[2.3]
II.7 TÀI
HỘ QUỈ SỰ
(DHANAPAALA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Người trần truồng
và có hình tướng thô xấu."
Pháp thoại này được
Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi ngài đang ngụ ở
Jetavana, liên quan đến Ngạ quỷ Dhanapaala (Tài Hộ).
Tương truyền rằng
trước khi Ðức Phật xuất hiện tại Kinh đô Erakaccha trong
Vương quốc của những vị Dasa.n.na, có một vị thương nhân
giàu có tên là Dhanapaalaka, là kẻ không có đức tin cũng không
có lòng tịnh tín và keo kiệt, lại chấp theo tà kiến
Natthika. Những hoạt động của ông ta được biết đến
qua kinh tạng. Khi ông ta chết, ông ta sanh làm một Ngạ quỷ
trong vùng hoang vắng. Thân của ông ta lớn bằng thân của
cây thốt nốt. Da thì nổi u lồi, thô thiển và trông kinh
khiếp, xấu xí và dị hợm - Trông thật ghê tởm. Bị chế
ngự bởi cơn đói và khát và cái lưỡi của nó thè ra khỏi
cái cuống họng khô cháy của nó, nó đi lang thang chỗ này
chỗ nọ trong năm mươi lăm năm là không kiếm được một
chút gì, dầu là một hột cơm hay một giọt nước. Rồi
khi Ðức Thế Tôn của chúng ta xuất hiện trong thế gian và
đã lăn Bánh xe Diệu Pháp, và đến đúng lúc đang cư trú tại
Saavatthi, một số thương nhân là những dân cư của thành
Saavatthi, chất đầy hàng hoá trong năm trăm cỗ xe, đi đến
xứ Uttaraapatha, bán hàng hoá của họ ở đó, và lại chất
đầy những hàng hoá nhận được vào những cỗ xe của họ.
Khi họ đang trở về vào lúc chiều tối, họ đi đến một
con sông bị khô nước nọ. Họ tháo ách cho những con bò
ở đó và cấm trại qua đêm. Rồi con Ngạ quỷ ấy bị
khát, đi đến tìm kiếm một cái gì đó để uống. Vì
không kiếm được gì dầu một giọt nước ở đó, nó ngã
sấp, thất vọng, như cây thốt nốt bị đốn hạ đến gốc
rễ. Khi trông thấy nó, những thương nhân bèn hỏi nó bằng
câu kệ này:
1. "Ngươi trần truồng
và có hình tướng thô xấu, gầy ốm với những đường gân
lộ ra. Ngươi là kẻ ốm yếu, với những xương sườn lộ
ra, bây giờ người là ai?"
Nhân đó Ngạ quỷ nói
rõ gốc gác của nó.
2. "Thưa Ngài, tôi
là một Ngạ quỷ, đã đi đến kiếp sống đau khổ trong cõi
của Yama; Sau khi đã làm ác nghiệp, tôi đã đi từ đây đến
cõi Ngạ quỷ". Một lần nữa các thương nhân lại hỏi
Ngạ quỷ về nghiệp mà nó đã tạo:
"Vậy ngươi đã
làm ác nghiệp nào bằng thân khẩu hoặc ý? Do kết quả của
nghiệp nào khiến ngươi ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"
Nó bèn nói những câu
kệ này để kể về những hoàn cảnh về quá khứ, hiện tại
và tương lai của nó, từ chỗ sanh lên trước kia của nó
trở đi, và cho họ một lời sách tấn:
4. "Tại thành phố
của những người Dasa.n.na, là Erakaccha nổi tiếng. Trong
quá khứ tôi là một thương nhân ở đó - được biết đến
qua cái tên là Dhanapaala (Người giữ của)
5. Tám mươi cỗ xe chất
đầy vàng là của tôi; tôi cũng có nhiều vàng và nhiều ngọc
trai và những loại đá quí.
6. Dầu có của cải to
lớn như vậy, nhưng tôi lại không thích bố thí. Tôi đóng
cửa trước khi ăn vì sợ những người ăn xin sẽ thấy tôi.
7. Tôi không có niềm
tin, hèn hạ, keo kiệt và hay chửi mắng. Tôi có thói quen ngăn
cản nhiều người trong khi họ đang bố thí và làm các thiện
sự.
8. Khi nói rằng,
"không có kết quả nào từ sự bố thí cả, kết quả
của sự tự chế sẽ đến từ đâu?" Tôi phá huỷ những
hồ sen và những chỗ uống nước khác, những khu huê viên,
những chỗ dẫn nước ở bên đường và những chiếc cầu
tại những chỗ khó băng qua.
9. Tôi đã không làm việc
làm phước thiện. Tôi chỉ làm những việc ác. Khi rời khỏi
cõi ấy, tôi sanh vào trong cõi Ngạ quỷ, bị hành hạ bởi
cơn đói và khát. Trong năm mười lăm năm kể từ khi tôi chết.
10. Tôi không biết rõ
về ăn hay uống nước. Người bị cản trở đi đến chỗ
hư hoại, người đi đến chỗ hư hoại bị cản trở.
Tương truyền rằng những Ngạ quỷ quả thật biết rằng
người mà bị cản trở đi đến chỗ hư hoại.
11. Trong quá khứ tôi cũng
bị cản trở như thế. Tôi đã không bố thí dầu có nhiều
cảu cải tồn đọng. Dầu những vật thí nằm trong tay,
tôi cũng chẳng làm chỗ nương tựa cho chính tôi.
12. Về sau tôi cảm thấy ăn năn khi những nghiệp
của chính tôi bắt đầu cho quả. Sau bốn tháng cái chết sẽ
đến với tôi.
13. Và tôi sẽ rơi xuống
địa ngục kinh khiếp và ác nghiệt: có bốn góc với bốn
cổng, nó được chia thành những phần bằng nhau, được
bao quanh bởi một bức tường sắt, có mái bằng sắt ở
trên.
14. Cái nền nóng rực
sáng của nó làm bằng sắt cháy đỏ: Nó trải rộng khắp
quanh một trăm do tuần, đứng mãi mãi như thế.
15. Ở đó, trong một
thời gian dài tôi sẽ trải qua những cảm thọ đau đớn do
quả của những ác nghiệp của tôi. Vì lý do này tôi vô
cùng sầu khổ.
16. Do đó tôi xin nói với
các người rằng, "Tôi xin chúc lành đến các người, mỗi
người trong các vị đã hội họp ở đây. Ðừng gieo tạo
một ác nghiệp nào dầu công khai hay bí mật.
17. Vì nếu quý vị
làm hoặc sẽ làm một ác nghiệp nào đó thời sẽ không
có con đường trốn thoát khỏi đau khổ dành cho các người
đâu, cho dù các người có bay lên trời và chạy đi xa khuất
chỗ nào.
18. Hãy tôn kính mẹ,
hãy tôn kính cha; Hãy tôn kính các bậc trưởng thượng
trong gia đình. Hãy tỏ sự sùng kính đến các vị Sa môn
và Bà la môn - bằng cách này các người sẽ đi đến cõi
trời."
Chú giải:
4. Ở đây, CỦA NHỮNG
VỊ DASA.N.NA: Trong vương quốc của những người Dasa.n.na
hay của những vị vua có tên ấy. ERAKACCHA (Erakaccha.m): là
tên của thành phố ấy. Ở ÐÓ (Tattha): Trong thành phố ấy.
TRONG QUÁ KHỨ (Pure): Trước kia, trong kiếp quá khứ. TÔI ÐƯỢC
BIẾT ÐẾN LÀ DHANAPAALA (Dhanapaalo ti ma.m vidu): người ta biết
tôi là phú hộ Dhaanapaala . Vị ấy thốt lên câu kệ này, bắt
đầu là, "tám mươi" để cho thấy tại sao cái tên
đặc biệt ấy lại được cho đến vị ấy vào lúc bấy
giờ.
5. Ở đây, TÁM MƯƠI CỖ
XE (Asiiti saka .tavaahaana.m): hai mươi Khaarii lố hàng được kể
là bằng một cỗ xe hàng. Tám mươi cỗ xe chất đầy vàng
này và cũng vậy những kahapa"na thực ra là của tôi -
Ðây là cách nên được hiểu. VÀNG CỦA TÔI CÓ NHIỀU
(Pathuuta.m me jaataruupa.m): Nhiều vàng đến vô số Bhaara .
6. TÔI KHÔNG THÍCH BỐ
THÍ (Na me daatu"m piya.m ahu): Tôi không thích cho ra những
vật thí. E RẰNG NHỮNG NGƯỜI ĂN XIN SẼ TRÔNG TH?Y TÔI (Maa
ma.m yaacanakaaddasum): Tôi đóng cửa nhà trước khi tôi ăn, vì
nghĩ rằng những người ăn xin sẽ không được trông thấy
tôi".
7. KEO KIỆT (Kadariyo):
vô cùng bần tiện. THÍCH CHỬI MẮNG (Paribhaasako): Khi ông ta
trông thấy mọi người bố thí vật thực thì ông ta đe doạ.
TRONG KHI HỌ ÐANG BỐ THÍ VÀ ÐANG THỰC HÀNH (Dadantaana.m
karontaana.m): Ðây là sở hữu cách mang ý nghĩa về đối cách.
Khi họ đang bố thí những vật thực và thực hành những
việc phước. NHIỀU NGƯỜI (Bahujana.m): nhiều chúng sanh.
Trong khi họ đang bố thí và làm phước, thì tôi có thói
quen ngăn cản, tôi làm cản trở nhiều người, đông đảo
những chúng sanh, không cho làm việc phước ấy.
8. "Không có kết
quả từ sự bố thí v.v..- Ðây là câu giải thích những
lý do của ông ta về việc ông ta ngăn cản những vật thí...
Ở đây không có kết quả từ sự bố thí (Vipaako n'atthi
daanassa): quả thật không có kết quả của sự bố thí.
Ông ta giải thích rằng riêng phước là phước thôi và bố
thí chỉ là sự mất mát của cải mà thôi. CỦA TỰ CHẾ
(Samya nassa): tự chết trong điều học. KẾT QUẢ SẼ ÐẾN
TỪ ÐÂU? (Kuto phala.m): quả thật vậy, kết quả sẽ có
được từ đâu. Thọ trì những giới cấm là hoàn toàn vô
ích. Ðây là ý nghĩa. NHỮNG HUÊ VIÊN (aaraamaani): Những rừng
cây và những khu vườn khả ái. NHỮNG CHỖ CÓ NƯỚC Ở BÊN
VỆ ÐƯỜNG (Papaayo): Những cái láng có nước uống. TẠI
NHỮNG CHỖ MÀ KHÓ ÐI QUA (Dugge): Tại những chỗ mà khó đi
tiếp do bởi nước và những vũng sình. NHỮNG CHIẾC CẦU
(Sa.nkamanaani): Những con đường đắp cao.
9. "KHI TÔI MẠNG
CHUNG TỪ CÕI ẤY (Tato Cuto): khi tôi mạng chung khỏi thế giới
của loài người. NĂM MƯƠI LĂM: Pa~ncapa.n.naasa=
Pa~ncapa~n~naasa (thể văn phạm hoán chuyển), từ khi tôi chết
(Yato kaala"nkato aha.m ) từ khi tôi chết trở đi.
10. TÔI KHÔNG Ý THỨC
ÐƯỢC (Nàbhijaanaami): Suốt thời gian ấy tôi không biết
ăn và uống là gì cả. NGƯỜI MÀ BỊ KỀM HÃM ÐI ÐẾN CHỖ
TIÊU HOẠI (Yo samyamo so vinaa so) bị kềm hãm bằng lối sống
tham lam v.v... Bởi không bố thí đến ai cả - Ðiều ấy quả
thật là sự tiêu hoại cho những chúng sanh như vậy mà
trong đó, nó là nguyên sanh lên cảnh ngộ bi thảm lớn, phải
sanh làm Ngạ quỷ trong cõi Ngạ quỷ. NGƯỜI MÀ ÐI ÐẾN CHỖ
TÀN RỤI ÐÃ BỊ KỀM HÃM (Yo vinaaso sa.myamo): Bằng lời nói
này, nó nói về tánh cách chắc chắn của sự kiện đã
được nêu ra ở trên. TƯƠNG TRUYỀN RẰNG NHỮNG NGẠ QUỶ
THẬT SỰ BIẾT RẰNG (Petaa hi kira jaananti): Chữ quả thật
(hi) ở đây được dùng để nhấn mạnh, và những chữ
"Tương truyền rằng", (Ki ra) chỉ rõ rằng nó xuất
phát từ tin đồn; kềm hãm, thiếu lòng quãng đại với những
vật thí, là nguyên nhân gây ra sự suy sụp. Tương truyền rằng
chỉ những Ngạ quỷ mới biết sự thật này vì chúng bị
chế ngự bởi điều ấy. Chẳng phải loài người như vậy.
Không thể xảy ra đối với ngay cả loài người, như những
Ngạ quỷ, là được trông thấy bị chế ngự bởi cơn đói,
và khát v.v... Tuy nhiên những Ngạ quỷ thì biết khá rõ về
sự thật này vì chúng đã quen với những nghiệp mà chúng
đã làm trong kiếp quá khứ. Vì lý do này chúng nói lên câu
kệ này bắt đầu bằng: "Trong quá khứ tôi đã bị kềm
hãm như vậy"
11. Ở đây, TÔI BỊ KỀM
HÃM NHƯ VẬY (Sa.myamissa.m): Chính tôi cũng đã thực hành sự
thu lại, co lại, đối với việc làm phước, bố thí v.v...
DẦU NHIỀU CỦA CẢI (Bahuke dhane): dầu nhiều của cải được
biết đến.
16. Do Ðó: Ta.m= Tasmaa
(thể văn phạm hoán chuyển) ÐẾN CÁC NGƯỜI: Vo = Tumhe (Thể
văn phạm hoán chuyển). NHỮNG LỜI CỦA TÔI ÐẾN CÁC NGƯỜI
(Bhaddam vo): Những lời chúc lành, những mong ước tốt lành
nhất của tôi và những may mắn tốt đẹp đến cho các người.
Ðây là những chữ còn lại. MỖI NGƯỜI TRONG CÁC VỊ ÐÃ
HỘI HỌP Ở ÐÂY (Yaavant' ettha samaagataa): Mỗi người trong
các ông, hết thảy những người đã cùng nhau đến đây, tất
cả đều phải nghe điều mà tôi đã phải nói - đây là ý
nghĩa. CÔNG KHAI (aavi). Ngoài trời, những người khác có thể
trông thấy. KÍN ÐÁO (Raho): Che đậy, không thể thấy được
như vậy. Ðừng phạm vào, đừng làm, một điều ác nào,
điều đáng khinh, bất thiện dầu công khai bằng thân khẩu,
như sát sanh nói dối v.v.., hay kín đáo bằng lòng tham lam
v.v...
17. VÌ NẾU MỘT ÐIỀU
ÁC (Sace ta.m paapaka.m ka.mma.m): vì nếu các bạn làm điều
ác bây giờ, hay nếu các bạn làm điều ác trong tương lai,
thời quả thật không có con đường trốn thoát, không có sự
giải thoát khỏi đau khổ mà là quả của nó, như là những
người mà sanh trong cõi khổ như Ðịa ngục v.v... Hay nếu
ở trong cõi nhân loại, thì bị yểu thọ. CHO DÙ CÁC NGƯỜI
CÓ BAY LÊN VÀ BỎ CHẠY (Upaccaa 'pi palaayita.m): nghĩa là hiển
nhiên không có con đường thoát khỏi cảnh khổ ấy dành
cho các bạn đâu, ngay cả những người bay lên và đi xuyên
qua hư không. Một số bài kinh cũng đọc là giải thoát
(Upecca): vì nghiệp đã đến hồi trả quả khiến nó hằng
đeo đuổi các bạn, dầu các bạn có trốn chạy bằng cách
này hay cách khác cũng không có lối thoát khỏi trạng thái
ấy dành cho các bạn, cho dù các bạn có cố ý muốn chạy
trốn, nghĩa là điều ấy đơn giản là sẽ chín mùi khi có
một sự kết hợp giữa những điều kiện cần thiết khác
về nơi tái sanh và thời gian v.v... Sự kiện này cũng được
giải rõ bằng câu kệ này: "Chẳng phải trên trời cao
hay giữa biển sâu hay đi vào những hẻm núi đá, để trú
thân mà có thể thoát khỏi hậu quả của những nghiệp bất
thiện".
18. HÃY TÔN KÍNH MẸ,
(Mateyyaa): Vì lợi ích của mẹ mình. HÃY (Hotha): Hãy làm những
công việc phụng dưỡng v.v... Ðến họ. HÃY TÔN KÍNH CHA
(Petteyya): điều này nên hiểu giống như thế. HÃY TÔN TRỌNG
CÁC VỊ TRƯỞNG THƯỢNG TRONG GIA ÐÌNH (Kule ja.t.thaapacaayikaa=Kule
je.t.thakaana.m apacaayanataraa (Phối hợp cách). NHỮNG VỊ ẨN
S~N (Saana~n~naa): Hãy tôn trọng những vị ẩn sĩ. Theo cách
như thế CÁC BÀ LA MÔN (Brahma~n~naa): nghĩa là hãy tôn trọng
những vị đã quăng bỏ những ác nghiệp. BẰNG CÁCH NÀY
CÁC BẠN SẼ ÐI ÐẾN CÕI TRỜI (Eva.m sagga.m gamissatha): nghĩa
là sau khi thực hành những việc phước ấy theo cách mà
tôi đã giải thích thì các bạn sẽ sanh vào trong cõi
Devaloka .
Bất cứ điều gì mà
chưa giải rõ ý về ý nghĩa của nó ở đây thì nên hiểu
đúng như đã được nêu ra ở Ngốc đầu quỷ sự v.v...
Sau khi nghe qua điều mà
Ngạ quỷ đã phải nói, những thương nhân ấy, đầy xúc
động và thương hại cho nó, bèn lấy một bát nước, bảo
nó nằm xuống và rồi đổ nước vào miệng của nó. Sau đó,
mọi người đã làm điều này nhiều lần, nhưng nước mà
nó thèm khát không đi xuống được cuống họng của nó do
vì quả của những ác nghiệp của Ngạ quỷ ấy. Như vậy
làm sao để nỗi khao khát của nó được dập tắt? Họ hỏi
nói xem liệu nó có được nguôi ngoai chút ít hay không.
"Cho dù có nhiều người đổ nhiều lần vào miệng của
tôi nhiều giọt nước, tuy nhiên vẫn sẽ không có lối
thoát khỏi cõi Ngạ quỷ này được". Nó nói. Khi những
thương nhân nghe qua điều này, họ đầy xúc động và nói
rằng, "Nhưng có cách gì khiến cơn khát của ngươi được
được dập tắt không?" Ngạ quỷ nói rằng, "Khi
ác nghiệp này gần hết và những vật thí đã được cúng
dường đến Ðức Tathaagata hay những vị Saavaka của Ðức
Tathaagata, và người ta hồi hướng phước thí ấy đến cho
tôi, thời tôi sẽ được thoát khỏi cảnh Ngạ quỷ
này". Khi nghe qua điều này, những thương nhân ấy bèn
đi đến Saavatthi, đi đến Ðức Thế Tôn và nêu vấn đề
ấy với Ngài. Họ qui y Tam bảo và thọ trì ngũ giới, và
trong bảy ngày dâng cúng vật thực cúng dường to lớn đến
Chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu và hồi hướng phước thí
đến Ngạ quỷ ấy. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm
nguyên nhân cần thiết đã sanh khởi và thuyết Pháp đến tứ
chúng và nhờ thời pháp ấy mọi người từ bỏ bợn nhơ của
lòng bỏn xẻn và tham lam v.v... Và lấy làm thoả thích trong
những việc phước như bố thí v.v...
-ooOoo-
II.8 TIỂU
THƯƠNG QUỈ SỰ
(CUULASE.T.THIPITAVATTHUUVA.N.NANAA)
"Thưa ông, ông là
người mà đã xuất gia, bị trần truồng và gầy ốm".
Pháp thoại này được
Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở trúc
Lâm viên, liên quan đến Ngạ quỷ Cuu.lase.t.thi .
Tương truyền rằng, tại
Ba la nại có một vị Gia chủ tên là Cuulase.t.thi, là người
chẳng có niềm tin cũng không có lòng tịnh tín, lại là người
bần tiện và keo kiệt và không có sự kính trọng trong việc
thực hành những việc Phước. Khi chết, ông ta tái sanh
trong cõi Ngạ quỷ, đầu của ông ta trọc lóc, không có y
phục và, thân thể thì không có thịt và máu đến nỗi chỉ
còn da bọc xương và gân mà thôi. Tuy nhiên, đứa con gái
aanulaa của ông ta, đang ở trong nhà của chồng nàng tại
Andhakavinda, sửa soạn một số vật thí như cơm v.v... Với
ước muốn tiếp đãi một số Bà la môn để cầu siêu cho
cha của nàng. Khi ông ta biết được việc này, Ngạ quỷ
ấy, đầy mong ước, bèn đi đến đó xuyên qua hư không, đến
Raajagaha vào lúc mà vua Ajaatasattu đang đi tới đi lui ở tầng
trên của cung điện, không thể ngủ được bởi vì lương
tâm khó chịu do những cơn ác mộng, do sự xúi dục của
Devadatta, sau khi giết chết phụ vương của vị ấy. Khi trông
thấy con Ngạ quỷ ấy đi xuyên qua hư không, đức vua bèn hỏi
nói bằng câu kệ này:
1. "Ngươi là kẻ
đã xuất gia, bị trần truồng và gầy ốm, ngươi đang đi
đâu vào lúc ban đêm và vì lý do gì? Hãy nói cho ta biết
điều này- Chúng ta, nếu có khả năng, có thể tặng cho ngươi
những vật sỡ hữu cùng với tất cả mọi thứ".
Chú giải:
1. Ở đây, LÀ NGƯỜI
ÐÃ XUẤT GIA (Pabbajito): là một Sa môn. Tương truyền rằng
Ðức Vua đã nói rằng, "Ngươi là người đã xuất gia
mà lại trần truồng và gầy ốm," v.v... Khi cho rằng vị
ấy là một Sa môn loã thể vì trạng thái trần truồng và
cái đầu trọc lóc của nó. Ở đây, vì lý do gì? (Kissa
hetu): vì sao? TA CÓ THỂ TẶNG CHO NGƯƠI HẾT THẢY VẬT SỞ
HỮU (Sabba.m vitta.m patipaadaya tuva.m): ta có thể tặng cho ngươi,
ta có thể kiếm cho ngươi, theo đúng với ước muốn của
ngươi, những vật sở hữu, là những phương tiện nuôi sống
để ngươi được thoải mái, cùng với tất cả những thứ
có thể dùng được, hay nói cách khác, bằng tất cả thiết
tha khả dĩ có được của ta, chắc chắn chúng ta có thể
hành động theo cách này. Do đó, HÃY NÓI CHO TA BIẾT RÕ ÐIỀU
NÀY (aacikkha me ta.m): nghĩa là hãy giải thích cho ta biết lý
do tại sao ngươi đến.
Ðược hỏi như vậy bởi
đức vua, Ngạ quỷ nói lên ba câu kệ giải thích tình cảnh
của nó:
2. "Thành Ba la nại
nổi tiếng ở từ đằng xa; và tôi là một gia chủ ở đó,
thịnh vượng nhưng bần tiện. Tôi đã không bố thí, lại
có tâm hưởng lạc. Do bởi ác hạnh khiến tôi phải đi đến
cõi Yama.
3. Tôi bị kiệt quệ
đến như cây kim do bởi những điều này; Vì chính lý do
này, tôi đi đến những quyến thuộc của tôi để kiếm một
cái gì đó để ăn, nhưng họ thiếu đức bố thí và không
tin rằng có quả của sự bố thí trong kiếp sau.
4. Tuy nhiên, đứa con gái
của tôi thường xuyên lẫm bẩm rằng, "Tôi sẽ cho những
vật thí nhân danh cha và ông của tôi". Những vị
Bà-la-môn thì được hầu hạ sẵn cái mà nàng đã sửa soạn
và tôi đang đi đến Andhakavinda để kiếm ăn.
Chú giải:
2. Ở đây, NỔI TIẾNG
TỪ XA (Duuraghu.t.tha.m): Ðược tôn lên từ đằng xa bằng sự
khen ngơị về những đặc tánh của nó, nghĩa là nổi danh
khắp mọi nơi. THỊNH VƯỢNG (A.dhako = a.dho) (Thể văn phạm
hoán chuyển), nghĩa là có sự thịnh vượng lớn. BẦN TIỆN
(Diino): có tâm hẹp hòi, có tánh không bố thí. Vì lý do
này mà nó nói rằng "Tôi đã không bố thí". TÔI
CÓ TÂM SAY MÊ ÁI LẠC (Gedhitamano aamisasmi.m): Tôi có khuynh hướng
khao khát với tâm hay nghĩ đến sự thọ hưởng dục lạc.
DO ÁC HẠNH ÐƯỢC LÀM, TÔI ÐÃ ÐẾN CÕI YAMA (Dussìlena
yamavisaya.mhi patto). Do những hành động về ác hạnh được
làm bởi tôi khiến tôi đến cõi yama, là cõi Ngạ quỷ.
3. TÔI BỊ KIỆT QUỆ
ÐẾN BẰNG CÂY KIM (So suucikaaya kilamito): Tôi bị kiệt quệ,
Tôi bị đâm chích liên tục, bởi cơn đói mà có tên gọi
là "cây kim", Về tánh chất, nó giống hệt như cây
kim đâm chích vào người tôi. Thật ra cách đọc khác là sự
kiệt quệ (Kilamatho). BỞI VÌ NHỮNG ÐIỀU NÀY (Tehi): do bởi
những ác nghiệp nói trên là có tánh bần tiện v.v... Khi Ngạ
quỷ nhớ lại những ác nghiệp ấy, nó trở nên vô cùng thất
vọng và do đó nó nói như thế này: VÌ CHÍNH LÝ DO NÀY
(Ten'eva): Do bởi sự đói khát này. TÔI ÐI ÐẾN NHỮNG QUYẾN
THUỘC CỦA TÔI (~naatiiisu yaami): Tôi đi, tôi lên đường, đến
trước mặt những quyến thuộc của tôi. ÐỂ KIẾM MỘT
ÍT GÌ ÐÓ ÐỂ ĂN (aamisakincihetu): Vì một lượng nhỏ vật
thực, nghĩa là khao khát một ít vật thực. Nhưng họ thiếu
đức quảng đại và không tin rằng có qủa phước nào đó
của sự bố thí trong cõi kế đến (adaanasiilà na ca
saddahanti, 'Daanapphala.m hoti para.mhi loke"): Như đối với
tôi, cũng vậy trong cùng cách ấy, những người khác cũng
thiếu đức quảng đại và không tin rằng chắc chắn có quả
phước nào đó của sự bố thí trong thế giới sau. Do bởi
điều này, như tôi, họ cũng sẽ trở thành những Ngạ quỷ
và sẽ trải qua đau khổ lớn - Ðây là ý nghĩa.
4. Lẩm bẩm (Lapate): Nói
chuyện. THƯỜNG XUYÊN: Abhikkhana.m = Abhi.nha.m (Thể văn phạm
hoán chuyển), lập đi lập lại. Nàng lẩm bẩm cái gì?
Nàng nói rằng, "Tôi sẽ cho những vật thí dành cho những
người cha và ông của tôi." ở đây ÐẾN NHỮNG NGƯỜI
CHA (Piitunna.m): Ðến cho cha mẹ của tôi, hay đến cho những
người anh hay em của cha tôi. Ðến những người ông.
(Pitaamahaana.m): Ðến những người ông và những người cố
của tôi. ÐANG ÐƯỢC DÂNG ÐẾN (Pavivisayanti): Ðược cho
ăn. ÐẾN ANDHAKAVINDA (Andhakavinda.m): Ðến thành phố có tên
ấy. ÐỂ ĂN: Bhottu"m = Bhuu~njitu"m (Thể văn phạm hoán
chuyển).
Từ đây trở đi là những
câu kệ được nói bởi những vị kiết tập Tam Tạng..
5. Ðức vua nói với
nó rằng: " Sau khi ngươi đã ăn cái đó, ngươi hãy trở
lại đây nhanh; ta cũng sẽ cúng dường. Hãy nói cho ta biết
liệu có điều kiện nào vì chúng ta muốn lắng nghe một
câu nói nào đó về những điều kiện mà có thể tin được!"
6. "Chắc vậy",
nó nói và ra đi. Nhưng những người ăn vật thực ở đó
thì không xứng đáng thọ lãnh những vật thực cúng dường.
Bởi vậy một lần nữa nó trở lại Rà jagaha và xuất hiện
trước mặt chúa của loài người.
7. Khi thấy rằng Ngạ
quỷ ấy đã trở lại, đức vua bèn nói rằng, "Ta sẽ
cho cái gì? Hãy nói cho ta biết liệu có điều kiện nảo khả
dĩ ngươi có thể được hạnh phúc trong một thời gian dài
về sau".
8. "Khi Ðại vương
đã dâng cúng đến Ðức Phật và Chư Tăng vật thực cùng
với thức uống và y phục, tâu bệ hạ, thời hãy hồi hướng
phước thí ấy vì lợi ích của tôi. Bằng cách này, tôi
có thể được hạnh phúc trong một thời gian dài trong tương
lai".
9. Do đó, đức vua đi
xuống và ngay tức thì tự tay dâng cúng những vật thí vô
song đến chư Tăng; vị ấy thuật lại sự việc ấy đến
đức Tathaagata và hồi hướng phước thí ấy đến cho Ngạ
quỷ.
10. Ðược tôn trọng
như vậy và với tướng mạo sáng chói vô cùng, nó xuất hiện
trước mặt chúa của loài người và nói rằng, "Bây giờ
tôi là một Yakkha có thần thông cao cả nhất. Không có những
kẻ nào giống hay bằng tôi về năng lực hay thần thông.
11. Hãy xem sự vinh
quang vô hạn này của tôi được hồi hướng đến bởi Ðại
vương, sau khi Ðại vương đã cúng dường vô song thí đến
chư Tăng. Tôi sẽ được thoả mãn, tiếp tục và luôn luôn
dồi dào và sẽ sống hạnh phúc, hỡi Deva của loài người!"
Chú giải:
5. Ở đây, ÐỨC VUA
NÓI VỚI VỊ ẤY (Ta.m avoca raajaa): Vua Ajaatasattu nói với Ngạ
quỷ lúc nó vẫn còn đứng sau khi nói theo cách ấy: SAU KHI
NGƯOI ÐÃ THỌ LÃNH CÁI ÐÓ (Anubhaviyaana Tam pi). Sau khi ngươi
đã thọ lãnh những vật thí mà đã được sửa soạn sẵn
bởi con gái của ngươi. NGƯƠI NÊN TRỞ LẠI (Eyyaasi) ngươi
nên trở lại. SẼ LÀM: Karissa.m = Karissaami (Thể văn phạm
hoán chuyển). HÃY NÓI CHO TA BIẾT XEM CÓ ÐIỀU KIỆN NÀO
(aacikkha me ta.m yadi atthi hetu): Hãy nói cho ta biết, hãy giải
thích cho ta nghe, xem có cách nào không. MÀ CÓ THỂ TIN ÐƯỢC
(Sadhaayita.m) nghĩa là phải phải tin . BẤT CỨ CÂU NÓI NÀO
VỀ NHỮNG ÐIỀU KIỆN (Hetuvaco) Bất cứ câu nói nào liên
quan đến nguyên nhân, hãy lập lại một câu nói cùng với
những phương tiện của nó, như "Cái đó sẽ có lợi
ích cho tôi khi một vật thí được thực hiện ở một chỗ
đó đó và bằng cách như thế như thế."
6. "CHẮC VẬY",
VỊ ẤY NÓI (Tathaati vatvaa): "Tốt lắm", vị ấy
nói. Ở ÐÓ (Tattha): Tại andhakavinda, chỗ mà vật thực
đang được cúng dường. NHƯNG NHỮNG NGƯỜI MÀ ĂN NHỮNG VẬT
THỰC THÌ KHÔNG XỨNG ÐÁNG THỌ LÃNH SỰ CÚNG DƯỜNG ẤY
(Bhu~njimsu bhatta.m Na ca pana dakkhinaarahaa): Những người mà
ăn vật thực là những vị Bà la môn có ác hạnh, nghĩa là
những người mà ăn nó thì không có giới đức và không xứng
đáng thọ lãnh sự cúng dường. MỘT LẦN NỮA:
Punaapara.m=Puna apara.m (phối hợp cách), nó liền trở lại
Raajagaha một lần nữa
7. TA NÊN CHO CÁI GÌ?
(Kim dadaami): Ðức vua hỏi Ngạ quỉ, "Ta nên cho ngươi
loại vật thí nào?" NHỜ ÐÓ NGƯƠI (Yena tuva.m): Bằng cách
đó, ngươi. TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI VỀ SAU (ciratara.m): Trong
một thời gian lâu. HẠNH PHÚC (Pìnito): làm sao ngươi có thể
được vừa lòng, nghĩa là hãy giải thích điều này.
8. KHI ÐẠI VƯƠNG DÂNG
CÚNG (Parivisayaana): Khi bệ hạ đã cho ăn. TÂU BỆ HẠ
(Raaja): Nó nói với Ajaatasattu . VÌ LỢI ÍCH ÐẾN CHO TÔI (Me
hitaaya): Vì lợi ích của tôi, vì sự giải thoát khỏi trạng
thái sanh làm Ngạ quỉ của tôi.
9. DO ÐÓ (tato): Vì lý
do này, do bởi câu nói ấy; hay nói cách khác, từ đó
(tato): Từ chỗ đó. ÐI XUỐNG (Nipatitvaa): Ði ra, NGAY TỨC
THÌ (taava - d- eva) Ngay khi ấy, ngay lúc mà mặt trời đang mọc.
Ðức vua cúng dường vật thực trong cùng buổi sáng mà Ngạ
quỉ trở lại và hiện ra trước mặt đức vua. BẰNG CHÍNH
TAY CỦA VỊ ẤY: sahatthaa = sahatthena (thể văn phạm hoán
chuyển). VÔ SONG (Atula.m): không thể đo lường được, tốt
nhất, hảo hạng. CHO ÐẾN CHƯ TĂNG: daditvaa sa.nghe =
sa.nghassa datvaa (Thể văn phạm hoán chuyển). VỊ ẤY KỂ LẠI
SỰ KIỆN VỚI ÐỨC TATHÀGATA (aarocayi pakati.m tathaagatassa): Vị
ấy thuật lại tin về sự kiện ấy với Ðức Thế Tôn khi
nói rằng, "bạch Ðức Thế Tôn, vật thí này được làm
kiên quan đến một Ngạ quỉ nọ". VÀ KHI VỊ ẤY ÐÃ KỂ
LẠI ÐIỀU NÀY, VỊ ẤY HỒI HƯỚNG (aadisiddha=aadisi) Thể
văn phạm hoán chuyển) sự cho đến Ngạ quỉ ấy bằng chính
cách mà vật thí ấy có lợi cho nó.
10. NÓ (so): Ngạ quỉ.
TÔN TRỌNG (puujito): Cúng dường bằng vật thí đã được
cho. VÔ CÙNG SÁNG CHÓI (Ataviya sobhamaano): Vô cùng rực rỡ với
hào quang của chư Thiên. NÓ XUẤT HIỆN (paaturahosi=
Paatubhavi) (thể văn phạm hoán chuyển): Nó hiện ra trước
đức vua. BÂY GIỜ TÔI LÀ YAKKHA (yakkho'ham asmi): Sau khi đã
thóat khỏi kiếp sống ngạ qủy, tôi đã trở thành một vị
Yakkha, Tôi đã đạt đến trạng thái Devataa KHÔNG CÓ NGƯỜI
NÀO GIỐNG HAY BẰNG TÔI VỀ NĂNG LỰC HAY THẦN THÔNG (Na
mayha.m iddhisa masadisaa manussaa): Không có những người nào
mà giống như tôi về sự thù thắng này trong những vật sở
hữu hay bằng tôi về sự vinh quang thù thắng này.
11. HÃY XEM OAI LỰC VÔ
HẠN NÀY CỦA TÔI (Passaanubhaava.m aparimita.m mamayida.m): khi cho
đức vua trông thấy sự vinh quang của chính nó, nó nói rằng,
"Hãy xem oai lực chư Thiên vô hạn này của tôi. ÐƯỢC
HỒI HƯỚNG BỞI BỆ HẠ SAU KHI BỆ HẠ ÐÃ CÚNG DƯỜNG VÔ
SONG THÍ ÐẾN CHƯ TĂNG (tayaa nudittha.m atula.m daditvaa sa.nghe):
Sau khi bệ hạ đã cúng dường những vật thí thượng vị
vô song đến chư Thánh tăng, chúng được hồi hướng bởi
Ngài, vì lòng bi mẫn đối với tôi. TÔI SẼ ÐƯỢC THOẢ MÃN,
TIẾP TỤC VÀ LUÔN LUÔN, DỒI DÀO (Santappito satata.m sadaa
bahuuhi): Tôi sẽ được thoả mãn, tôi sẽ được hạnh phúc,
liên tục không gián đoạn, và luôn khi, suốt mọi khi, chừng
nào đời sống của tôi còn tồn tại ngay tại đó, vì
ngài đã làm thoả mãn những vị Thánh tăng bằng nhiều vật
thực cúng dường như vật thực, thức uống và y phục
v.v... TÔI SẼ SỐNG HẠNH PHÚC, HỠI DEVA CỦA LOÀI NGƯỜI
(yaami aha.m sukhito manussadeva): Nó cáo từ đức vua khi nói rằng,
"do đó, bây giờ tôi được hạnh phúc, hỡi vị deva
trong nhân loại, hỡi đại vương, và tôi sẽ
......thích" tôi sẽ đi đến bất cứ chỗ nào mà tôi
thích.
Khi Ngạ quỉ đã ra đi
sau khi cáo từ như vậy, vua Ajaatasattu nêu lên vấn đề ấy
với các vị Tỳ kheo. Các vị Tỳ kheo đi đến Ðức Thế
Tôn và nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế
Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh
khởi và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó.
Khi họ đã nghe qua thời pháp này, thì họ từ bỏ bợn nhơ
của lòng bỏn sẻn và thoả thích trong những việc phước
như bố thí v.v...
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 |
2.3 | 2.4 | 2.5
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 4.1| 4.2 | 4.3
| 4.4 | Mục lục |