[4.2]
IV.3 NAN
ÐÀ QUỈ SỰ
(NANDAKA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Vị vua tên là Pi"ngalaka
". Ðây là Quỉ sự Nandaka . Câu chuyện bắt nguồn như
thế nào?
Sau một thời gian hai
trăm năm từ khi Bậc Ðạo sư nhập Niết-bàn, ở trong vương
quốc sura.t.tha, có một vị vua tên là Pi"ngala . Tướng
quân của vị ấy tên là Nandaka, có tà kiến và quan điểm
đồi bại, và thường đi quanh công bố quan niệm sai lạc rằng,
'Không có điều gì là bố thí cả...' v.v... Ðứa con gái của
ông ta tên là Uttaraa, là một tín nữ và đã được gả cho
một gia đình thích hợp. Bấy giờ khi Nandaka chết, ông ta
tái sanh làm một vị Vimaanapeta trong một cây đa to trong khu
rừng Vi~njha . Vào lúc ông ta chết, Uttaraa cúng dường đến
một vị Trưởng lão đã đoạn trừ các lậu hoặc một
đĩa đựng đầy bánh, có hương vị thơm ngon, được làm bằng
sữa đông, và một bình nước được đổ đầy nước sạch,
mát và thơm và hồi hướng chúng khi nói rằng, "Xin cho
phước thí này đem lại lợi ích cho cha của tôi." Do nhờ
phước thí ấy, có hiện ra cho ông ta nước của Chư thiên
và vô số bánh. Khi ông ta trông thấy những thứ này, ông
ta suy nghĩ rằng, "chắc chắn ta đã làm một ác nghiệp
trong việc khiến cho mọi người chấp theo quan kiến sai lầm
rằng "Không có cái gì là bố thí cả.." v.v... Tuy
nhiên, bây giờ vua Pi"ngalaka đã đi và khuyên vua
Dhammaasoka và sẽ trở về khi vị ấy đã cho lời khuyên
này đến vị Vua kia. thôi được, tốt hơn ta nên đoạn trừ
tà kiến ấy đi .
Chẳng bao lâu sau, khi
vua Pi"ngalaka đang đi dọc theo con đường, trở về sau
khi đã cho lời khuyên đến vua Dhammaasoka, vị Peta khiến cho
con đường dẫn đến chỗ ngụ của vị ấy. Ðức vua đi dọc
theo con đường ấy trong khoảng thời gian giữa trưa. Khi vị
ấy đi dọc theo con đường thì đằng trước của vị ấy
có thể được trông thấy, nhưng ở đằng sau của vị ấy
thì biến mất. Khi người đàn ông mà ở sau cùng hết
trông thấy con đường mà đã biến mất thì ông ta hoảng sợ
và, khi kêu lên trong đau khổ, chạy đến báo tin cho đức
vua. Khi nghe qua điều này thì đức vua, hoảng sợ và tâm bị
giao động, đứng ở trên lưng con voi của vị ấy dò xét
ở bốn hướng. Khi vị ấy trông thấy chỗ ngụ là cây đa
của vị Peta, vị ấy đi đến đó, được tháp tùng bởi bốn
đội binh . Khi đã đến lúc đức vua đi đến chỗ ấy thì
vị Peta, ăn mặc rực rỡ, đi đến đức vua và nói lời
chào hỏi thân mật với vị ấy, sai đem nước và bánh đến
mời vị ấy. Ðức vua và những quân hầu tắm, ăn bánh và
uống nước, và khi cơn mệt của vị ấy do đi đường xa
đã lắng dịu, đức vua hỏi vị Peta rằng, "Ngài có phải
là một Devataa, một Gandhabba không?" v.v...
Khi vị Peta đã nói cho
đức vua nghe câu chuyện của mình ngay từ đầu và đã đoạn
trừ tà kiến cho đức vua, bèn an trú cho đức vua trong tam
qui và ngũ giới. Ðể chứng minh điều này những vị kiết
tập Tam Tạng đã nói lên những câu kệ này:
1. Ðức vua tên là Pi"ngalaka,
là người cai trị của dân tộc sura.t.tha, đang trở về lại
Sura.t.tha sau khi đã đi hầu những vị Moriya.
2. Vào lúc ban trưa nóng
cháy, đức vua đến ở một bãi lầy và trông thấy một
con đường khả ái, là con đường cát của vị Peta ấy.
3. Ðức vua nói với người
đánh xe ngựa rằng, "con đường này thật là khả ái,
an lành, an toàn và báo điềm tốt. - Này xa phu, chúng ta hãy
đi dọc theo con đường này từ đây đến vùng lân cận của
nước Suta.t.tha ."
4. Vị Sura.t.tha khởi sự
đi cùng với bốn đội binh của vị ấy: Một người đàn
ông mà xem ra bối rối nói điều này với Sura.t.tha.
5. "Chúng ta đã đi
sai con đường, là con đường đáng sợ và làm tóc dựng đứng
- ở đằng trước con đường có thể được trông thấy,
nhưng ở đằng sau nó không được trông thấy.
6. Chúng ta đã đi sai
con đường để vào cộng trú với những người của Yama;
mùi hôi thối của phi nhân thổi ra và những tiếng kêu than
hãi hùng sẽ được nghe".
7. Vua Sura.t.tha, bị
giao động, nói điều này với người đánh xe "chúng ta
đã đi sai vào con đường đáng sợ và làm dựng tóc - ở
đằng trước con đường có thể được trông thấy, nhưng
ở đằng sau thì không được trông thấy.
8. Chúng ta đã đi sai
con đường dẫn đến cộng trú với thần dân của Yama;
mùi hôi thối của phi nhân thổi ra và những tiếng kêu
rùng rợn sẽ được nghe".
9. Vị ấy trèo lên
trên lưng voi và, khi quan sát ở bốn hướng, trông thấy một
cây đa, "Kẻ uống nước từ cái chân", có đầy bóng
mát, về hình thể thì giống như một đám mây đen, giống
như sự hùng vĩ của một trận mưa giông.
10. Ðức vua nói với
người đánh xe của vị ấy rằng, "Cái vật đồ sộ mà
được trông thấy là cái gì, nó giống như một đám mây
đen, giống như vẻ hùng vĩ của một trận mưa giông."
11. "Tâu Ðại vương,
đó là một cây đa, là kẻ uống nước từ cẳng chân, là
cây có đầy bóng mát, giống như sự hùng vĩ của một trận
mưa giông".
12. Sora.t.tha lên đường
đi về hướng mà cái vật được trông thấy, giống như một
đám mây đen, giống như sự hùng vĩ của một trận mưa giông.
13. Ðức vua xuống khỏi
lưng voi và đi đến cây ấy, rồi ngồi xuống ở gốc cây
cùng với vị Tư tế quan và những tuỳ tùng của vị ấy,
và trông thấy một lu nước đầy và một số bánh thơm
ngon.
14. Người đàn ông có
tướng mạo của một vị Chư thiên, khắp thân hình có
trang sức, và trang phục lộng lẫy, đi đến và nói điều
này với vua Sora.t.tha,
15. "Tâu Ðại vương,
ngài cứ tự nhiên, ngài thật sự không phải đi đến chỗ
xấu; Hãy uống nước, tâu đức vua, hãy ăn những cái
bánh, hỡi bậc chiến thắng kẻ thù".
16. Ðức vua cùng với
những vị Tư tế quan và những tuỳ tùng của vị ấy uống
nước và ăn những cái bánh; Sau khi uống nước, Sora.t.tha nói
điều này,
17. "Ngài là một
Devataa, một Gandabba hay là Sakkapuri.n.dada? Vì không nhận ra
ngài nên chúng tôi hỏi ngài "làm sao chúng tôi có thể
nhận ra ngài?"
18. "Tôi không phải
là Deva, hay Gandhabba hay ngay cả Sakka Puri.n.dada, tâu đại
vương, tôi là một Peta đã đến đây từ Sura.t.tha ."
20. "Ngài đã có hạnh
kiểm gì, hạnh nghiệp gì, trước kia khi còn ở Sura.t.tha -
Do bởi phạm hạnh nào khiến oai lực này của ngài hiện
ra?"
21. "Tâu Ðại vương,
tôi là người của Sura.t.tha, và là một người có tâm ác,
có tà kiến và cư xử xấu xa, bỏn sẻn và hay mắng nhiếc.
22. "Tôi có thói
quen ngăn cản nhiều người mà đang bố thí và đang thực hành
các thiện sự; trong khi những người khác đang bố thí thì
tôi hành động như một vật chướng ngại.
23. Khi nói rằng,
"Không có kết quả từ sự bố thí; Từ đâu có quả của
sự tự chế? Quả thật không có Ðạo sư, như vậy ai sẽ
điều phục những người chưa được điều phục?
24. Tất cả chúng sanh
đều giống như nhau - thế thì tại sao cúng dường những bậc
trưởng thượng? Không có năng lực hay sự tinh tấn; vậy sự
tinh tấn của người có lợi ích gì?
25. Quả thật không có
kết quả từ sự bố thí - Người mang hận thì không thể
được tẩy sạch; Kẻ phàm phu nhận lãnh cái gì phải lãnh
của người ấy qua sự thăng trầm của số phận.
26. Không có mẹ, cha
hay anh em; Không có thế giới bên kia. Không có cái gì được
cho ra, không có sự cúng dường hi sinh - Không có sự để dành
được biết đến.
27. Nếu người đi giết
chết một người hay cắt đầu một người khác, thì đó
không phải là người giết người - cây kiếm chỉ đi vào
bên trong giữa bảy nguyên chất đó thôi.
28. Cái gọi là linh hồn
thì không thể hoại diệt hay chia chẻ được; nó có hình
tám cạnh, hay hình cầu như trái banh, và cao năm trăm do tuần
- Như vậy ai có thể tiêu diệt linh hồn được.
29. Cũng như cuộn chỉ
khi được quăng đi thì chạy tiếp và tự nó nhả chỉ ra,
cũng vậy trong cùng cách ấy linh hồn tiếp tục chạy, tự
nó trải ra.
30. Cũng như người rời
bỏ một ngôi làng và đi vào một ngôi làng khác, dường thế
ấy, linh hồn cũng đi vào một thân khác.
31. Cũng như người rời
bỏ một ngôi nhà và đi vào một ngôi nhà khác, dường thế
ấy, linh hồn cũng đi vào một thân khác.
32. Trong tám mươi bốn
ngàn Ðại kiếp, những người ngu và những kẻ trí đều
phải bị trôi lăn trong vòng luân hồi trước khi họ chấm
dứt đau khổ.
33. Hạnh phúc và đau
khổ đều được đong lường bằng cái thùng Dona và cái
thúng; Ðấng trị vì biết rõ tất cả, trong khi những người
dân khác thì lúng túng.
34. Trong quá khứ, tôi
đã có tri kiến như vậy; Tôi lúng túng và bị che phủ bởi
vô minh, đầy những tà kiến và đã cư xử tệ bạc, bỏn
sẻn và hay chê bai.
35. Cái chết của tôi
sẽ đến trong sáu tháng nữa,và tôi sẽ rơi xuống địa ngục
kinh khủng dữ dội.
36. Có bốn góc và bốn
cổng, nó được chia thành những phần bằng nhau, được
bao quanh bởi một bức tường sắt với mái bằng sắt ở
bên trên.
37. Cái nền nóng sáng
của nó được làm bằng sắt chảy đỏ; Nó trải rộng khắp
quanh một trăm do tuần, đứng mãi mãi như thế.
38. Sau một trăm ngàn năm,
có một âm thanh sẽ được nghe - Ðây là Lakkha, tâu Ðại vương,
sau năm thứ một trăm của một Ko.ti (10.000.000) năm.
39. Trong một trăm ngàn
Ko.ti, người mà có những tà kiến, là những người sống
ác và là những người hay phỉ báng những bậc Thánh, bị
nấu sôi trong địa ngục.
40. Ở đó trong một thời
gian dài, tôi sẽ thọ lãnh những cảm thọ đau đớn, là những
ác nghiệp của tôi - Vì lý do này tôi vô cùng sầu khổ.
41. Hãy lắng nghe điều
này, tâu Ðại vương, hỡi đấng chinh phục những kẻ thù
và đấng mở rộng bờ cõi, xin chúc lành đến Ðại vương.
Tôi có một đứa con gái tên Uttaraa, tâu Ðại vương,
42. Là người làm những
thiện nghiệp và là người tha thiết với ngũ giới và Bát
Quan Trai giới, có tự chế, bàn tay mở rộng, nhã nhặn và
không bỏn sẻn.
43. Nàng là người thọ
trì ngũ giới không bị sức mẻ và là một nàng dâu đối
với những người trong một gia đình khác. Nàng là một
tín nữ của bậc hiền trí Sakya, của đức Phật, Ðức Thế
Tôn.
44. Một vị Sa-môn có
giới đức, có đôi mắt nhìn xuống, có chánh niệm, các căn
của vị ấy được hộ phòng, khéo kiểm soát, đi vào làng
để khất thực theo từng nhà và đã đến chỗ ngụ của nàng.
45. Xin chúc lành đến
Bệ hạ, tâu đại vương. Khi Uttaraa trông thấy vị ấy,
nàng đã cúng dường đến vị ấy một bình nước và một
số bánh ngon khi nói rằng, "Cha của con đã chết, bạch
Ngài, xin cho phước thí này đem lại lợi ích cho vị ấy."
46. Ngay khi nàng hồi hướng
phước thí này thì kết quả hiện ra - Tôi hưởng thụ bất
cứ dục lạc nào mà tôi thích giống như vua Vessavana .
47. Hãy nghe đây, tâu
Ðại vương, hỡi bậc chiến thắng kẻ thù và kẻ mở rộng
lãnh thổ. Hỡi bậc chiến thắng kẻ thù, bệ hạ và gia đình
của bệ hạ hãy qui y Phật, Ðức Phật là bậc được công
bố trong thế gian này cùng với chư Thiên của nó là vô thượng.
48. Hỡi đấng chiến
thắng những kẻ thù, bệ hạ và gia đình của bệ hạ nên
qui y Pháp, là Bát chánh đạo mà nhờ đó người ta đạt đến
trạng thái bất tử.
49. Hỡi Ðấng chiến
thắng những kẻ thù, Bệ hạ và gia đình của bệ hạ nên
qui y Tăng, có bốn bậc, là những người đã đi vào các đạo
và bốn bậc là những người đứng trong các quả, đây là
Tăng gồm những Bậc chánh trực, là những bậc đã an trú
trong giới đức và tuệ quán.
50. Bệ hạ nên từ bỏ
ngay sự sát sanh và hãy tránh xa trong đời này cái gì không
được cho đến; Bệ hạ không nên làm người uống những
chất say, bệ hạ cũng không nên nói dối, trong khi đó bệ
hạ nên vừa lòng với chính vợ của bệ hạ".
51. "Hỡi Yakkha,
ngài muốn cho tôi được tốt đẹp, ngài muốn cho tôi được
lợi ích, Hỡi Devataa ; Tôi sẽ làm điều gì mà ngài nói -
ngài là thầy của tôi.
52. Tôi sẽ qui y đức
Phật, Ðức Pháp, và tôi cũng sẽ qui y Tăng, vô thượng đối
với Chư thiên và nhân loại.
53. Tôi sẽ tránh xa
ngay sự sát sanh và tránh xa trong đời này cái gì không được
cho; Tôi sẽ không làm người uống chất say, tôi cũng sẽ
không nói dối và tôi sẽ vừa lòng với chính vợ của
tôi.
54. Tôi sẽ rủ bỏ như
bỏ vào một cơn gió mạnh hay trong một dòng nước đang chảy
nhanh, tôi sẽ từ bỏ ác kiến ấy, sẽ nhiệt tâm với
giáo Pháp của chư Phật".
55. Khi Sora.t.tha đã
nói điều này, vị ấy từ bỏ ác kiến của mình, tỏ sự
tôn kính đến Ðức Thế Tôn, và rồi bước lên chiếc long
xa xoay mặt về hướng đông."
Chú giải:
1. Ở đây VỊ VUA CÓ
TÊN LÀ PI"NGALAKA, LÀ NGƯỜI TRỊ VÌ CỦA DÂN TỘC
SURA.T.THA (raajaa pi"ngalako naama sura.t.thaana.m adhipati ahu):
Ðức vua là chúa của vùng Sura.t.tha, được biết chung chung
bởi cái tên là Si.ngala do bởi màu đỏ (Pi"ngala) Nơi
hai con mắt của vị ấy. CÁC VỊ MORIYA (moriyaana.m): Ở các
vị vua Moraya; Nó được nói đến liên quan đến Dhammasoka.
ÐANG TRỞ LẠI SURA.T.THA (sura.t.tha.m pwnar aagamaa): Vị ấy
đang trở về trên con đường dẫn đến Sura.t.tha, về hướng
của xứ sở Sura.t.tha .
2. MỘT VŨNG SÌNH (Pu"nka.m):
Chỗ đất mềm. CON ÐƯỜNG CÁT (va.n.nupatha.m): Con đường mà
vị Peta tạo ra ở trên chỗ đất mềm ấy.
3. AN LÀNH (khemo): Không
nguy hiểm. AN TOÀN (sovatthiko): đem lại một trạng thái an
toàn. CÓ ÐIỀM TỐT (sivo): không rủi ro. TỪ ÐÂY ÐẾN
VÙNG LÂN CẬN CỦA NHỮNG NGƯỜI SURA.T.THA (sura.t.thaana.m
santike ito): Ði theo con này, chúng ta sẽ đến rất gần với
xứ sở Sura.t.tha .
4. VỊ SORA.T.THA
(sora.t.tho): Người trị vì của xứ Sura.t.tha . LÀ NGƯỜI MÀ
XEM RA BỐI RỐI (ubbiggaruupo): là người ở trong trạng thái
hoảng sợ.
5. ÐÁNG SỢ
(bhi.msana.m) Khiến cho sợ hãi. LÀM DỰNG TÓC (lomaha.msana.m):
Khiến cho tóc dựng đứng lên do bởi tánh chất đáng sợ của
nó.
6. CỌNG TRÚ VỚI NHỮNG
NGƯỜI CỦA YAMA (yamapurisaana.m santike): Chúng ta đang đi giữa
những vị Peta. MỘT MÙI HÔI CỦA PHI NHÂN THỔI RA (Aamaanuso
vaayati gandho): mùi hôi nơi thân của những vị Peta thổi ra.
MỘT TIẾNG KÊU LA GHÊ SỢ SẼ ÐƯỢC NGHE (ghoso suuyati
daaru.no): Một âm thanh kinh sợ nhiều hơn sẽ được nghe từ
những kẻ mà đang bị hành hạ trong những địa ngục khác
nhau.
9. KẺ UỐNG NƯỚC BẰNG
CÁI CHÂN (paadapa.m): Cây này có tên là kẻ uống nước bằng
cái chân do vì nó uống nước bằng những sợi trong những
cái rễ giống như những cái chân. CÓ ÐẦY BÓNG MÁT:
chaayasampanna.m = sampanna.m chaaya.m: (phối hợp cách). VỀ HÌNH
TƯỚNG GIỐNG NHƯ MỘT ÐÁM MÂY ÐEN (meghava.n.nasirii nibha.m):
Xem ra đã mang hình tướng và màu sắc của một đám mây.
13. MỘT LU NƯỚC ÐẦY
(Puura.m paaniyakaraka.m): Một bình nước đã được châm đầy
. MỘT SỐ BÁNH (pùve): một số vật thực cứng. ngon
(citte): Vị ấy trông thấy một số bánh khả ái, ngọt và
đáng ưa thích được bày ra, và đang làm đầy những cái
đĩa mà có ở khắp nơi.
15. NGÀI QUẢ THẬT CHẲNG
XA LẠ (atho te aduraagata.m): 'thực sự' (atho) ở đây là một
bất biến từ hay được dùng để nhấn mạnh. Chúng tôi thừa
nhận rằng, tâu đại vương, Ngài không phải xa lạ, hơn nữa
ngài hoàn toàn được tiếp đón - đây là ý nghĩa. HỠI ÐẤNG
CHIẾN THẮNG KẺ THÙ (arindama): Ngài là người có bản tánh
nhiếp phục những kẻ thù của Ngài.
20. NHỮNG VỊ QUAN CỐ
VẤN VÀ NHỮNG TUỲ TÙNG CỦA BỆ HẠ (amaccaa paarisajjaa): xin
các vị quan cố vấn và những tuỳ tùng của bệ hạ hãy lắng
nghe điều mà tôi phải nói ra, và xin vị Bà la môn của bệ
hạ, là vị tư tế quan ấy, cũng hãy nghe điều ấy - Ðây
là cách nên được hiểu.
21. TÔI LÀ NGƯỜI CỦA
XỨ SURA.T.THA (sura.t.tha.mhaa aha.m): Tôi là người của vùng
Sura.t.tha . TÂU BỆ HẠ (deva): vị ấy đang xưng hô với đức
vua. CÓ NHỮNG TÀ KIẾN (micchaadi.t.thii): quan điểm của vị
ấy bị làm hư hỏng bởi tà kiến Natthika. ÁC GIỚI (dussiilo):
Không có đạo đức. BỎN SẺN (kadariyo): Vô cùng bần tiện.
HAY CHỬI MẮNG (paribhaasako): Lăng mạ các vị Sa-môn và
Bà-la-môn.
22. TÔI CÓ THÓI QUEN NGĂN
CẢN: vaarayissa.m=vaaremi (thể văn phạm hoán chuyển). TÔI
HÀNH ÐỘNG NHƯ MỘT VẬT CHƯỚNG NGẠI (antaraayakaro aha.m): Tôi
hành động như một vật chướng ngại đối với những
người mà đang cho ra vật thí và đang làm những công việc
giúp ích, và trong khi những người khác đang cho ra những vật
thí dành cho kẻ khác thì tôi có thói quen ngăn cản nhiều
người đang làm những việc phước ấy mà bao gồm sự bố
thí - đây là cách nên được hiểu. "Không có kết quả
từ sự bố thí v.v..." là sự định rõ hình thức về
sự cản trở của vị ấy.
23. Ở đây KHÔNG CÓ KẾT
QUẢ TỪ SỰ BỐ THÍ (vipaako n'atthi daanassa): vị ấy phủ nhận
mọi kết quả khi kết luận rằng, "Không có kết quả
dành cho người do bởi việc cho ra những vật thí ấy,
không có kết quả có thể dành được trong tương lai. KẾT
QUẢ CỦA SỰ TỰ CHẾ TỪ ÐÂU ÐẾN (sa.myamassa kuto
phala.m): Bây giờ quả thật không có người được gọi là
đạo sư đang truyền những điều học về hạnh kiểm và hạnh
nghiệp, vì chúng sanh đã điều phục hay chưa điều phục
tuỳ theo bản tánh riêng của họ - đây là ý nghĩa.
Vì lý do này khiến vị
ấy nói rằng, "Vậy ai sẽ điều phục kẻ chưa được
điều phục?".
24. TẤT CẢ CHÚNG SANH
ÐỀU NHƯ NHAU (samatulyaani bhuutaani): những chúng sanh này đều
hoàn toàn ngang bằng nhau. Do đó, không có người nào là cao
cả, thế thì tại sao tôn kính những người cao thượng của
mình? quả thật không có phước từ sự tôn kính những người
cao cả - đây là ý nghĩa. KHÔNG CÓ SỨC MẠNH (n'atthi
bala.m): vị ấy phủ nhận sự cố gắng về khả năng của
những chúng sanh mà, nhờ vào khả năng của chính họ, tạo
ra sự cố gắng và đem lại điều gì đó từ sự thịnh vượng
thuộc về thế gian v.v... Ðến sự chứng đạt pháp tối
ưu của đạo quả A-la-hán. Không có khả năng hay sự cố gắng.
NHƯ VẬY SỰ NỖ LỰC CỦA MỘT NGƯỜI CÓ LỢI ÍCH GÌ?
(kuto u.t.thaana posirsa.m): Nó không đem lại kết quả do sự cố
gắng của con người, điều này được nói đến như vậy
để phủ nhận học thuyết về nhân quả.
25. Quả thật không có
kết quả của sự bố thí, nghĩa là cho đi những lễ vật
cúng dường thì không có kết quả tựa như người đã ném
chúng vào trong đống tro tàn. người mang sự thù nghịch
không thể tẩy sạch được (na visodheti verina.m): ở đây NGƯỜI
MANG SỰ THÙ NGHỊCH: Verina.m = veravanta.m (thể văn phạm hoán
chuyển); Người mà đã tạo ra ác nghiệp do sự thù oán bằng
cách giết chết những chúng sanh v.v... Không thể tẩy sạch
được, không bao giờ được làm cho trong sạch, bằng những
sự thọ trì như bố thí và trì giới v.v... "Không có kết
quả từ sự bố thí" v.v... Nên được xem là sự định
rõ cách mà trong đó vị ấy ngăn cản những người khác
trong việc cho ra những vật thí v.v..., trong khi đó, "quả
thật không có kết quả từ sự bố thí" v.v... Là sự
định rõ về sự đeo níu vào những tà kiến của vị ấy.
cái gì là của người ấy để cho có được: Laddheyya.m =
laddhabba.m (thể văn phạm hoán chuyển): Nhưng làm sao người
ấy kiếm được cái gì phải kiếm được của người ấy?
Vị ấy nói rằng, QUA NHỮNG SỰ THĂNG TRẦM CỦA SỐ PHẬN
(Niyati pari.naamaja.m) chúng sanh mà được hạnh phúc hay đau
khổ, được điều này chỉ qua sự thay đổi trong số phận
của người ấy mà thôi, chứ không phải do người ấy đã
làm một nghiệp nào đó cũng không phải do đấng thần linh
tối cao v.v... đây là ý nghĩa.
26. KHÔNG CÓ MẸ HAY CHA
HAY ANH EM (na'atthi maataa pitaa bhaataa): Vị ấy nói liên quan đến
sự vắng mặt của quả từ chánh hạnh hay ác hạnh đối với
người mẹ v.v.. KHÔNG CÓ THẾ GIỚI BÊN KIA (loko n'atthi ito
para.m): Quả thật không có điều gì là thế giới bên kia cả,
bên kia của thế giới này đây. Chúng sanh phải bị tiêu diệt
ngay ta.n đó - đây là ý nghĩa. ÐƯỢC BỐ THÍ (dinna.m): Một
sự bố thí vật thực lớn. SỰ CÚNG DƯỜNG vật thí
(huta.m): Sự cúng tế bằng vật thí, bằng đồ ăn; vị ấy
phủ nhận cả hai khi nói rằng, "không có" liên quan
đến sự vắng mặt kết quả của chúng, 'được khéo để
dành: Sunihita.m = su.d.thu nihita.m (phối hợp cách). KHÔNG CÓ
GÌ ÐƯỢC BIẾT ÐẾN (na vijjati): Những vật thí ấy dành
cho các vị Sa-môn và Bà-la-môn mà người ta gọi là
"Cái mà sẽ đi theo người như là một chỗ đứng trong
thế giới bên kia' thì không được biết đến" Nó chỉ
là hình thái tu từ của ngôn ngữ đó thôi - đây là ý nghĩa.
27. ÐÓ KHÔNG PHẢI LÀ
TRƯỜNG HỢP CỦA NGƯỜI NÀO ÐÓ GIẾT CHẾT NGƯỜI NÀO
ÐÓ (na koci ki~nci hanati): Nếu một người giết chết một
người khác, cắt đầu của một người khác, thì trong ý
nghĩa cùng tột, đó không phải là trường hợp của người
nào đó giết chết của người nào dó - Nó chỉ trông giống
như sự giết chết do bởi sự hiện hữu của những khoảng
hở giữa bảy nguyên chất đó thôi. Nhưng còn sự đánh
chém bằng cây kiếm thì sao?' Vị ấy nói rằng, ÐI VÀO KHOẢNG
GIỮA CỦA BẢY NGUYÊN CHẤT (sattanna.m vivara.m antare): Cây kiếm
đi vào khoảng hở, nghĩa là khoảng giữa, giữa bảy nguyên
chất như đất, nước v.v... Vì lý do này mà nó trông giống
như chúng sanh bị chém bằng những cây kiếm v.v... Như linh
hồn là phần còn lại của bảy nguyên chất cũng không thể
bị tiêu diệt vì tánh chất trường tồn vĩnh cửu của nó
- đây là ý nghĩa.
28. KHÔNG THỂ HOẠI DIỆT
HAY CHIA CHẺ LÀ LINH HỒN (acchejjabhejjojiivo): Linh hồn của
chúng sanh không bị tiêu diệt bởi những cây kiếm v.v...
Vì tánh chất trường tồn của nó. NÓ CÓ HÌNH TÁM CẠNH
HAY HÌNH CẦU NHƯ TRÁI BANH (a.t.tha.mso gu.laparima.n.dalo): Linh hồn
đôi khi có hình tám cạnh, đôi khi có hình cầu như trái
banh. VÀ CAO NĂM TRĂM DO TUẦN (yojanaani sataa pa~nca): Khi đạt
đến trạng thái hoàn thành đầy đủ thì nó cao năm trăm
do tuần. NHƯ VẬY AI CÓ THỂ TIÊU DIỆT ÐƯỢC LINH HỒN (Ko
jiiva.m chetu"m arahati): Quả thật vậy ai có khả năng tiêu
diệt bằng những cây kiếm v.v... một linh hồn trường cửu
và không thể thay đổi được. Vị ấy nói rằng nó không
thể bị hại bất cứ ai.
29. MỘT CUỘN CHỈ
(suttagu.le): một cuộn chỉ được làm khi nó được cuốn lại.
KHI ÐƯỢC TUNG RA (khitte): Khi được tung ra bằng cách tháo
nó ra. CHẠY ÐI KHI TỰ NÓ THÁO RA (nibbe.thenta.m): một cuộn
chỉ được quăng ra, khi tự nó tháo ra, từ một ngọn núi
hay đọt cây, tự nó gỡ ra và lăn đi, không đi tiếp khi nào
cuốn chỉ ấy đã đi hết. DƯỜNG THẾ ẤY (eva.m eva.m):
cũng như cuộn chỉ lăn đi khi tự nó tháo ra, ngừng không
đi nữa khi nào nó đi hết, cũng vậy trong cùng cách ấy
linh hồn chạy đi, tiếp tục, tự nó mở ra cuốn chỉ luân
hồi đúng thời gian đã được giải rõ, trong tám mươi bốn
ngàn đại kiếp, và sau đó ngưng không đi tiếp nữa.
30. CŨNG VẬY TRONG CÙNG
CÁCH, ẤY LINH HỒN CŨNG (eva.m eva ca so jiivo): Cũng như một
người nào đó rời bỏ ngôi làng mà người ấy sống và rồi
đi vào một ngôi làng khác do bởi một điều gì đó mà người
ấy phải làm, cũng vậy theo cùng cách ấy, linh hồn cũng rời
bỏ thân này và đi vào một thân khác theo đúng số phận của
nó - Ðây là ý nghĩa. THÂN bondi.m = kaaya.m (chữ đồng
nghĩa).
32. TÁM MƯƠI BỐN Cuu.laasiiti
= catuuraasiiti (thể văn phạm hoán chuyển): ÐẠI KIẾP: Mahaa
kappino = Mahaakappaana.m (thể văn phạm hoán chuyển); liên quan
đến điều này, hễ mỗi lần trong mỗi một trăm năm có một
giọt nước được lấy đi bằng đầu của cọng cỏ Kusa từ
một cái hồ nước lớn như hồ anotatta v.v... Và cứ làm
theo cách này cho đến khi cái hồ ấy được làm cho hết nước
của nó trên bảy lần của thời gian như vậy được gọi
là một Ðại kiếp. Khi đã nói điều này, vị ấy nói rằng
giới hạn của sự trôi lăn của linh hồn trong vòng luân hồi
là tám mươi bốn trăm ngàn đại kiếp như vậy. CẢ NHỮNG
KẺ NGU VÀ NHỮNG NGƯỜI TRÍ (ye balaa ye pa.n.ditaa): cả những
người mà bị che ám bởi ngu si và những người có trí tuệ
- ngay cả tất cả những người này. BỊ NÉM ÐI CHỖ NÀY
CHỖ NỌ TRONG VÒNG LUÂN HỒI (sa.msaara.m khepayitvaana): bị
ném đi chỗ này chỗ nọ trong vòng luân hồi, khi sanh lên trở
đi trở lại trong khoảng thời gian đã được nói ở trên.
TRƯỚC KHI CHÚNG CHẤM DỨT ÐAU KHỔ (dukkhass'anta.m karissare):
Trước khi kết thúc nỗi khổ đau này, trải qua hết chu kỳ
đau khổ của luân hồi, ngay cả những người có trí cũng
không thể được hoàn thành trong suốt thời gian này và
ngay cả những người ngu cũng không còn tiếp tục sau đó -
đây là tà kiến của vị ấy.
33. HẠNH PHÚC VÀ ÐAU
KHỔ ÐỀU ÐƯỢC ÐONG BẰNG CÁI DO.NA VÀ CÁI THÚNG (mitaani
sukhadukkhaani do.nehi pi.takehi ca): Những sự thăng trầm của số
phận được phân chia ra từng phần đối với chúng sanh
này và chúng sanh nọ, chúng được phân chia riêng nhau, trong
suốt khoảng thời gian nói trên, tựa như hạnh phúc và đau
khổ của chúng sanh quả thật được đong bằng cái do.na,
cái thúng và cái hũ chứa tâm ý. Ðấng thống trị thì biết
tất cả điều này, người mà đứng ở trên bờ cõi của
đấng thống trị thì biết nó trong tính toàn diện của
nó, bởi vì người ấy đã vượt qua vòng luân hồi, trong
khi những người khác thì bối rối và đi lang thang trong vòng
luân hồi.
34. TRONG QUÁ KHỨ TÔI
ÐÃ CÓ TRI KIẾN NHƯ VẬY (eva.m di.t.thi pure aasi.m): Trước
kia tôi đã có tri kiến (Natthika) như vậy. TÔI BỊ LÚNG
TÚNG, BỊ CHE MỜ BỞI NGU SI (samuu.lho mohapaaruto): Tôi lúng
túng bởi sự ngu si, được gây ra bởi tà kiến nói trên
và bị che mờ bởi ngu si sanh lên trong thời ấy. Hạt giống
của thiện Pháp bị che đậy - đây là ý nghĩa. Khi vị ấy
đã giải thích như vậy ác nghiệp được làm bởi vị ấy
do bởi ác kiến mà đã xảy đến với vị ấy trong quá khứ,
rồi vị ấy nói lên những câu kệ bắt đầu bằng:
"Trong vòng sáu tháng này ",để giải thích quả của
nó mà vị ấy phải nhận lãnh trong tương lai.
38. Ở đây SAU MỘT TRĂM
NGÀN NĂM: vassasatasahassaani = vassaana.m satasahassaani (phối hợp
cách); 'đã trôi qua.' là những chữ còn lại. Hay nói cách
khác, đây là đối cách với sức mạnh của địa điểm cách,
nghĩa là khi một trăm ngàn năm đã trôi qua rồi. MỘT ÂM
THANH ÐƯỢC NGHE NGAY TỨC THÌ (ghoso suuyati taavade): Sau một
thời gian dài như vậy đã trôi qua thì một lời công bố
ngay tức thì, vào thời ấy, được nghe trong địa ngục ấy
rằng "Giới hạn của thời gian mà đã trôi qua trong khi
đó các ngươi đã bị nấu sôi ở đây, thưa các Ngài, là
một trăm ngàn năm." TÂU ÐẠI VƯƠNG, ÐÂY LÀ LAKKHA, SAU
LẦN THỨ MỘT TRĂM CỦA KO.TI NĂM (nghĩa là sau 1 trăm ngàn
ko.ti năm) (lakkho eso mahaaraaja satabhaagavassako.tiyo): Ðây là
lakkha, nghĩa là sự định giới hạn của khoảng thời gian
mà những chúng sanh đã bị nấu sôi trong địa ngục, tâu
Ðại vương, sau lần thứ một trăm, sau phần thứ một
trăm, của một ko.ti năm (đã trôi qua). Ðây là điều được
nói đến: Mười lần mười là một trăm, mười trăm là một
ngàn, mười lần mười ngàn là một trăm ngàn và một trăm
lần một trăm ngàn là một ko.ti . Bằng cách tính những
ko.ti này, một trăm ngàn ko.ti năm đã trôi qua sau lần thứ
một trăm của một ko.ti năm, những điều này phải được
hiểu như là một phương tiện và cách đếm năm của những
người ấy ở trong địa ngục thôi, chứ không phải của
loài người hay chư thiên. Thọ mạng của những người ở
trong địa ngục là vô số như hàng trăm ngàn ko.ti năm. Vì
lý do này người ta nói rằng "Trong một trăm ngàn ko.ti,
những kẻ ấy bị nấu trong địa ngục." Bằng sự chứng
minh để chỉ cho thấy những loại ác nghiệp mà chúng sanh
phải bị nấu sôi trong các địa ngục như vậy, "Ai có
những tà kiến, ai cư xử xấu xa và ai lăng mạ những bậc
thánh" được nói đến.
40. TÔI SẼ THỌ LÃNH
(vedissa.m): Tôi sẽ lãnh chịu. Sau khi đã giải quả của những
ác nghiệp của vị ấy rằng vị ấy sẽ phải lãnh chịu
trong tương lai, và sau khi đã giải thích vấn đề mà đức
vua đã dò hỏi, đó là "Bằng loại phạm hạnh nào mà
oai lực này của ngài hiện ra?" Rồi vị ấy nói lên những
câu kệ này bắt đầu bằng: "Hãy nghe điều này, tâu
đại vương", khi muốn an trú đức vua trong tam qui và ngũ
giới.
42. LÀ NGƯỜI THA THIẾT
VỚI NGŨ GIỚI VÀ BÁT QUAN TRAI GIỚI (siilesuposathe rataa): là
người thoả thích trong những giới mà thường xuyên kết lại
với nhau và những giới phụ được thọ trì trong những
ngày bố tát.
45. ÐÃ CHO VỊ ẤY:
adaa=adaasi (thể văn phạm hoán chuyển).
48. PHÁP ẤY (ta.m
dhamma.m): Bát chánh đạo và pháp bất tử.
Ðược thức tỉnh bởi
Peta ấy để đi vào sự thọ trì Tam qui và ngũ giới, đức
vua với lòng tịnh tín trong tâm, tán dương vị ấy vì sự
giúp đỡ mà vị ấy đã đem đến cho đức vua và khi được
an trú trong Tam qui v.v... bèn nói ba câu kệ bắt đầu bằng.
"Tôi sẽ trừ bỏ", để công bố sự từ bỏ ác kiến
mà đức vua đã chấp thủ trước kia.
54. Ở đây TÔI SẼ RỦ
BỎ NHƯ BỎ VÀO TRONG CƠN GIÓ MẠNH (odhunaami mahaavaate): Tôi
sẽ rủ bỏ, tôi sẽ quăng bỏ ác kiến ấy vào trong cơn gió
của sự thuyết giảng chánh pháp của Ngài, hỡi Yakkha, như
cọng rơm gặp cơn gió mạnh đang thổi. HAY VÀO DÒNG NƯỚC
ÐANG CHẢY XIẾT (nadiyaa vaa siigha.m gaamiyaa): Hay tôi sẽ làm
cho ác kiến ấy bị quét đi như cỏ, như những nhánh lá
và những ngọn lá rơi bị cuốn đi trong dòng nước chảy
nhanh của một con sông lớn - Ðây là ý nghĩa. TÔI SẼ PHỦ
NHẬN ÁC KIẾN ẤY (vamaami paapaka.m di.t.thim): Tôi sẽ quăng bỏ
ác kiến mà đã có mặt trước kia trong tâm của tôi. Vị
ấy đã nêu ra lý do của mình đối với điều ấy: KHI THA
THIẾT VỚI GIÁO PHÁP CỦA CHƯ PHẬT (buddhaana.m saasane rato):
Bởi vì tôi tha thiết với giáo pháp của chư Phật, của các
Ðấng Thế Tôn, mà chắc chắn sẽ đưa người đến chỗ bất
tử, do đó tôi sẽ từ bỏ thứ độc hại này mà được
biết đến là ác kiến - đây là cách nên được hiểu. Khi
ấy những vị kiết tập Tam Tạng đã lồng vào câu kệ kết
thúc bắt đầu bằng: "Khi Sora.t.tha đã nói điều này":
55. Ở ÐÂY QUAY MẶT VỀ
HƯỚNG ÐÔNG (Paamokkho): Xoay đầu về hướng đông. BƯỚC LÊN
CỖ XE CỦA VỊ ẤY (ra.tha.m aaruyhi): Ðức vua bước lên chiếc
xe của vị ấy mà đã sẵn sàng để ra đi. Vị ấy trèo
lên chiếc xe ấy, và bằng oai lực của vị Yakkha ấy, đức
vua đã đến kinh đô ấy trong chính ngày hôm ấy và đi vào
hoàng cung của mình.
Ðến đúng lúc vị ấy
nêu lên các vấn đề ấy với các vị Tỳ kheo và đến lượt
các vị Tỳ kheo nêu lên vấn đề ấy đến các vị Trưởng
lão. Các vị Trưởng lão đưa nó vào một trong những bài
kiết tập ở Hội Kiết tập Tam Tạng lần thứ ba.
-ooOoo-
IV.4 QUỈ
SỰ REVATII
(REVATII PETAVATTHUVA.N.NANAA)
'Hãy dậy, này Revatii,
này kẻ có tánh rất ác.' Ðây là quỉ sự Revatii .
Bởi vì không có sự
khác biệt nào giữa câu chuyện này với thiên cung sự
Revatii, do đó điều gì được nói đến ở đây về nguyên
nhân cần thiết đã sanh lên và về những câu kệ, tất cả
phải được hiểu đúng như đã được nêu ra trong bộ chú
giải Thiên cung sự. Câu chuyện này được xem là được
bao gồm trong bài kinh của bộ thiên cung sự. Bởi vì
Devaputta Na.n.diya là một vị chư Thiên và cũng được bao gồm
trong bài kinh này như là quỉ sự Revatii vì những câu kệ
có liên quan đến Revatii (một nữ ngạ quỉ).
-ooOoo-
IV.5 CAM
GIÁ QUỈ SỰ
(UCCHU PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Khu vườn mía lớn
này của tôi". Ðây là quỉ sự về cây mía. Chuyện bắt
nguồn như thế nào?
Khi Ðức Thế Tôn đang
ngụ ở Ve.luvana thì có một người đàn ông nọ đặt một
bó mía trên vai của ông ta và vừa đi vừa nhai một cây
mía. Bấy giờ một thiện tín nọ có giới đức và có
tánh thiện đang đi sát sau anh ta với đứa con nhỏ của
người ấy. Ðứa bé trông thấy cây mía và kêu lên rằng,
"Hãy cho con một ít!" Vị thiện nam trông thấy đứa
bé đang khóc và, khi đuổi kịp người đàn ông kia, ra sức
bắt chuyện với ông ta. Nhưng người đàn ông không nói
chuyện với anh chút nào cả. Ông ta cũng không cho đứa bé
ngay cả một miếng mía do bởi ác ý của ông ta. Vị Thiện
nam chỉ về đứa con của anh ta và nói rằng, "đứa bé
này đang khóc quá đỗi. Xin làm ơn cho nó một miếng mía.
Khi nghe qua điều này người đàn ông, không thể chịu được
điều này, tỏ vẻ khinh bỉ và với tánh cách làm nhục quăng
một cây mía ở đằng sau ông ta. Ðến đúng lúc ông ta chết
và tái sanh trong cõi Ngạ quỉ vì đã lâu ông ta bị nhiễm
tánh tham lam rồi. Quả của điều này quả thật theo đúng
với nghiệp ấy, vì có sanh lên cho ông ta một khu rừng mía
mà được che phủ dày đặc bởi những cây mía đen huyền
có cỡ bằng cái chày và trải ra che khắp một vùng đến tám
mẫu. Nhưng ngay khi ông ta đi đến vườn mía ấy vì muốn
nhai một ít, bèn nghĩ rằng, "Ta sẽ lấy một ít
mía." thì cây mía ấy lại đánh vào đầu của ngạ quỉ,
vì thế mà ông ta té xuống và ngất xỉu. Rồi vào một
hôm nọ, khi Ðại Ðức Mahaa Moggallaana đang đi đến thành
Raajagaha để khất thực, ngài trông thấy Ngạ quỉ ấy
trên đường đi. Khi nó trông thấy Trưởng lão, nó bèn hỏi
Ngài về nghiệp mà nó đã làm và theo sau đó là cuộc trao
đổi đàm thoại bằng câu kệ giữa Peta và Trưởng lão.
1. Khu rừng mía lớn
này của con sanh lên là quả của những việc phước không
nhỏ, nhưng bây giờ nó không có ích gì cho con - Bạch Ngài,
hãy nói cho con rõ rằng đây là kết quả của điều gì?
2. Con đã đến trạng
thái khổ ưu và con bị băm xác khi con cố gắng, khi con tha
thiết muốn ăn một ít mía. Sức mạnh của con đã mất và
khi chịu sự khó khăn lớn, con kêu khóc - đây là kết quả
của điều gì?
3. Trong nỗi thất vọng,
con nằm sấp trên đất và quằn quại trong sức nóng như kẻ
sống trong nước; nước mắt của con chảy xuống khi con khóc
- Bạch Ngài, hãy nói cho con biết đây là kết quả của điều
gì?
4. Con bị đói, mệt
và khát nước; con bị khô cháy và không tìm ra sự thoải
mái hay an nhàn nào. Con hỏi Ngài về vấn đề này, bạch
Ngài, làm sao con có thể dùng được cây mía này?"
5. "Trong quá khứ,
chính ngươi đã tạo ra một nghiệp - trong một kiếp quá khứ
trong khi còn ở trong cõi người. Bây giờ ta sẽ nói cho ngươi
biết vấn đề này - nếu ngươi lắng nghe, ngươi sẽ hiểu
vấn đề này.
6. Ngươi đã khởi sự
lên đường, đang nhai một cây mía, khi ấy một người đàn
ông đi đến đằng sau ngươi, ông ta nói với người bằng
sự mong mỏi nhưng ngươi không chịu nói chuyện với ông ta
một chút nào cả.
7. Và trước con người
khinh khỉnh nín lặng của ngươi, ông ta đã nài xin rằng,
"Thưa Ngài, xin vui lòng cho một ít mía". ông ta đã
nói với ngươi. Ngươi cho ông ta một ít mía từ sau lưng của
ngươi - đây chính là kết quả của nghiệp ấy.
8. Hãy nhìn đây, ngươi
có thể lấy một ít mía từ đằng sau, khi ngươi đã lấy
một ít rồi ngươi có thể nhai nó đến chừng nào ngươi
thích - bằng cách này ngươi sẽ trở nên hoan hỉ, vui sướng,
phấn khởi và được thoả mãn".
9. Ngạ quỉ đến lấy
một ít mía từ đằng sau, khi đã lấy một ít mía rồi, ngạ
quỉ nhai số mía ấy đến thoả thích, bằng cách này, nó
trở nên hoan hỉ, vui sướng, phấn chấn và được thoả mãn.
Chú giải:
1. Ở đây CỦA CÁI GÌ
(kissa): của loại nghiệp nào - đây là ý nghĩa.
2. TÔI ÐÃ ÐI ÐẾN ƯU
BI (viha~n~naami): Tôi đã bị bức bách, nghĩa là đặc biệt
tôi bị nghiền nát. Tôi bị băm xác: khajjaami=khaadiyaami (thể
văn phạm hoán chuyển); nghĩa là tôi bị cắt bởi những ngọn
lá của cây mía tựa như tôi bị xé nát bởi những ngọn
lá dao sắc bén. KHI TÔI CỐ GẮNG (vaayanaami): Khi tôi ra sức
để ăn cây mía. KHI TÔI THA THIẾT (parivakkaami): Khi tôi dốc
sức. ÐỂ TIÊU THỤ (paribhu~njitu.m) để tiêu thụ nước của
cây mía, nghĩa là để nhai. SỨC MẠNH CỦA TÔI ÐÃ MẤT
(chinnathaamo): Sự chịu đựng của tôi đã hết, sức mạnh
của tôi đã bị tước đi, nghĩa là sức mạnh của tôi
hoàn toàn bị kiệt quệ. VÀ ÐANG CHỊU KHÓ KHĂN LỚN
(Kapa.no): Trong một trạng thái khốn đốn. CON KÊU KHÓC
(laalapaami): con ta thán vì bị nỗi đau khổ cùng cực giáng
xuống.
3. ÐẦY KHỔ LUỴ
(vighaato): Ðầy khổ lụy hay sức mạnh của vị ấy bị suy
kiệt. CON NẰM SẤP TRÊN ÐẤT (Paripataami chamaaya.m): Vì
không thể đứng được nên con ngã xuống đất. QUẰN QUẠI
(parivattaami): lăn lộn. NHƯ KẺ SỐNG Ở TRONG NƯỚC (varicaro
va): như con cá. TRONG SỨC NÓNG (ghamme): Trên đất khô mà bị
thiêu đốt bởi sức nóng.
4. CON BỊ KHÔ CHÁY
(santassito): rất khát vì đôi môi, vòng miệng và cuống họng
đã trở nên khô, SỰ THOẢI MÁI HAY AN NHÀN (saatasukha.m): một
trạng thái đầy đủ tiện nghi hay an nhàn, CON KHÔNG TÌM THẤY
(na vinde): con không kiếm được. NGÀI: ta.m = tuva.m (thể văn
phạm hoán chuyển).
5. NGƯƠI SẼ HIỂU:
vijaana = vijaanaahii (thể văn phạm hoán chuyển).
6. ÐÃ LÊN ÐƯỜNG
(payaato): đã bắt đầu đi. ÐI ÐẾN (anvagacchi): đi theo.
TRONG SỰ MONG MỎI: paccaasanto = paccaasi.msamaano (thể văn phạm
hoán chuyển).
7. ÐÓ LÀ CỦA NGHIỆP
ẤY (tass'eta.m kammassa): Ở đây eta.m (không được dịch) chỉ
là một tiểu từ; nó có nghĩa rằng đó là của nghiệp ấy.
8. CÓ THỂ LẤY MỘT
ÍT TỪ ÐẰNG SAU (pi.t.thito ga.nheyyaasi) có thể lấy một ít
mía chỉ từ đằng sau lưng của ngươi mà thôi. ÐƯỢC THOẢ
MÃN: Pamodito=pamudito (thể văn phạm hoán chuyển).
9. KHI VỊ ẤY ÐÃ LẤY
MỘT ÍT VỊ ẤY NHAI NÓ NHIỀU ÐẾN THOẢ THÍCH (gahetvaana
ta.m khaadi yaava d attha.m): Khi nó đã lấy một ít mía theo
cách đã được chỉ bày bởi Trưởng lão và đã nhai ăn
nhiều đến thoả thích, nó lấy một bó lớn mía và dâng
nó đến Trưởng lão. Ðể giúp đỡ nó, Trưởng lão bảo
nó hãy đem bó mía ấy đi đến Ve.luvana và Trưởng lão
dâng bó mía ấy đến Bậc Ðạo sư. Ðức Thế Tôn cùng với
chúng Tỳ kheo khi ấy ăn nó và nói lời phúc chúc. Vị Peta
ấy với lòng tịnh tín ấy trong tâm, đảnh lễ Ðức Thế
Tôn và ra đi. Từ đó trở đi nó ăn mía thoả thích thoải
mái. Ðến đúng lúc nó chết và sanh trong cõi Ba mươi ba.
Tuy nhiên biến cố
liên quan đến Ngạ quỉ này được biết rõ trong cõi nhân
loại. Dân chúng đi đến Bậc Ðạo sư và hỏi ngài về biến
cố ấy. Bậc Ðạo sư giải thích đầy đủ chi tiết vấn
đề ấy và rồi thuyết giảng chánh Pháp. Khi họ đã nghe
qua Pháp thoại này thì hội chúng ấy bèn từ bỏ bợn nhơ
của lòng bỏn sẻn.
-ooOoo-
IV.6 TIỂU
NHI QUỈ SỰ
(KUMAARA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Thành phố có tên
là Saavatthi ". Bậc Ðạo sư khi đang ngụ ở jetavana, đã
kể lại quỉ sự này, liên quan đến hai con Ngạ quỉ.
Tương truyền rằng tại
Saavatthi, có hai đứa con trai của vua Kosala, cả hai đều đẹp
trai và đang ở trong thời kỳ thanh xuân của cuộc đời,
nhưng lại say mê với sự ngã mạn về tuổi trẻ, chúng đi
đến với những người vợ của những người đàn ông
khác. Khi chúng chết, chúng tái sanh làm những con Ngạ quỉ
trong cái hào, và vào lúc ban đêm, chúng thường kêu than bằng
tiếng kêu khủng khiếp. Khi dân chúng nghe tiếng này, họ bị
khiếp đảm. Họ bố thí vật thực đến Chư Tăng có Ðức
Phật dẫn đầu với ý nghĩ rằng, "khi đã hành động
như vậy, điều xấu này có thể bị vơi dịu đi", và
nêu lên vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn
nói rằng, "Này các Thiện tín, không có tai hoạ nào có
thể đến với các nguơi do nghe tiếng kêu ấy". Và rồi
Ngài nói lên những câu kệ này để giải thích nguyên nhân
của nó và để thuyết pháp cho họ:
1. Thành phố mang tên
là Saavatthi nằm ở bên sườn của dãy núi Himaalaya. Ta đã
nghe rằng ở đó có hai cậu con trai của vua.
2. Say mê trong sự quyến
rủ và đang tìm khoái lạc trong sự thoả mãn các căn của
chúng, chúng thèm khát hạnh phúc hiện tại và không quan
tâm đến tương lai.
3. Và, khi lìa bỏ kiếp
người, chúng đi từ đây đến thế giới bên kia, bây giờ
không được trông thấy, chúng than phiền về điều ác mà
chúng đã làm trong quá khứ khi nói rằng,
4. "Dầu vật tặng
và những vật thí cúng dường có nhiều, đã được sửa
soạn rồi, nhưng chúng ta đã không thể làm ngay cả đến một
chừng mức có giới hạn để đem lại hạnh phúc cho chúng
ta.
5. Ðiều ác nào có thể
lớn hơn điều ác này - khiến chúng ta rơi khỏi gia đình của
vua và sanh trong cõi Ngạ quỉ, chịu đói và khát?"
6. Sau khi đã làm những
người cai trị ở chỗ này, chúng không còn là những người
cai trị ở chỗ kia nữa- chúng đi lang thang trong sự đói
khát; Trong khi còn làm người, chúng đã từng có địa vị
cao tột. Bây giờ chúng ở địa vị thấp nhất.
7. Khi sự bất lợi bắt
nguồn từ sự say mê với quyền lực được nhận ra và sự
say mê quyền lực này được từ bỏ, thì con người đi về
thiên giới; Vào lúc thân hoại mạng chung, con người có
trí tuệ như vậy sẽ sanh trong cõi Chư thiên.
Chú giải:
1. Ở đây TA ÐÃ NGHE RẰNG
(iti me suta.m): Nghĩa là không những ta đã trông thấy điều
này bằng chính tuệ nhãn của ta, mà ta cũng đã nghe rằng
nó đúng như vậy qua sự hiểu biết chung của nó trong thế
gian.
2. KHI TÌM KIẾM KHOÁI LẠC
TRONG SỰ THOẢ MÃN NHỮNG DỤC TRẦN (kaamassaadaabhinandino) Có
tánh tìm kiếm khoái lạc bằng sự thoả mãn trong những
khoái lạc của các căn. CHÚNG THÈM MUỐN HẠNH PHÚC HIỆN TẠI
CỦA CHÚNG (paccuppannasukhe giddhaa): Chúng khao khát, thèm muốn,
chỉ hạnh phúc tạm bợ. KHÔNG QUAN TÂM ÐẾN TƯƠNG LAI (na
te pasi.msu naagata.m): Chúng không nghĩ về hạnh phúc sẽ có
được trong cõi Chư thiên và cõi người trong tương lai,
trong thời gian sắp đến, bằng cách từ bỏ ác hạnh và thực
hành thiện hạnh.
3. BÂY GIỜ CHÚNG KHÔNG
ÐƯỢC TRÔNG THẤY ÐANG KÊU THAN (te' dha ghosentyadissantaa): Những
Ngạ quỉ ấy mà trước kia là những đứa con trai của Ðức
vua bây giờ kêu than không thể trông thấy được, chúng
đang khóc than về điều gì? Ngài nói rằng. "Ðiều ác
mà chúng đã làm trong quá khứ. Rồi để cho thấy bằng lối
phân tích những từ về nhân và quả, lý do về sự than
khóc này của chúng, những câu kệ bắt đầu bằng: "Dầu
vật tặng có nhiều", được nói đến.
4. Ở đây DẦU CHO HIỆN
HỮU NHIỀU (Bahuusu vata santesu) Dầu có nhiều bậc xứng đáng
thọ lãnh những vật thí sẽ được tìm thấy. VÀ NHỮNG VẬT
CÚNG DƯỜNG ÐÃ ÐƯỢC SOẠN SẴN (deyyadhamme upa.t.thite): Và
của cải của riêng chúng mà đáng được bố thí, là những
vật cúng dường đang ở trong tâm tay, nghĩa là nó có sẵn.
NGAY CẢ ÐẾN MỘT CHỪNG MỨC CÓ GIỚI HẠN MÀ SẼ ÐEM LẠI
HẠNH PHÚC CHO CHÚNG TA (paritta.m sukhaavaha.m): Than ôi! chúng ta
đã không thể hành động để đem lại sự an toàn cho
chính chúng ta, sau khi đã không làm ngay cả một việc phước
nhỏ nhặt nhất mà sẽ đem lại hạnh phúc cho chúng ta trong
tương lai - đây là cách nên được hiểu.
5. CÓ ÁC NGHIỆP NÀO LỚN
HƠN ÁC NGHIỆP NÀY (ki.m tato paapaka.m assa): Ðiều gì khác có
thể đáng khinh hơn ác nghiệp này? RẰNG CHÚNG TA ÐÁNG PHẢI
RƠI KHỎI GIA ÐÌNH CỦA VUA (yan no raajakulaa cutaa): nghĩa là
chúng ta đáng phải rơi khỏi gia đình của hoàng gia do bởi
những ác nghiệp ấy, và bây giờ sanh trong cõi Ngạ quỉ
và đi lang thang đây đó, bị đói khát và vùi dập.
6. SAU KHI ÐÃ LÀM NHỮNG
NGƯỜI CAI TRỊ Ở ÐÂY (Saamino idha hutvaana): Chúng đi lang
thang ở đây trong thế gian này, trong chính chỗ này, nơi mà
trước kia chúng là những người cai trị, nhưng chúng không
còn là những người cai trị ở đó nữa, trong chính chỗ
ấy. CÓ ĐỊAVỊ CAO CẢ TRONG KHI CÒN LÀM NGƯỜI, BÂY GIỜ
CHÚNG CÓ ĐỊAVỊ THẤP NHỨT (manussaa unnatonataa): Dầu chúng
là những người cai trị trong lúc chúng làm người, nhưng bây
giờ, sau khi chết, chúng có địa vị thấp nhất và đi lang
thang trong sự đói khát do bởi những ác nghiệp của chúng
- hãy xem tánh chất của luân hồi đã được giải rõ.
7. KHI ÐIỀU BẤT LỢI
BẮT NGUỒN TỪ SỰ SAY MÊ VỚI QUYỀN LỰC ÐƯỢC NHẬN RA
(eta.m aadiinava.m ~natvaa issaramadasambhava.m): Khi điều bất lợi,
sự lỗi lầm, mà bắt nguồn từ sự say mê với quyền thế,
nghĩa là khi sanh trong cõi khổ được nhận ra và sự say mê
với quyền uy này được từ bỏ, những việc phước sẽ
được thực hiện đến cùng. NGƯỜI TA ÐI VỀ THIÊN GIỚI
(bhave saggagato naro): Vị ấy sẽ đi đến cõi trời mà thôi,
đến cõi devaloka .
Khi Bậc Ðạo sư đã
giải thích như vậy vấn đề về các Ngạ quỉ ấy, và khiến
cho sự bố thí vật thực mà những người ấy đã làm đem
hồi hướng đến những Ngạ quỉ ấy, Ngài thuyết giảng
chánh pháp thích hợp với những căn tánh của hội chúng đã
tụ họp ở đó. Thời pháp ấy đem lại lợi ích cho những
người ấy.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |