sự tôn kính đến Ðức Phật khi
Ngài đang lưu trú ở trên đỉnh của ngọn núi". Nghĩa
là trên đỉnh của ngọn núi Sineru .
64. LÚC BẤY GIỜ
A"NKURA Ở CÁCH XA MƯỜI HAI DO TUẦN (Yojanaani dasa dve
A"nkuro' ya.m tadaa ahu): Lúc bấy giờ, vào lúc mà vị ấy
xoay mặt về phía Bậc Ðạo sư, A"nkura có hạnh kiểm
như đã nêu ra ở trên, ở cách xa mười hai do tuần, nghĩa
là vị ấy đang ngồi ở một chỗ cách chỗ mà Bậc Ðạo
sư đang ngồi mười hai do tuần.
67. Bị xúi dục bởi Bậc
đã tu chứng (codito bhaavitattena): Bị thôi thúc bởi Ðức Phật
toàn giác, bởi bậc có tâm tu tập bằng sự trau dồi các
thánh đạo và tu tập Mười pháp Ba la mật. Những câu kệ
bắt đầu bằng, "Những vật thí ấy có lợi ích gì đối
với con?" Ðược nói bởi A"nkura để trả lời Bậc
Ðạo sư. Ở đây, CHÚNG KHÔNG CÓ ÐƯỢC NHỮNG BẬC XỨNG
ÐÁNG THỌ LÃNH NHỮNG VẬT CÚNG DƯỜNG (dakkhineyyena
su~n~nata.m): "bởi vì những vật thí của con lúc bấy giờ
không có được, trống rỗng, thiếu kẻ xứng đáng thọ
lãnh những vật cúng dường, do đó những vật thí ấy có
lợi ích gì đối với con?" Vị ấy nói, khi coi thường
những vật thí của chính vị ấy.
68. YAKKHA (yakkho):
Devaputta. ÐÃ CHO Dajjaa=Datvaa (thể văn pham hoán chuyển) SÁNG
CHÓI HƠN CHÚNG CON (atirocati a.mhehi) vị ấy chiếu sáng rực
rỡ, vượt trội ánh sáng của những kẻ như con: Hi (không
được dịch) chỉ là một tiểu từ không biến đổi.
Nghĩa là vị ấy chiếu sáng rực rỡ, sáng chói và vượt
trội hơn chúng con. Vị ấy đã nói gì? "Như mặt trăng
sáng trội hơn các vì sao?"
69. CÓ ÐẤT KHÔ CẰN
(Ujjangale): Ðó là một mảnh đất cứng; một số nói rằng
nó có nghiã là "đất phèn". ÐƯỢC TRỒNG
(ropita.m): Ðược gieo, hay được xới lên rồi trồng lại.
KHÔNG LÀM HÀI LÒNG (na pi toseti): Chẳng làm hoan hỷ, hay
không có sự hoan hỷ nào được tạo ra do bởi quả thiện
của nó.
70. CŨNG VẬY (tath'eva):
Nghĩa là cũng như, khi dầu có nhiều hạt giống được trồng
trong một thửa ruộng có đất phèn, không cho kết quả dồi
dào, không đem lại nhiều kết quả, không làm hài lòng người
gieo trồng, dầu cho có nhiều vật thí cũng vậy, khi được
đặc vào trong những người có hạnh kiểm nghèo nàn, trong
những người không có giới, thì không đem lại nhiều quả
báu, cũng không làm hài lòng người bố thí.
71. CŨNG NHƯ, KHI ÍT HẠT
GIỐNG DẦU ÐƯỢC TRỒNG TRÊN ÐẤT PHÌ NHIÊU (yathaa pi
bhaddake): ý nghĩa nên hiểu là điều trái ngược với đều
đã được nói trong hai câu kệ trước - đây là cách nên
được hiểu. VÀ NHỮNG ÐÁM MƯA THÍCH HỢP ÐƯỢC BAN XUỐNG
(Sammaadhaara.m pavecchante): Và những đám mưa tưới xuống một
cách thích hợp, nghĩa là khi trời mưa xuống từng năm, mười
hay mười lăm ngày.
72. NHƯ CÓ NHỮNG ÐỨC
TÁNH (Gunava.ntesu): Như chuyên tâm vào những đức tánh tốt
như các tầng thiền v.v... ÐẾN NHỮNG BẬC CÓ BẢN TÁNH NHƯ
VẬY (taadisu): Ðến những người đã đạt đến những đặc
tính như có tánh chất thiện v.v.. HÀNH ÐỘNG (Kaara.m) được
nêu ra với sự méo mó về giống tánh, nghĩa là một sự lợi
hành. Vị ấy đã nói về loại lợi hành nào? Một hành động
phước.
73. Những vật thí cho
ra có sự phân biệt thời cái được cho ra có quả báo lớn.
Khi những vật thí được cho ra với sự phân biệt thời những
người bố thí sẽ đi đến cõi
trời.
74. Bố thí với sự
phân biệt được Ðức Sugata tán dương. Cái mà được cho
đến những Bậc xứng đáng thọ lãnh những vật cúng dường
ở đây trong đời này thì có quả báu lớn như hạt giống
được gieo trên thửa ruộng màu mỡ.
Chú giải:
73. Ở đây, VỚI SỰ
PHÂN BIỆT: Viceyya=Vicinitvaa (thể văn phạm hoán chuyển):
Khi một người đã biết chắc bằng trí tuệ rằng người
thọ lãnh vật thí được nêu ra là phước điền. Phần còn
lại thì tự chúng đã rõ ràng hết rồi.
Khi bắt đầu bằng câu
kệ rằng, "Một sự bố thí vĩ đại được cho ra bởi
ngươi", Ngạ quỉ sự về A"nkura này được nêu
lên bởi Bậc Ðạo sư ở cõi ba mươi ba trước mặt các vị
chư Thiên trong mười ngàn, nhằm mục đích giải thích tầm
quan trọng của việc có được những bậc xứng đáng thọ
lãnh những vật cúng dường. Khi Ngài đã thuyết tụng
AbhiDhamma ở đó trong ba tháng và đã làm lễ Ðại Tự Tứ
vị Deva ấy của những vị chư Thiên đã đi xuống từ cõi
trời ấy, được vây quanh bởi những hội chúng chư Thiên,
đến thành phố Sankassa . Ðúng lúc, Ngài đến tại Saavatthi
và trong khi đang ngụ ở Jetavana, Ngài giảng giải chi tiết
giữa tứ chúng nhằm mục đích giải thích tầm quan trọng
của việc có được những bậc xứng đáng thọ lãnh những
lễ vật cúng dường, bài pháp bắt đầu từ, "mục đích
ấy mà nhờ đó chúng ta đang đi", và đưa giáo pháp đến
đỉnh cao bằng thời pháp về tứ đế. Vào lúc kết thúc của
thời Pháp ấy, tuệ quán về diệu pháp đã sanh lên trong
vô số ngàn Ko.ti chúng sanh.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |