[2.2]
II.3 MẪU
QUỈ SỰ
(MATTAA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Người trần truồng
và có hình tướng thô xấu".
Pháp thoại này được Bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Trúc lâm
Viên, liên quan đến một nữ Ngạ quỉ nọ có tên là Mattaa .
Tương truyền rằng, tại
Saavatthi có một vị trưởng giả nọ có đức tin và lòng tịnh
tín. Vợ của ông ta, là người được biết đến bởi cái
tên là Mattaa, không có đức tin cũng không có lòng tịnh tín,
lại hay sân hận và không có con. Bấy giờ vị Phú hộ ấy,
vì sợ dòng dõi của gia đình sẽ bị tuyệt dứt, bèn lấy một
cô vợ khác tên là Tissaa từ một bộ tộc ngang hàng. Nàng
có niềm tin và lòng tịnh tín, lại khả ái và hấp dẫn đối
với chồng của nàng. Chẳng bao lâu nàng có thai và sau mười
tháng hạ sanh một đứa con trai. Tên của nó là Bhuuta . Nàng
trở thành nữ chủ của gia đình và hộ độ cho bốn vị Tỳ
kheo một cách chu đáo. Người vợ không có con đem lòng ganh tỵ
nàng. Một hôm nọ, cả hai cùng gội đầu và đang đứng với
tóc ướt. Vị phú hộ đem lòng yêu thương Tissaa vì nàng có
những đức tính, và thường đứng nói chuyện với nàng một
cách thoải mái. Vì không thể chịu được điều này và đã
có lòng ganh tỵ Mattaa, bèn quét nhà và đổ rác mà nàng đã
gom lại lên đầu của Tissaa . Ðến đúng thời kỳ, nàng chết
và sanh trong cõi ngạ quỷ, chịu đau khổ do nghiệp lực của
nàng. Sự thống khổ này được biết đến qua bài kinh. Rồi
một hôm nọ khi chiều tối, nàng hiện ra trước mặt Tissaa
khi nàng đang tắm ở sau nhà. Khi trông thấy Nữ Ngạ quỉ,
Tissaa bèn hỏi nàng câu kệ này:
1. "Ngươi trần truồng
và có hình tướng thô xấu, gầy ôm với những đường gân
lộ ra. Này con người ốm yếu, với những xương sườn lộ
ra, bây giờ người là ai, người là ai mà đứng ở đây?
Ngạ quỉ trả lời bằng
câu kệ này:
2. Tôi là Mattaa, nàng là
Tissà. Tôi là vợ chung chồng với nàng trong kiếp quá khứ.
Khi đã làm ác nghiệp, tôi đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ
quỉ.
Chú giải:
2. Tôi là Mattaa, Nàng là
Tissaa (Aha.m mattaa tuva.m Tissaa): Nàng có tên là Tissaa trong khi
tôi có tên là Mattaa .
Tissaa hỏi nàng một lần
nữa về nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:
3. Vậy nhiệp gì được
làm bởi nàng bằng thân, khẩu hay ý? Do kết quả của nghiệp
nào khiến nàng đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ?"
Ngạ quỉ giải thích
nghiệp mà nàng đã tạo bằng câu kệ này:
4. Tôi có tánh hung dữ
và thô bạo, hay ganh tỵ, hèn hạ và xảo trá. Sau khi đã nói
những lời ác về nàng, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ
quỉ."
Chú giải:
4. HUNG DỮ (Ca.n.dii): Có
tính sân hận. THÔ LỖ (Pharusaa): Nói lời thô lỗ. NHỮNG LỜI
NÓI ÁC (Duruta.m): ác ngữ, ỷ ngữ.
Từ đây trở đi, họ tiếp
tục nói chuyện qua lại với nhau bằng những câu kệ này:
5. "Tất cả điều này
tôi cũng biết, nàng có sân hận như thế; nhưng có điều khác
mà tôi muốn hỏi nàng: Tại
sao thân nàng đầy bụi đất?"
6. "Cô đã tắm gội
đầu của cô và đã ăn mặc và trang điểm sạch sẽ; tuy nhiên
tôi vẫn còn nhiều hơn thế nữa, còn trang điểm nhiều hơn
cô.
7. Trong khi tôi nhìn
cô nói chuyện với chồng của chúng ta, nhân đó cô đã khiến
lòng ganh tỵ mãnh liệt và sân hận sanh đến trong tôi.
8. Khi trông thấy cảnh
này, tôi lấy một ít bụi và tung bụi ấy lên người của cô.
Chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị phủ đầy bụi".
9. "Tất cả điều này
tôi cũng biết, về cách mà nàng đã đổ bụi lên tôi; nhưng
có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng bị ăn mòn
bởi bệnh ghẻ?"
10. "Cả hai chúng ta
đều đi đến ven rừng để kiếm những cây thuốc. Cô thì
mang về những cây thuốc trong khi tôi mang về cây Kapi kacchu .
11. Rồi chẳng có sự
hay biết của cô về nó, tôi đã rải chúng lên giường của
cô; chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị ăn mòn
bởi bệnh ghẻ ngứa".
12. "Tất cả điều
này tôi cũng biết về cách mà nàng đã rải chúng lên giường
của tôi. Nhưng có điều khác tôi muốn hỏi nàng: Tại sao
nàng bị trần truồng?"
13. "Có một cuộc họp
gồm bạn bè, cuộc hội họp của những quyến thuộc; và cô
được yêu cầu đi chung với chồng của chúng ta, còn tôi
thì không.
14. Rồi lợi dụng khi
cô không biết đến, tôi đã lấy đi những y phục của cô.
Chính do kết quả của nghiệp ấy khiến tôi bị trần truồng".
15. "Tất cả đều này
tôi cũng biết, về chuyện nàng lấy y phục của tôi, nhưng có
điều khác tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng có mùi phẩn?"
16. "Tôi đã quăng những
vật thơm, những tràng hoa và những loại dầu đắt giá vào
trong nhà xí - ác nghiệp ấy được làm bởi tôi. Chính do quả
của nghiệp ấy tôi có mùi phẩn".
17. "Tất cả điều
này tôi cũng biết, về ác nghiệp ấy được làm bởi nàng;
nhưng có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng: Tại sao nàng có
kiếp sống đau khổ?"
18. "Bất cứ của cải
nào được tìm thấy trong nhà của chúng ta đều thuộc về của
hai chúng ta đồng đều nhau. Tuy nhiên dầu những vật thí ở
trong tầm tay của tôi, tôi lại không làm nơi nương tựa cho
chính tôi. Chính do kết quả nghiệp ấy khiến tôi chịu kiếp
sống đau khổ.
19. Rồi ngay cả khi cô
nói với tôi rằng: "Chị đang đeo đuổi những ác nghiệp;
chắc chắn chẳng phải do những ác nghiệp mà một kiếp sống
hạnh phúc dễ dàng đạt đến?"
20. "Nàng đã đến với
tôi từ bên trái, và điều tệ hại hơn nữa là nàng đã
ganh tỵ với tôi. Hãy xem loại kết quả có được từ những
ác nghiệp.
21. Nàng có nhà, có những
người hầu và những nữ trang này. Bây giờ những thứ này
đã bị những người khác hưởng. Những vật sở hữu không
tồn tại mãi mãi.
22. "Cha của Bhuuta bấy
giờ đang từ chợ về nhà. Có lẽ ông ta sẽ cho nàng một
ít gì đó. Hãy đợi cho đến lúc ấy, đừng đi khỏi đây."
23. "Tôi trần truồng
và có hình tướng thô xấu, gầy ốm với những đường gân
lộ ra. Ðiều này sẽ làm xấu hổ cho những người nữ. Ðừng
để cha của Bhuuta trông thấy tôi".
24. "Thôi được, tôi
có thể cho nàng cái gì đây, hoặc tôi có thể làm gì cho
nàng để nàng có thể được hạnh phúc và có đầy đủ tất
cả những gì nàng muốn?".
25. "Bốn Tỳ kheo là
Chư Tăng, và bốn vị là bốn bậc - Hãy tiếp đãi tám vị Tỳ
kheo này và hồi hướng phước thí ấy đến cho tôi. Rồi
tôi sẽ được hạnh phúc và có đầy đủ tất cả những gì
mà tôi muốn".
26. "Tốt lắm!"
Nàng đồng ý. Nàng cúng dường vật thực đến tám vị Tỳ
kheo, mặc y phục cho họ và hồi hướng phước thí ấy đến
cho nàng.
27. Ngay khi Tiissaa hồi hướng
phước thí này thì kết quả hiện ra: vật thực, y phục, và
thức uống, là kết quả của phước thí này.
28. Nhân đó nàng trở
nên thanh tịnh, mặc y phục sạch sẽ và tươi sáng, mặc những
thứ tốt hơn vải Kaasi và, được trang sức bằng nhiều loại
y phục và những vật trang sức, nàng đi đến người vợ
chung chồng với nàng.
29. "Ngươi là người
đứng với sắc đẹp tuyệt trần, Này Devataa, khi chiếu sáng
khắp các hướng như Dược vương tinh.
30. Sắc đẹp của
ngươi như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được
thành tựu cho ngươi ở đây và sẽ có sanh lên bất cứ cái
gì mà tâm của ngươi quá thích?
31. Ta hỏi ngươi, này
Devata, có đại oai lực, ngươi đã làm việc phước nào khi
ngươi còn làm người? Oai lực sáng chói của ngươi như vậy
là do cái gì và sắc đẹp của ngươi chiếu sáng khắp các hưởng?"
32. "Tôi là Mattaa,
cô là Tissaa. Tôi là người vợ chung chồng của cô trong quá
khứ. Sau khi đã làm ác nghiệp tôi đã đi từ đây đến cõi
Ngạ quỉ; Nhưng bây giờ, do vật thí được cho bởi cô, tôi
được an lạc, chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào.
33. Này em gái, cầu chúc
em được trường thọ, cùng với tất cả những quyến thuộc
của em, và cầu chúc em đạt đến thế giới của những vị
Vasavatti, là chỗ mà không có sầu muộn và ô nhiễm.
34. Hãy xử sự ở đây
cho đúng chánh pháp và hãy cho ra những vật thí, hỡi cô gái
xinh đẹp; Hãy đoạn trừ bợn nhơ của lòng ích kỷ cùng với
cội rễ của nó và đi về cõi chư Thiên mà không mang theo tội
gì".
Chú giải:
5. TẤT CẢ ÐIỀU NÀY
TÔI CŨNG BIẾT RẰNG NÀNG ÐÃ NÓNG GIẬN NHƯ THẾ NÀO (Sabba.m
aha.m pi jaanaami yathaa tva.m ca.n.dikaa ahu): "Tôi là người có
tánh sân hận và cộc cằn thô lỗ", đó là câu mà nàng
đã nói, tôi cũng biết tất cả những điều này - rằng
nàng sân hận như thế nào, có tánh nóng giận, nói lời thô
lỗ, ganh tỵ, hèn hạ và xảo trá. NHƯNG CÓ ÐIỀU KHÁC MÀ
TÔI MUỐN HỎI NÀNG (a~n~na~n ca kho tva.m pucchaami): Nhưng bây giờ
có điều khác mà tôi muốn hỏi nàng. TẠI SAO NÀNG BỊ LẤM
ÐẦY BỤI NHƯ THẾ (Kenaasii Pa.msugu.n.thitaa). Do nghiệp nào
nghiệp nào khiến nàng bị phủ đầy bụi và rác rưởi như
thế, nghĩa là do nghiệp gì mà bụi và rác phủ đầy trên khắp
thân thể của Nàng?
6. CÔ ÐÃ GỘI ÐẦU
(Siisa.mnahaataa): Cô đã tắm từ đầu xuống. CÒN NHIỀU HƠN
THẾ NỮA (adhimatta.m): Nhiều hơn vô chừng. ÐƯỢC TRANG SỨC
CÒN NHIỀU HƠN (Sa mala.nkataraa): Ðược trang sức hoàn toàn và
rất lộng lẫy. Một cách đọc hoán chuyển là vô cùng
(Adhimattaa): Say đắm cực kỳ, say đắm trong xảo trá và ngã
mạn, nghĩa là nói xiêng nói xỏ. HƠN CÔ (Tayaa): Hơn cô, cô
em ạ.
7. CÔ NÓI CHUYỆN VỚI CHỒNG
CỦA CHÚNG TA (Saamikena samantayi): Cô nói với chồng của chúng
ta, nghĩa là nói với một người khác.
9. BỊ ĂN MÒN BỞI BỆNH
GHẺ NGỨA (Khajjaasi kacchuyaa): Bị gặm r.ta bởi bệnh ghẻ ngứa,
bị hành hạ bởi nó.
10. KIẾM NHỮNG CÂY THUỐC;
Bhesajjahaarii= Bhesajjahaariniyo (Thể văn phạm hoán chuyển); Ði
hái thuốc. CẢ HAI CHÚNG TA (Ubhayo): Hai người chúng ta, nghĩa
là tôi và cô. ÐẾN VEN RỪNG (Vananta.m): Ðến KHU rừng. CÔ
ÐEM VỀ NHỮNG CÂY THUỐC (Tva~n ca Bhesajja.m aahari): Cô đem về
những cây thuốc mà sẽ có lợi cho cô, đúng như đơn kê của
thầy thuốc TRONG KHI ÐÓ TÔI ÐEM VỀ NHỮNG CÂY Kapikacchu
(aha~nca kapikacchuno): Trong khi đó tôi đem về những trái mà ai
chạm vào thì bị ngứa ngáy. Kapikacchu được gọi theo cách
khác là, "Saya.mguttaa ", trong trường hợp đó, nó có
ý nghĩa là tôi đem về những lá và trái Saya.mgutta .
11. TÔI RẢI CHÚNG TRÊN
GIƯỜNG CỦA CÔ (Sayya.m ty aaha.m samokiri.m): Tôi Rải khắp
trên giừơng của cô những lá và trái Kapikacchu .
13. CỦA NHỮNG BẠN BÈ
(Sahaayaana.m): của những người bạn. MỘT CUỘC HỘI HỌP
(Samayo): Một cuộc họp. CỦA NHỮNG QUYẾN THUỘC (~Natiina.m):
của những người bà con. MỘT CUỘC TỤ HỌP VỚI NHAU
(Samitii). Một cuộc quay quần. YÊU CẦU (aamantitaa): Ðược mời
đến dự hội. THEO CÙNG VỚI CHỒNG CỦA CHÚNG TA (Samaaminii):
Cùng với chúa của chúng ta, nghĩa là cùng với người mà bảo
dưỡng chúng ta. NHƯNG TÔI THÌ KHÔNG (No ca kho' ha.m): Nhưng tôi
thì không được mời - Ðây là cách nên được hiểu.
14. TÔI... Y PHỤC CỦA
CÔ: Dussa.m ty aaha.m = Dussa.m te aha.m (Phối hợp cách). LẤY ÐI
(apaanudi.m) chộp lấy, lấy đem đi bằng sự trộm cắp.
16. ÐẮT GIÁ
(Paccaggha.m): Tốt, rất đắt giá. TÔI NÉM (Athaaresi.m): Tôi quăng,
MÙI CỦA PHÂN (Guudhagandhinii): Có mùi phân, bốc lên mùi phân.
18. BẤT CỨ CỦA CẢI
NÀO SẼ ÐƯỢC TÌM THẤY TRONG NHÀ CỦA CHÚNG TA (Ya.m Gehe
vijjite dha na.m): Bất cứ tài sản nào có được trong nhà của
chúng ta đều thuộc về cả hai chúng ta như là những người
quyến thuộc, thuộc về cô và tôi ngang nhau. Ở TRONG TẦM TAY
(Santesu): Ðược biết đến.
19. Khi Peti ấy đã giải
thích những điểm về những điều mà nàng được hỏi đến
bởi Tissaa, nàng bèn nói thêm một lần nữa rằng. "Ngay cả
khi ấy cô nói với tôi" v.v... để thú nhận lỗi lầm
mà nàng đã cảm thấy do trước kia không nghe những lời
khuyên của Tissaa . Ở đây, NGAY CẢ KHI ẤY (Tad'eva): Ngay cả
khi ấy, trong thời gian mà tôi còn là người. VỚI TÔI (Ma.m):
Nàng chỉ về chính nàng. CÔ (Tva.m): Tissaa . ÐÃ NÓI (avaca):
Ðã bảo, "Chị đang đeo đuổi những ác nghiệp" được
nói ra để cho thấy cách mà nàng đã nói. Bài kinh có đoạn,
"Những ác nghiệp". Nàng chỉ làm những ác nghiệp
nên một kiếp sống hạnh phúc không dễ gì đạt được bởi
những ác nghiệp ấy, một kiếp sống đau khổ dễ dàng đạt
được thì đúng hơn. Nàng nói rằng, bây giờ điều ấy đã
xảy ra đúng như cách mà trước kia người bạn chung chồng của
nàng đã khuyên nàng.
Khi nghe qua điều này,
Tissaa bèn nói lên ba câu kệ bắt đầu rằng, "Nàng đến
với tôi từ phía bên trái".
20. Ở đây - NÀNG ÐẾN
VỚI TÔI TỪ PHÍA BÊN TRÁI (Vaamato ma.m tva.m paccesi): Nàng đã
có quan niệm sai trái về tôi. Dầu tôi muốn nàng được hạnh
phúc, nhưng nàng vẫn cho tôi là hành động một cách thù địch.
NÀNG CÓ LÒNG GANH GHÉT TÔI: Ma.m usuyyasi = Mayha.m usuyyati (Thể văn
phạm chuyển đổi), Nàng ganh tỵ tôi. HÃY XEM LOẠI KẾT QUẢ
CÓ ÐƯỢC TỪ NHỮNG ÁC NGHIỆP (passa paapaana.m kammaana.m
vipaako hoti yaadiso): Cô ta nói rằng, "Chính nàng hãy xem loại
kết quả có được từ những ác nghiệp, và sự kinh khủng
của nó".
21. BÂY GIỜ NHỮNG THỨ
NÀY ÐƯỢC HƯỞNG BỞI NHỮNG NGƯỜI KHÁC (Te a~n~ne
Paricaarenti): Những căn nhà này, những người hầu và những
tư trang này mà trước kia nàng đã sở hữu, bây giờ được
hưởng được dùng bởi những người khác. NHỮNG THỨ NÀY
(Ime) được nêu ra bằng sự méo mó về giống tánh. NHỮNG VẬT
SỞ HỮU KHÔNG MÃI TỒN TẠI (Na bhogaa honti sassataa): Những vật
sở hữu này quả thật không tồn tại mãi mãi, không bền vững,
chỉ tồn tại lâu bằng thời gian của một người trong một
kiếp sống và phải bị bỏ lại khi đi sang một kiếp sống
mới. Do đó, vì điều này, không nên nuôi dưỡng lòng ganh tỵ
và bỏn xẻn - Ðây là ý nghĩa.
22. CHA CỦA BHUUTA BÂY GIỜ
THÌ (Idaanii Bhuutassa pitaa): Cha của (Bhuuta), của con trai tôi,
là người đàn ông giàu có, bây giờ. TỪ CHỢ VỀ: aapa.naa =
aapa.nato (thể văn phạm hoán chuyển); đang đến, đang trở về
ngôi nhà này. CÓ LẼ ÔNG TA SẼ CHO NÀNG MỘT CÁI GÌ ÐÓ
(App'eva te dade ki~nci): Khi vị phú hộ đã về nhà thì có thể
ông ta sẽ cho nàng một cái gì đó đáng được cho như một
phước thí. Ðừng đi khỏi đây. CHO ÐẾN KHI ẤY (Maasu taava
ito agaa): Nàng nói do lòng bi mẫn, "Ðừng đi khỏi đây,
khỏi hè nhà này, cho đến khi ấy."
23. Khi đã nghe qua điều
này, Nữ Ngạ quỷ ấy bèn nói lên câu kệ bắt đầu rằng,
"Tôi trần truồng và có hình tướng thô xấu", để
cho biết rằng nàng đã cảm thấy có trắc ẩn trong lòng. Ở
đây, ÐIỀU NÀY THẬT XẤU HỔ CHO NHỮNG ÐÀN BÀ (Koniinam
eta.m itthiina.m): Sự trần truồng và xấu xí này mà làm xấu
hổ cho những người đàn bà cần phải được tránh xa, bởi
vì nó cần được che đậy. ÐỪNG ÐỂ CHA CỦA BHUUTA TRÔNG
THẤY TÔI (Maa maa.m Bhuutapitaaddassa): "Do đó, đừng để
cha của Bhuuta, người đàn ông giàu có ấy, thấy tôi",
nàng nói một cách hổ thẹn.
24. Khi đã nghe điều này,
Tissaa đầy ước muốn giúp đỡ và đọc lên câu kệ bắt đầu
bằng, "Thôi được, tôi có thể giúp nàng cái gì đây?"
"Ở đây THÔI ÐƯỢC (Handa): là một mạo tự được đặt
trong Metri causaa . TÔI CÓ THỂ CHO NÀNG CÁI GÌ? kin t'aha.m
dammi=kin te aha.m dammi (Cách phối hợp); tôi sẽ cho nàng vật
thực hay y phục? HAY TÔI CÓ THỂ LÀM GÌ CHO NÀNG? (kin vaa ca te
karom 'aha.m): Hay tôi có thể giúp đỡ gì khác cho nàng ở đây
vào lúc này?
25. Khi nghe qua điều này,
Petii bèn nói lên câu kệ rằng. "Bốn vị Tỳ kheo là của
Tăng". Ở đây, BỐN VỊ TỲ KHƯU LÀ CỦA TĂNG VÀ BỐN VỊ
LÀ BỐN BẬC (Cattaaro Bhikkhuu Sanghato cattaaro pana puggale). Hãy
tiếp đãi tám vị Tỳ kheo như thế một cách đầy đủ và hồi
hương phước thí ấy đến cho tôi, xin hãy bố thí giùm cho
tôi vật thí rồi hãy hồi hướng. Rồi tôi sẽ được hạnh
phúc và sẽ có dồi dào tất cả cái gì mà tôi muốn.
Khi nghe qua điều này,
Tissaa bèn báo tin cho chồng của nàng biết vấn đề ấy, và
vào ngày hôm sau vị ấy cúng dường vật thực đến tám vị
Tỳ kheo và hồi hướng phước thí đến cho nàng, Ngay tức
thì nàng đạt được sự vinh quang của cõi trời và lại đi
đến Tissaa một lần nữa. Ðể chứng minh vấn đề này, những
vị kiết tập Tam Tạng đã lồng vào ba câu kệ, bắt đầu bằng:
"Tốt lắm, nàng đồng ý". Khi nàng đứng ở đó sau
khi đã đến, Tissaa bèn hỏi nàng ba câu kệ như sau, "Nàng
là người đứng đó với sắc đẹp siêu phàm". Người
kia bèn cho nàng thấy chân tướng của mình bằng câu kệ rằng,
" Tôi là Mattaa ", và bày tỏ sự tuỳ hỷ của nàng bằng
câu kệ rằng, "Cầu chúc cho cô được sống lâu",
sau đó sách tấn nàng bằng câu kệ rằng, "Hãy xử sự
ở đây theo đúng với chánh pháp".
32. Ở đây, ÐƯỢC CHO BỞI
NÀNG: Tava di.n.nena = Tayaa dinnena (Thể văn phạm chuyển đổi).
33. CHỖ MÀ KHÔNG CÓ SẦU
KHỔ HAY Ô NHIỄM (Asoka.m viraja.m .thaana.m): Cõi trời là chỗ
không sầu khổ do không có sự sầu khổ và ô nhiễm, vì sự
vắng mặt của mồ hôi và bụi bặm. Nàng nói tất cả điều
này liên quan đến cõi Devaloka . CHỖ Ở CỦA NHỮNG VỊ
VASAVATTI (Vasavattina.m): Trong những người vận dụng năng lực
của họ (Vattaana.m) bằng quyền lực của chư Thiên.
34. CÙNG VỚI CỘI RỄ CỦA
NÓ (Samuula.m): cùng bợn nhơ của tham, vì bợn nhơ của tham quả
thật là căn cội của lòng ích kỷ. KHÔNG CHÊ TRÁCH
(Aninditaa): không có sự quở trách, đáng khen ngợi. ÐI ÐẾN
NƠI THIÊN GIỚI (Sagga.m upehi .thaana.m): Cầu chúc cho nàng đạt
được thiên giới (Sagga.m), vì nó là tối cao về các dục trần
của nó, là những cái mà có thể thấy được v.v... Phần còn
lại thì tự nó đã rõ ràng rồi.
Rồi Tissaa nêu lên vấn
đề ấy với người đàn ông giàu có. Người đàn ông giàu
có ấy nêu vấn đề với các vị Tỳ kheo và các vị Tỳ
kheo nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy
đó làm vấn đề cần thiết đã sanh lên và thuyết pháp cho
hội chúng đã hội họp ở đó. Khi họ đã nghe thời pháp
này, thì những người ấy, khi đã có sự động tâm, bèn đoạn
trừ bợn nhơ về lòng bỏn xẻn v.v... Và thiên về giới đức,
sự bố thí v.v... và được quyết định sanh về thiên giới.
-ooOoo-
II.4 NAN
ÐÀ QUỈ SỰ
(NANDAA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Ngươi có sắc tướng
nám đen và thô xấu".
Pháp thoại này được Bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên
quan đến một nữ Ngạ quỉ tên là Nandaa .
Tương truyền rằng,
trong một ngôi làng nọ không cách xa thành Saavatthi có một vị
thiện nam tên là Nandasena, có đức tin và lòng tịnh tín. Tuy
nhiên, vợ của ông ta tên là Nandaa, không có đức tin cũng không
có lòng tịnh tín, thấp hèn, có tánh nóng nảy và hay nói lời
thô lỗ; Nàng bất kính và không tuân phục chồng của nàng,
lại còn lăng mạ chửi mắng mẹ chồng bằng giọng oang oang
như cái trống ch?u. Ðến đúng thời kỳ, nàng chết và tái
sanh trong cõi Ngạ quỉ ở chỗ không xa ngôi làng ấy. Và một
hôm, nàng hiện ra không cách xa vị Thiện Nam Nadasena trong khi
ông ta đang rời khỏi ngôi làng ấy. Khi ông ta trông thấy
nàng, bèn nói với nàng câu kệ này:
1. Nàng có hình tướng nám
đen và thô xấu, trông xấu xí và dữ dằn, có mắt đỏ và
răng dài lồi ra. Ta không nghĩ rằng nàng có thể là người
được.
Chú giải:
1. Ở đây, NÁM ÐEN
(Kaa"nii): Có sắc tối; giống như những cục than đã bị
đốt cháy. THÔ XẤU (Pharusaa): Thô thiển. TRÔNG DỮ DẰN
(Bhiirudassanaa): Trông kinh khiếp, dễ sợ. Một cách đọc hoán
chuyển khác là Bhaarudassanaa, trông tối đen, nghĩa là khó
nhìn do sự thô xấu của nàng v.v... ÐỎ (Pingala): Có mắt đỏ.
DÀI LỒI RA (Kalaaraa): Những cái răng dài, lồi ra. Ta nghĩ rằng
nàng chỉ là một Ngạ quỷ. Ðây là ý nghĩa.
Khi nghe qua điều này, Ngạ
quỷ bèn nói lên câu kệ để giải thích rằng nàng là ai:
2. "Tôi là Nandaa,
này Nandasena, tôi là vợ của anh trong quá khứ. Sau khi đã
làm ác nghiệp, tôi đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ."
Chú giải:
2. TÔI LÀ NANDAA, NÀY
NANDASENA (aha.m nandaa nandasena): Thưa chồng Nandasena, Tôi tên là
Nandaa . TÔI LÀ VỢ CỦA ANH TRONG QUÁ KHỨ (Bhariyaa te pure
ahu.m): Tôi là vợ anh của anh trong kiếp quá khứ.
Sau câu kệ này là câu hỏi
của vị Thiện Nam:
3. "Bây giờ ác nghiệp
nào được làm bởi nàng từ thân, khẩu hoặc ý. Do kết quả
của nghiệp nào khiến nàng phải ra đi từ đây đến cõi Ngạ
quỷ?"
Rồi nàng trả lời vị
ấy, khi nói rằng:
4. Tôi có tánh nóng nảy,
thô bạo, và cũng không có lòng tôn kính đối với ông. Sau
khi đã nói những lời ác về ông, tôi đã đi từ đây đến
cõi Ngạ quỷ."
Vị Thiện Nam lại nói rằng:
5. "Ở đây, ta sẽ
cho nàng chiếc áo choàng của ta: Hãy mặc vào chiếc áo
choàng này. Khi đã mặc chiếc áo choàng này rồi, thời hãy
đến và ta sẽ dẫn nàng về nhà.
6. Những y phục, đồ
ăn và thức uống nàng sẽ có được khi nàng đã đi về nhà.
Và nàng sẽ nhìn thấy những đứa con trai của nàng và thăm
những nàng dâu của nàng".
Rồi nàng nói hai câu kệ
này với vị ấy:
7-8. "Cái gì được
cho từ tay của ông vào trong tay của tôi thì không có ích lợi
gì cho tôi. Nhưng hãy làm thoả mãn bằng đồ ăn và thức uống
đến các vị Tỳ kheo có giới đức, đã thoát khỏi tham, và
hãy bố thí đến những kẻ nghe nhiều, rồi hồi hướng phước
thí ấy đến cho tôi. Thời tôi sẽ được hạnh phúc và có
dồi dào những gì tôi muốn".
Ba câu kệ này được nói
bởi những vị kiết tập Tam tạng:
9. "Tốt lắm!" Vị
ấy đồng ý và phân phát nhiều vật thí - đồ ăn, thức uống,
Vật thực cứng, y phục và chỗ ngụ, dù che, những vật thơm
và những tràng hoa, và nhiều loại trầm hương khác đến các
vị Tỳ kheo có giới đức, không có tham, và đến những Bậc
Ða văn. Sau khi đã làm thoả mãn họ bằng đồ ăn và thức uống,
ông ta hồi hướng phước thí đến cho nàng.
10. Ngay khi vị ấy hồi
hướng phước thí này thì kết quả hiện ra, vật thực, y phục
và thức uống là kết quả của việc bố thí này.
11. Nhân đó, nàng trở
nên thanh tịnh, được mặc y phục sạch sẽ và tươi sáng,
mang những thứ tốt hơn vải Kasii và, được trang sức bằng
nhiều loại y phục và những vật trang sức, nàng đi đến chồng
của nàng".
Từ đây trở đi là những
câu kệ về sự trao đổi chuyện trò giữa vị Thiện Nam và
Ngạ quỷ.
12. Nàng là người đứng
với sắc đẹp tuyệt trần, này Devataa, chiếu sáng rực lên
khắp các hướng như Dược Vương Tinh.
13. Sắc đẹp của nàng
như vậy là do cái gì? Do cái gì mà điều này được thành tựu
bởi nàng ở đây và sẽ còn sanh lên bất cứ lạc thú nào
mà tâm của nàng ưa thích?
14. Ta hỏi nàng, này
Devii có đại oai lực, nàng đã làm việc phước nào khi còn
làm người? Do cái gì khiến oai lực của nàng sáng chói như
vậy và sắc đẹp của nàng chiếu sáng khắp các hướng?"
15. "Tôi là Nandaa, thưa
ông Nandasena, tôi là vợ của ông trong quá khứ. Sau khi làm việc
ác, tôi đã đi từ đây đến cõi Ngạ quỷ. Nhưng bây giờ,
do vật thí được cho đến bởi ông, tôi được sung sướng,
chẳng có gì để sợ từ bất cứ hướng nào.
16. Cầu chúc cho ông được
sống lâu, cùng với tất cả những quyến thuộc của ông,
và cầu chúc ông đạt đến chỗ ở của những vị Vasavatti,
chỗ mà không sầu muộn và ô nhiễm.
17. Hãy xử sự ở đây
theo đúng với chánh pháp và cho ra những vật thí, này gia chủ;
hãy đoạn trừ bợn nhơ của lòng ích kỷ cùng với căn cội
của nó, và đi đến thiên giới mà không mang theo tội lỗi
gì?
Chú giải:
9. PHÂN PHÁT NHIỀU VẬT
THÍ (Daana.m vipula.m aakiri): Mở ra một cuộc bố thí vĩ đại
tựa như rải ra những hạt giống phước thí trên mảnh ruộng
của những người đáng thọ lãnh những vật cúng dường.
Phần còn lại giống như
câu chuyện ngay ở trước.
Khi nàng đã giải thích
như vậy với Nandasena về sự vinh quang thần thiên của nàng
và nguyên nhân của nó, nàng bèn đi đến chỗ ngụ của chính
nàng. Vị Thiện Nam nêu ra vấn đề ấy với các vị Tỳ kheo
và các vị Tỳ kheo nêu vấn đề ấy với Ðức Thế Tôn. Ðức
Thế Tôn lấy vấn đề ấylàm nguyên nhân cần thiết đã
sanh khởi và thuyết pháp đến hội chúng đã hội họp ở đó.
Thời pháp đem lại lợi ích cho những người ấy.
-ooOoo-
II.5 NHĨ HOÀN
NỮ QUỶ SỰ
"Trên người có
trang sức, mang những vòng tai sáng bóng".
Pháp thoại nàng được
Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở
Jetavana, liên quan đến DevaPutta MatthaKu.n.dali . Ở đây bất cứ
điều gì được nói đến đều đã được nêu ra trong thiên
cung sự về Matthaku.n.dali, trong bộ thiên cung sự thuộc phần
chú giải nội dung ý nghĩa; và do đó nên được hiểu đúng
như đã được trình bày ở đó.
Trong trường hợp này,
đó chính là câu chuyện về Devaputta Matthaku.n.dali từ khi vị
ấy trở thành một Vimaana Devataa trở đi. Cha của vị ấy là
một Bà la môn Adinnapubbaka, đã đi đến bãi tha ma do nỗi ưu
bi vì bị mất đứa con trai của ông ta, và đang đi quanh chỗ
thiêu xác đứa con mà khóc lóc trong khi vị thiên tử, với mục
đích làm vơi đi nỗi ưu bi của người cha, bèn bỏ đi cái lốt
chư Thiên của vị ấy và hiện ra làm một Petaa đầy đau khổ,
và với hai cánh tay được xiết lại trong nỗi sầu muộn,
đang và kêu khóc, "ôi, mặt trăng ôi mặt trời!" Cho
dù nó được bao gồm trong bộ kinh thiên cung sự, nhưng câu
chuyện về vị ấy phải được xem là cũng được bao gồm
trong bộ kinh Ngạ quỷ sự; lý do là bất cứ ai mà từ bỏ
kiếp sống làm người cũng có thể được đề cập qua tên
gọi là Peta .
-ooOoo-
II.6 HẮC
QUỶ SỰ
(KA.NHA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Hãy dậy, thưa Ka.nha,
tại sao ngài nằm như thế?"
Pháp thoại này được Bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên
quan đến một vị Thiện Nam có đứa con trai đã chết.
Tương truyền rằng, tại
Saavatthi, đứa con trai của một vị Thiện Nam nọ đã chết.
Bị đâm thủng bởi cây tên sầu muộn, ông ta không tắm,
không ăn, không làm việc, không đi hầu Ðức Phật, chỉ nói
lảm nhảm mà thôi, khi nói rằng, "con đâu rồi, này con
trai bé bỏng yêu quí của cha? con đã vội vàng đi đâu mà bỏ
lại ta?" v.v... Bậc Ðạo sư khi đang dò xét thế gian vào
lúc hừng sáng, trông thấy khả năng của ông ta có thể chứng
đắc quả Thánh Tu-Ðà-Hườn. Và vào ngày hôm sau, Ngài đi đến
Saavatthi để khất thực, được vây quanh bởi chúng Tỳ kheo.
Khi Ngài đã thọ thực xong, Ngài cho các vị Tỳ kheo ra về, rồi
đi với người thị giả, là Trưởng lão Aanada, đến cửa nhà
của ông ta. Những người hầu báo tin cho vị thiện nam biết
rằng Bậc Ðạo sư đã đến, và rồi thỉnh Bậc Ðạo sư ngồi
trên chỗ ngồi mà họ đã soạn sẵn. Rồi họ đi tìm vị
Thiện Nam và dẫn ông ta đến trước Bậc Ðạo sư. Khi ông
ta trông thấy Ngài, bèn ngồi xuống một bên. Ngài hỏi rằng,
"Này Thiện Nam, chuyện gì thế, có phải ngươi đang than
khóc đó chăng?" Khi ông ta nói rằng, "Thưa vâng, bạch
đức Thế Tôn"; Ngài bèn nói rằng, "Này ông Thiện
Nam, các bậc trí tuệ ngày xưa đã nghe một câu chuyện từ
các bậc Trí tuệ và không khóc than cho đứa con trai đã chết".
Và khi được thỉnh cầu bởi ông ta, Ngài bèn kể lại câu
chuyện xa xưa ấy.
Tương truyền rằng, đã
lâu, trong thành phố Dvaaravatii có mười vị hoàng tử -
Vaasudeva, Baladeva, candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna,
Pajjuna.m, Gha.tapa.n.dita và A"nkura . Trong những vị hoàng tử
này, đứa con yêu dấu của Ðại vương Vaasudeva đã chết. Ðức
vua sầu khổ trước biến cố này; Vua bỏ bê tất cả mọi
phận sự của mình, ôm ghì lấy chiếc giường của vị ấy
và rồi nằm nói chuyện lảm nhảm. Lúc bấy giờ,
Ghatapa.n.dita suy nghĩ rằng, "Ngoài ta ra, không ai có thể
diệt trừ nỗi ưu bi của anh ta được. Ta sẽ diệt trừ nỗi
ưu bi của anh ta bằng một mẹo." Bởi vậy, vị ấy giả
làm một người điên, và khi nhìn lên bầu trời, đi rảo khắp
thành phố mà nói rằng, "Hãy cho tôi con thỏ! Hãy cho tôi
con thỏ!", và toàn thể thành phố đã dao động khi nghe
tin rằng Gha.tapa.n.dita đã điên loạn. Lúc bấy giờ, vị quan
cố vấn đặc biệt của Ðức Vua, có tên là Rohineyya, đi đến
vua Vaasudeva và nói lên câu kệ này để khởi chuyện với Ðức
vua:
1. "Hãy dậy, thưa Ka.nha,
tại sao ngài nằm đó? Sự mơ tưởng đem lại lợi ích gì
cho ngài? Người mà là em trai của ngài, là quả tim của
ngài, là con mắt phải của ngài, đã bị áp đảo bởi những
cơn gió -vị ấy đang khao khát một con thỏ, thưa Kesava!"
Chú giải:
1. KA.NHA (Kanha) : Vị ấy
gọi Vaasuladeva bằng tên họ. MƠ TƯỞNG CÓ LỢI ÍCH GÌ CHO
NGÀI? (Ko attho supinena te): quả thật vậy, bằng sự mơ tưởng
có lợi ích gì cho Ngài? NGƯỜI EM RUỘT (Sakobhaataa): Ðứa em
cùng một mẹ. QUẢ TIM CỦA NGÀI VÀ LÀ CON MẮT PHẢI CỦA
NGÀI (Hadaya.m cakkhun ca Dakkhi.na.m): Nghĩa là người mà giống y
như quả tim và con mắt của Ngài. ÐÃ BỊ ÁP ÐẢO BỞI NHỮNG
TRẬN GIÓ (Tassa vaataa, baliiyanti): Những cơn gió điên cuồng,
tiếp tục sanh khởi trong người của vị ấy, đã mạnh lên,
gia tăng và áp đảo vị ấy. VỊ ẤY ÐANG KHAO KHÁT (Jappati):
Vị ấy đang nói lảm nhảm rằng. "hãy cho tôi con thỏ!"
KESAVA (kesava): Tương truyền rằng vị ấy được gọi là
Kesava vì mái tóc xinh đẹp của vị ấy; vị quan kia đang gọi
là vị ấy bằng cái tên này.
Bậc Ðạo sư, là người
đã trở thành Bậc Chánh Ðẳng giác, khi ấy nói lên câu kệ
này để làm sáng tỏ tánh cách mà vị ấy ngồi dậy khỏi
chiếc giường khi nghe qua những lời này:
2. "Khi nghe qua những
lời của Rohineyya, Kesava vội vã đứng dậy, vì ưu bi cho em
trai của vị ấy!"
Ðức vua đứng dậy và
vội vàng đi xuống hoàng cung và rồi đi đến trước mặt của
Cha.tapa.n.dita, nắm chắc vị ấy bằng cả hai tay, và khi nói
chuyện với vị ấy, đã nói lên ba câu kệ này:
3. "Tại sao em, như một
người điên, nói nhảm rằng, "con thỏ, con thỏ!"
quanh khắp cả Dvaaraka này? Em muốn loại thỏ nào?
4. Thỏ bằng vàng? bằng
ngọc? thỏ bằng đồng? ngay cả thỏ làm bằng bạc? hay thỏ
làm bằng những loại đá quí? Chẳng hề gì, anh sẽ sai làm
con thỏ ấy để cho em.
5. Cũng có những con thỏ
bé nhỏ khác mà rảo đi trong những khu rừng. Anh cũng sẽ
mang về cho em những con thỏ này. Em muốn loại thỏ nào?
Chú giải:
3. NHƯ MỘT NGƯỜI ÐIÊN
(Ummattaruupo): Như người bị điên. KHẮP (Kevala.m): Toàn thể.
DVAARAKA (dvaaraka.m): Dạo đi quanh thành phố Dvaaraka này. NÓI LẨM
BẨM RẰNG, "THỎ, THỎ!" (Saso saso ti lapasi): Nói lẩm
bẩm "Thỏ, thỏ!"
4. CON THỎ BẰNG VÀNG:
Sova.n.namaya.m = Suva.n.namaya.m (Thể văn phạm hoán chuyển). CON
THỎ BẰNG ÐỒNG (Lohamaya.m): Con làm bằng đồng đỏ. CON BẰNG
BẠC (Ruupiyamaya.m): Con làm bằng loại đồng tiền bằng bạc.
5. Vị ấy dỗ ngọt
Chatapa.n.dita bằng con thỏ, với ý định khám phá nhu cầu cần
con thỏ của người kia, khi nói rằng. "Hãy nói cái gì
mà em muốn. Tại sao ưu bi? Cũng có những con thỏ bé nhỏ
khác rảo đi ở những đám cây trong rừng. Anh sẽ đem về
cho em những thứ này, nếu em chỉ cần nói ra, Hỡi người bạn
đáng kính, em cần loại thỏ nào?"
Khi nghe qua điều này,
Gha.tapa.n.dita nói lên câu kệ này:
6. "Em không muốn con
thỏ ấy, là những con thỏ mà ở trên đất. Em muốn con thỏ
từ mặt trăng. Hãy đem con thỏ ấy xuống cho em này Kesava
!"
Chú giải:
6. Ở đây, ÐEM XUỐNG:
ohara= ohaarehi (Thể văn phạm chuyển đổi). Khi đức vua nghe
điều này, vị ấy trở nên thất vọng, khi nghĩ rằng,
"Không nghi ngờ gì em của ta đã trở thành như một người
điên", và nói lên câu kệ này:
7. Bây giờ! Này người
thân của ta, chắc chắn em đã quăng đi đời sống ngọt ngào
của em rồi. Em khao khát cái mà không nên khao khát khi em muốn
con thỏ từ mặt trăng".
Chú giải:
7. NGƯỜI QUYẾN THUỘC CỦA
TA (~naati): Vị ấy nói với đứa em trai. Bây giờ ý nghĩa ở
đây là như thế này: "Này người quyến thuộc thân yêu
của ta, ta nghĩ rằng em đã quăng bỏ đời sống ngọt ngào của
em vì em đã ao ước cái mà không nên ao ước".
Khi Cha.tapa.n.dita nghe điều
mà Ðức vua đã phải nói, vị ấy đứng bất động ở đó
và nói rằng: "Thưa anh, như anh biết rằng sẽ có mất
mát đời sống cho một người mà khao khát con thỏ từ mặt
trăng, không thể có được nó, Tại sao anh cứ kêu than về một
đứa con trai đã chết, là kẻ mà anh không thể có được?"
Và nói lên câu kệ để giải thích quan điểm này:
8. Này Ka~nha, nếu anh biết
cách mà anh dùng để khuyên những người khác như vậy; Tại
sao chính ngày hôm nay, anh lại than vãn cho một đứa con trai
đã chết trong quá khứ rồi?"
Chú giải:
8. Ở đây, NẾU ANH BI?T
NHƯ VẬY, NÀY KA.NHA (Eva.m ca ka.nha jaanaasi) Nếu anh biết như vậy,
này anh, hỡi Ðại vương Ka.nha, rằng một điều mà không thể
được thì không nên khao khát. CÁCH MÀ ANH KHUYÊN NHỮNG NGƯỜI
KHÁC (Yath' a~n~na.m): Và dầu đã biết rõ điều này, tuy thế
anh lại không hành động theo cách mà anh khuyên những người
khác. Tại sao anh than vãn cho một đứa con trai mà đã chết từ
hơn bốn tháng rồi? Như vậy, trong khi đứng ở giữa con đường,
vị ấy nói rằng, "ít ra tôi chỉ có thể ao ước cái
mà có thể thấy được, còn anh thì thương tiếc cho người
mà không còn có thể trông thấy nữa." và rồi nói lên
hai câu kệ để dạy đạo cho vị ấy.
9. "Nhưng điều này
không thể có được, dầu bởi người hay bởi phi nhân, rằng,
"Một đứa con sanh đến cho ta thì không nên chết."
Cái mà không có được thì có thể kiếm ở đâu?
10. Chẳng phải do Mantra,
rễ của cây thuốc, những loại thuốc, cũng chẳng phải do của
cải mà có thể đem về kẻ quá cố mà anh kêu khóc đến, Này
Ka.nha ạ!"
Chú giải:
9. Ở đây CÁI MÀ
(Ya.m): nghĩa là chỉ cái này mà anh khao khát đến là;
"một đứa con trai đã sanh đến cho anh ta không được
chết", điều ấy không thể có được điều này, dầu
bởi người hay chư Thiên, này anh ạ! Như vậy điều này
có thể có được từ đâu, bằng cách nào có thể có được
điều này, vì điều này mà không thể có được thì không
làm sao có được.
10. BẰNG MANTRA (MANTAA):
Do bởi Mantra . Do bởi RỄ CỦA CÂY THUỐC: Muulabhesajjaa =
muulabhesajjena (Thể văn phạm hoán chuyển). CŨNG CHẲNG PHẢI
BẰNG CỦA CẢI (dhanena vaa) cũng chẳng phải bằng của cải
đến một trăm Ko.ti . Ðây là điều được nói đến:
"Không thể dùng Mantra để mang về kẻ quá vãng mà anh
than khóc đến".
Rồi để chỉ cho người
anh của vị ấy thấy rằng, không thể ngăn cản cái được
gọi sự chết này được, dầu bằng của cải hay dòng tộc
hay kiến thức, giới đức hay thiền định. Cha.tapa.n.dita đã
thuyết pháp cho Ðức vua bằng năm câu kệ này.
11. Những người có của
cải lớn, có những vật sở hữu lớn, dầu là những vị
Sát đế lỵ có những vương quốc - cho dù những kẻ này,
có nhiều của cải và ngũ cốc, cũng không thoát khỏi già
và chết được.
12. Những vị Sát đế lỵ,
Bà la môn, Vệ sá, Thủ đà, Chiên đà la và Pukkusa - ngay cả
những người này và những người khác, bằng dòng tộc của
họ, cũng không thoát khỏi già và chết.
13. Những kẻ tụng đọc
Mantra bao gồm sáu chương, được soạn ra bởi Phạm thiên
Brahma - ngay cả những người này và những người khác, qua
kiến thức ấy, cũng không thoát khỏi già và chết được.
14. Và ngay cả những vị
ẩn sĩ, những đạo sĩ đã được an tịnh và đã tự chế -
ngay cả những vị đạo sĩ này cũng phải rời bỏ thân xác
của họ khi thời gian đến.
15. Những vị A la hán,
những bậc đã tu tiến, đã làm điều cần được làm và đã
thoát khỏi các lậu hoặc - Ngay cả họ cũng phải để xuống
tấm thân này khi đã hết nghiệp thiện và bất thiện của họ.
Chú giải:
11. Ở đây, NHỮNG NGƯỜI
CÓ CỦA CẢI LỚN (Mahaddhanaa) Rất giàu có vì của cải mà họ
đã tích trữ. NHỮNG NGƯỜI CÓ NHỮNG VẬT SỞ HỮU LỚN
(Mahaabhogaa): Có sự thù thắng lớn về những vật sở hữu tương
tự như những vật sở hữu của những vị chư Thiên. CÓ NHỮNG
VƯƠNG QUỐC (Rattha vanto): Có toàn thể những vương quốc. CÓ
NHIỀU VỀ CỦA CẢI VÀ NGŨ CỐC (Pahuutadhanadha~n~naase): Chúng
có những của cải và ngũ cốc vô hạn, do nhờ những của cải
và ngũ cốc mà chúng đã cất lại để dùng hằng ngày sau
khi bỏ ra đủ để trang trải những nhu cầu của chúng trong
ba hoặc bốn năm. NGAY CẢ NHỮNG NGƯỜI NÀY CŨNG KHÔNG THOÁT
GIÀ VÀ CHẾT (Te pi no ajaaraamaraa): Ngay cả những vị Sát đế
lỵ ấy có của cải lớn như Mahaamandhaatu và Mahaasudassana
v.v... Cũng không thoát khỏi già và chết, nghĩa là chắc chắn
họ đã phải đi vào miệng của tử thần.
12. NHỮNG NGƯỜI NÀY
(ete): là những vị sát đế lỵ v.v... Ðã nêu ra trước. NHỮNG
NGƯỜI KHÁC (a~n~ne): Những người mà trực tiếp thuộc về
giai cấp nối theo sau như Amba.t.tha v.v... QUA DÒNG GIỐNG CỦA HỌ
(Jaatiyaa): nghĩa là họ không thoát khỏi già và chết dù bằng
dòng giống của họ.
13. Những MAN TRA
(Manta.m): Những bộ kinh Phệ đà tụng đọc (Parivattenti): tụng
và ngâm nga; hay nói cách khác. Ðọc (Parivattenti): niệm lâm
râm trong khi thực hành những nghi lễ cúng tế
(anuparipatentaa). GỒM SÁU BỘ KINH (Cha.la"nga.m): liên hệ đến
sáu phần nhỏ được kể đến như Ngữ Âm học, những luật
lệ mô tả về nghi lễ cúng tế, từ nguyên học, văn phạm,
Thiên văn, phép làm thơ v.v... DO BRAHMAA SOẠN RA
(Brahmacintita.m): Ðược nghĩ ra, nói ra, bởi Brahmaa dành cho
các vị Bà la môn. QUA KIẾN THỨC ẤY (vijjaaya) nghĩa là họ
không thoát được già chết cho dù họ có kiến thức giống
như kiến thức của Brahmaa .
14. NHỮNG ÐẠO SĨ
(isayo): Họ là những ẩn sĩ vì họ cố gắng thu thúc và tự
chế, v.v... AN TỊNH (Santaa): Có tánh an tịnh về thân và khẩu.
LÀ NHỮNG BẬC ÐÃ TỰ CHẾ (Sa~n~natattaa): là những kẻ có
tâm được kiểm soát bởi sự thu thúc về tham v.v... NHỮNG
ÐẠO SĨ (Tapssino): Họ thực hành pháp khổ hạnh về thân . Lại
nữa các Ðạo sĩ (Tapassino): những người đã có pháp chế
ngự. Ðiều này cho thấy rằng dầu họ trở thành những người
dựa vào sự khổ hạnh theo cách này và muốn chứng đạt sự
giải thoát bằng phương tiện về thân, cũng phải rời bỏ cái
thân này. Hay nói cách khác, những vị ẩn sĩ (Isayo): họ là
những ẩn sĩ (Isayo) vì họ cố gắng (Esanaa) Ðể đạt được
giới cao thuợng và các điều học v.v... Bằng ý nghĩa này, họ
được thanh tịnh do sự gom tâm vào riêng một đối tượng.
Họ là những đạo sĩ vì sự tinh tấn thiêu đốt mà họ áp
dụng vào bốn pháp Chánh tinh tấn. Họ là những Ðạo sĩ vì
họ đốt cháy tham v.v... Qua sự thực hành đúng. Ðây là
cách nên được hiểu.
15. NHỮNG NGƯỜI TỰ TU
TIẾN (Bhaavitattaa): Những người có tâm được tu tập do pháp
thiền quán về tứ diệu đế như là một đề mục thiền định.
Khi nghe qua pháp thoại
này do Gha.tapa.n.dita nói ra, Ðức vua, tựa như được người
ta rút ra cây tên ưu bi,và với lòng tịnh tín trong tâm, khi
ấy bèn nói lên những câu kệ còn lại để tán dương Chaỉpa.n.dita
16. "Ta quả thật
đang cháy nóng, như ngọn lửa cháy bằng thục tô; Nhưng bây
giờ, tất cả những sầu muộn của ta đã được dập tắt
tựa như ta được tưới lên người bằng nước mát.
17. Cây tên, quả thật vậy,
là nỗi ưu bi, mà đâm xuyên qua tim của ta, nay đã được rút
ra rồi. Ngươi đã đoạn trừ ưu bi ấy, ưu bi về đứa con
trai của ta mà đã đè nặng lên ta.
18. Nhờ rút ra được cây
tên, ta trở nên an tịnh và mát mẻ; từ khi nghe những lời của
ngươi, ta không còn ưu bi hay than khóc nữa.
19. Cũng như Ghata đã
làm cho anh của mình vơi đi nỗi ưu bi. Những bậc trí tuệ
có lòng bi mẫn cũng hành động như thế ấy.
20. Như Ghata đi theo anh của
mình với lời khuyên tốt; Cũng vậy, người mà có những người
cố vấn và những người hầu như vậy cũng được đi theo
(với lời khuyên tốt) như thế.
Chú giải:
19. NHƯ GHATA LÀM CHO ANH CỦA
MÌNH QUÊN ÐI (Cha.to jettha.m va bhaatara.m) nghĩa là cũng như
Ghatapa.n.dita, bằng phương tiện thiện xảo và bằng thời
pháp thoại, đã làm cho anh của vị ấy nguôi ngoai, là người
bị chế ngự bởi nỗi ưu bi về đứa con trai đã chết của
vị ấy, khỏi nỗi ưu bi về đứa con trai ấy. Cũng vậy những
người có trí tuệ khác mà có lòng bi mẫn cũng hành động vì
sự lợi ích cho những quyến thuộc của họ.
20. NGƯỜI MÀ CÓ NHƯ VẬY
(yassa etaadisaa honti): Ðây là câu kệ từ Ðức Phật Toàn
Giác. Ðây là ý nghĩa của nó: Cũng như, theo cách mà nhờ đó
Chatapa.n.dita đi theo vua Vaasudeva, là người bị đau khổ vì nỗi
sầu muộn cho đứa con trai của ông ta, bằng lời khuyên tốt
với mục đích làm tiêu tan nỗi ưu bi ấy, cũng vậy bất cứ
ai khác mà có được những người cố vấn có trí tuệ như
thế cũng đi theo như vậy! làm sao có thể có ưu bi về người
ấy được?
Những câu kệ còn lại
có ý nghĩa giống như đã được nêu ra ở trên.
Khi Bậc Ðạo sư đã kể
lại pháp thoại này, Ngài bèn nói rằng, "Như vậy, này
ông Thiện Nam, chính những bậc Trí tuệ thuở xưa đã diệt
trừ nỗi ưu bi của họ về đứa con trai đã chết của họ
khi họ nghe một câu chuyện từ những Bậc trí tuệ. Rồi
Ngài thuyết giảng tứ đế và thêm vào bổn sanh, lúc kết
thúc thời pháp ấy, vị Thiện Nam ấy được an trú trong quả
Thánh Tu đà huờn.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |