BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Chú Giải Ngạ Quỷ Sự

Tỳ kheo Minh Huệ dịch Việt
(dựa theo bản dịch Anh ngữ của Peter Masefield)


[4.1]

CHƯƠNG IV: ÐẠI PHẨM (MAHAAVAGGA)

-ooOoo-

IV.1 QUỈ SỰ AMBASAKKHARA
(AMBASAKKHARA PETAVATTHUVA.N.NANAA)

"Có một thành phố của người Vajji tên là Vesaali ". Ðây là quỉ sự Ambasakkhara . Câu chuyện bắt nguồn như thế nào?

Khi Ðức Thế Tôn đang ngụ ở Jetavana thì một vị vua Licchavi tên là Ambasakkhara, là người có tà kiến và chấp theo học thuyết Natthika, cai trị ở Vesaali . Lúc bấy giờ, ở trong thành Vesaali, có một quãng đường lầy lội ở gần cửa tiệm của một vị thương nhân nọ, làm trắc trở cho nhiều người đi qua ở đó, khiến người ta phải nhảy qua nó, một số thì làm văng bùn. Khi trông thấy điều này, thì vị thương nhân kia suy nghĩ rằng, "Những người này không cần phải đi bộ qua bùn", và sai đặt xuống chỗ lầy lội ấy một cái đầu lâu của một con bò mà không còn mùi hôi thối và có màu giống như xà cừ. Về bản tánh, ông ta là người có giới đức, không nóng giận, có lời nói nhỏ nhẹ và thường khen ngợi ân đức của những người khác về điều mà họ có. Rồi một hôm nọ, khi người bạn của ông ta đang tắm và thiếu đề phòng cẩn mật, ông ta giấu áo quần của người kia cho vui, chỉ cho lại chúng sau khi ông ta làm cho người kia phải chịu khổ sở. Tuy nhiên, đứa cháu trai của ông ta mang về những đồ ăn cắp được từ những nhà khác và gởi chúng vào trong cửa tiệm của ông ta. Những chủ nhân của những đồ vật ấy sau khi đã khám phá ra những đồ vật của họ, bèn đem nộp ông ta và đứa cháu trai của ông ta cùng với những thứ bị mất cắp ấy trước mặt đức vua. Ðức vua truyền lịnh rằng, "hãy cắt đầu người này, nhưng đâm xuyên đứa cháu trai của ông ta" và những người của đức vua làm y như lịnh truyền.

Khi ông ta chết, ông ta sanh vào cõi của những vị chư thiên địa cầu, có được một con Bạch mã của chư thiên, chạy nhanh như tâm ý, vì kiếp trước ông đã làm chiếc cầu ấy bằng cái đầu của con bò và mùi hương của chư thiên toát ra thừ thân của vị ấy do bởi những lời nhận xét của ông ta để khen ngợi những người có giới đức, nhưng ông ta bị trần truồng vì đã đem giấu y phục. Chính do kết quả của việc nhìn lại những nghiệp này mà ông ta đã làm trong quá khứ nên ông ta trông thấy đứa cháu trai của ông ta bị đâm xuyên. Tâm của vị ấy bị rung động bởi lòng thương xót, vị ấy liền cỡi trên con Bạch mã chạy nhanh như tâm ý và đi vào lúc nửa đêm đến chỗ mà đứa cháu trai của vị ấy bị đâm xuyên và, khi đứng không cách xa, mỗi ngày mỗi nói rằng, "Này bạn, hãy cố gắng, vì còn sống thì tốt hơn".

Lúc bấy giờ vua Ambasakkhara đang đi vòng quanh thành phố theo chiều phải, cỡi trên lưng của con voi kiết tường, vị ấy trông thấy một người đàn bà đã mở cánh cửa sổ ở trong một ngôi nhà nọ và đang xem vẻ uy nghi của vua. Ðức vua đem lòng yêu thương nàng và ra hiệu cho một người đàn ông ngồi ở gần đó tựa như muốn nói rằng, "Ngươi hãy xem ngôi nhà ấy và người đàn bà ấy", và đúng lúc đi vào chỗ ngụ trong hoàng cung và sai người đàn ông ấy đi khi nói rằng, "ta truyền lịnh rằng ngươi hãy đi và tìm hiểu xem liệu người đàn bà ấy đã có chồng hay chưa? "Người kia đi và khi ông ta thấy rằng nàng đã có một người chồng, bèn báo tin cho đức vua biết. Ðức vua khi nghĩ về một cách nào đó mà nhờ đó vị ấy có thể lấy nàng làm vợ, bèn cho mời người chồng của nàng đến và nói rằng, "Ta truyền lịnh ngươi hãy đến và phục vụ cho ta". Vì sợ hãi, anh ta miễn cưỡng hầu hạ đức vua, khi nghĩ rằng, nếu vị ấy không làm điều mà đức vua ban truyền, thời đức vua sẽ trừng phạt vị ấy; và hằng ngày đi hầu đức vua. Ðức vua sai cho anh ta vật thực và tiền công. Khi vài ngày đã trôi qua, đức vua nói với anh ta khi anh ta đến hầu vua vào lúc sáng sớm, "Ta truyền lịnh ngươi hãy đi đến nơi mà có hồ sen và kiếm về từ đó một ít đất sét đỏ và hoa súng đỏ; Nếu ngươi không trở về trong chính ngày hôm nay thời ngươi sẽ mất mạng", và khi anh ta đã đi rồi, thì bảo người giữ cửa rằng, 'Tất cả các cổng đều phải được đóng lại ngay khi mặt trời vừa lặn."

Bấy giờ hồ sen ấy cách thành Vesaali tối thiểu là ba do tuần, nhưng cho dù người đàn ông ấy, vội vã đi vì nỗi sợ chết, đã đi đến hồ sen với sức nhanh của gió trước lúc đứng bóng. Bởi vì anh ta đã nghe trước rằng hồ sen ấy có vị phi nhân thường lui tới, nên anh ta sợ hãi đi quanh hồ khi tự hỏi rằng, "có nguy hiểm nào ở đây không?" Khi trông thấy anh ta thì một vị thần bảo vệ hồ sen ấy đem lòng thương hại cho anh ta và đi đến anh ta trong hình tướng của loài người mà nói rằng, "anh đến đây với mục đích gì, hỡi ông bạn?" Anh ta bèn kể lại toàn thể câu chuyện của anh ta cho vị ấy nghe. "Nếu sự thể là như vậy thời ngươi hãy lấy bất cứ cái gì mà ngươi cần đến". Vị ấy nói và biến mất sau khi cho thấy tướng mạo chư thiên của vị ấy. Anh ta lấy một ít đất sét và hoa súng đỏ ở đó và đi đến cổng thành ngay trước khi mặt trời lặn. Người giữ cổng trông thấy anh ta và đóng cổng lại, anh ta bèn gọi người đàn ông bị đâm xuyên ở gần cổng ấy làm nhân chứng cho anh ta khi nói rằng, "Khi tôi đến ngay trước khi mặt trời lặn thì họ lại đóng cổng ngay khi tôi đang gọi đến. Ông hãy biết rằng tôi đã đến thật đúng lúc và về phần tôi chẳng có lỗi lầm nào cả". Khi người kia nghe điều này thì nói rằng, "Tôi đang đối diện với cái chết, đang bị hành hình bằng sự đâm xuyên. Làm sao tôi có thể làm nhân chứng cho ông được. Tuy nhiên, có một vị Peta có đại thần thông lực sắp đi đến gần tôi. Ông hãy nhờ vị ấy làm chứng cho ông".

"Nhưng làm sao tôi có thể trông thấy vị ấy?" "Nếu ông nán lại ngay tại chỗ này thời chính ông sẽ trông thấy vị ấy". Anh ta đứng chờ ở đó và trông thấy vị Peta ấy vào canh giữa của đêm và nhờ vị ấy làm chứng cho anh ta. Vào lúc rạng sáng, khi đức vua truyền lịnh rằng, "ngươi đã đi ngược mệnh lệnh của ta - là một vị vua, do đó ta phải trừng phạt ngươi." Anh ta bèn nói rằng, "Tâu bệ hạ, thần đã không làm trái lệnh của Bệ hạ; Thần đã đến đây trước khi mặt trời lặn". Vậy ai làm chứng cho ngươi? ÀAnh ta bèn chỉ cho thấy rằng người làm chứng cho anh ta là một Peta trần truồng mà đã đến trước mặt người đàn ông bị đâm xuyên và, khi vua nói rằng, "Làm sao chúng ta tin vào điều này được?" Anh ta nói rằng, "Trong đêm nay, hãy gởi theo thần một người đàn ông mà bệ hạ tin cậy". Khi nghe qua điều này thì chính đức vua đi theo cùng anh ta và đứng ở chỗ ấy. Khi vị Peta đi đến và nói rằng, "Hãy rán sống, này bạn, vì sống thì tốt hơn", vua bèn hỏi vị ấy bằng năm câu kệ và câu kệ đầu, "Có một thành phố của dân Bạt Kỳ tên là Vesaali ", được lồng vào bởi những vị kiết tập Tam tạng với mục đích cho thấy nội dung của chúng:

1. "Có một thành phố của người Bạt kỳ tên là Vesaali ; chính tại đó có vị Licchavi Ambasakkhara, sau khi đã trông thấy vị Peta ở ngoài thành phố, bèn hỏi vị ấy ngay tại đó, vì muốn biết nguyên nhân của vị ấy."

2. "Ðối với hắn, không có việc nằm ngồi hay bước tới bước lui; Ðối với hắn cũng chẳng có khoái lạc về việc thọ hưởng y phục và vật thực để ăn, uống hay nhai.

3. Trong quá khứ, những người đã là những quyến thuộc của hắn, những người tốt bụng của hắn, có lòng bi mẫn, được người ta trông thấy và được nghe là đã ở chung với hắn. Bây giờ những người này cũng không thể trông thấy được hắn, tình cảnh của hắn là tình cảnh bị bỏ đi bởi những người ấy.

4. Những người mà mạng chung rồi thì không có bạn bè - những bạn bè đã bỏ ngươi khi họ biết về sự thiếu thốn của ngươi; Trong khi đó họ chỉ vây quanh ngươi khi nào họ thấy sự vinh quanh thịnh vượng của ngươi - những người thịnh vượng mới có nhiều bạn bè.

5. Khi đã mất tất cả những tài sản của mình, buồn khổ, bị lấm lem và thân bị tan rã như giọt sương đang lơ lửng, sự chấm dứt mạng sống của người ấy sẽ đến ngày hôm nay hoặc mai.

6. Khi đã bị đi đến cảnh đau khổ hoàn toàn như bị đâm xuyên trên một cái cọc bằng gỗ Nimba - Như vậy, này Yakkha, bằng dấu hiệu nào, khiến ngươi có thể nói rằng, "Hãy sống, này bạn, vì sống thì tốt hơn cả?"

Chú giải:

1. TẠI ÐÓ (tattha): Trong thành Vesaali ấy, Ở BÊN NGOÀI CỦA THÀNH PHỐ (nagarassa baahira.m): Là người ở bên ngoài của thành phố; Nó xảy ra ngay ở bên ngoài của thành phố Vesaali . NGAY TẠI ÐÓ (tatth'eva): Ngay tại đó, ở chỗ mà vua trông thấy vị ấy. VỊ ẤY (ta.m): Vị Peta ấy. KHI MUỐN BIẾT NGUYÊN DO CỦA VỊ ẤY (kaara.natthiko): Khi muốn biết nguyên do tại sao vị ấy nói như vậy rằng, 'Hãy, sống vì sống, này bạn, thì tốt hơn'.

2. ÐỐI VỚI HẮN KHÔNG CÓ VIỆC NẰM HAY NGỒI (seyyaa nisajjaa nayimassa attthi): Ðối với người mà bị đâm xuyên thì không có việc nằm nghỉ, tánh chất đặc biệt của nó được xem là căng ra ở trên lưng của một người, cũng không có việc ngồi mà tánh chất nổi bật của nó là ngồi xếp bàn v.v... CŨNG KHÔNG CÓ VIỆC BƯỚC TỚI HAY BƯỚC LUI (abhikkamo n'atthi pa.tikamo vaa): Ðối với hắn cũng không có một sự di động nhỏ nhặt nhất mà trong đó tánh chất đặc biệt là đi tới. NGAY CẢ KHOÁI LẠC (paricaarikaa sà pi): Ðối với hắn cũng chẳng có khoái lạc của các dục, đặc tánh của khóai lạc ấy là hưởng dụng y phục và vật thực mà được ăn uống và nhai v.v...

3. NHỮNG NGƯỜI MÀ TRONG QUÁ KHỨ LÀ NHỮNG NGƯỜI TỐT BỤNG CỦA HẮN, CÓ LÒNG THƯƠNG TƯỞNG, MÀ ÐÃ ÐƯỢC TRÔNG THẤY VÀ NGHE Ở CHÚNG VỚI HẮN (di.t.thasutaa sahajjaa anukapakaa yassa ahesu"m pubbe): Những người mà trong quá khứ là những người bạn tốt bụng của hắn, cả những người mà đã được trông thấy ở chung với hắn và những người bạn mà không được trông thấy như vậy. NGAY CẢ TRÔNG THẤY (datthu"m pi): Nghĩa là những người này thậm chí cũng không thể trông thấy hắn, chớ nói chi là ở chung với hắn. hoàn cảnh của hắn là hoàn cảnh bị bỏ đi (viraajitatto): TÌNH TRẠNG CỦA HẮN LÀ TÌNH TRẠNG BỊ PHỦ NHẬN. BỞI NHỮNG NGƯỜI ẤY (janana tena): Bởi những người đã là những quyến thuộc của hắn v.v...

4. NHỮNG NGƯỜI MÀ ÐÃ MẠNG CHUNG THÌ KHÔNG CÓ BẠN BÈ (na oggatassa bhavanti mittaa): Những người mà đã chết, những người mà tâm thức của họ đã ra đi, quả thật không có những người bạn, bởi vì chúng đã đi sang bên kia của chặng đường, nơi mà không có cái gì được làm bởi những người bạn của họ. NHỮNG NGƯỜI BẠN ÐÃ BỎ NGƯƠI KHI HỌ BIẾT VỀ SỰ THIẾU THỐN CỦA NGƯƠI (jahanti mittà vikala.m viditvaa): Những người bạn bỏ ngươi khi nghĩ rằng, 'Không có cái gì được kiếm ra từ người này', khi họ biết rằng một người không có của cải ngay cả khi người ấy còn đang sống, chớ đừng nói chi người mà đã chết rồi. TRONG KHI ÐÓ HỌ VÂY QUANH NGƯƠI KHI HỌ THẤY SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA NGƯƠI (attha~n ca disvà parivaarayanti): Nhưng họ vây quanh ngươi với lời nói chan chứa tình cảm và nhìn chăm chăm vào ngươi khi họ trông thấy của cải của ngươi, sự thịnh vượng và tài sản. NHỮNG NGƯỜI MÀ HƯNG THỊNH THÌ CÓ NHIỀU BẠN BÈ (bahù mittà Uggattassa honti): Những người mà có của cải, tánh chất của người ấy là hưng thịnh và thành công, thì có nhiều bạn bè, có nghĩa đây là lối sống ở thế gian.

5. SAU KHI ÐÃ MẤT TẤT CẢ CỦA CẢI CỦA MÌNH (nihiinattho sabbabhogehi): Sau khi đã trở nên thiếu thốn tất cả của cải, cả lớn lẫn nhỏ. TRONG CẢNH KHỐN CÙNG (kiccho): Trong sự đau khổ. BỊ LẤM LEM (Sammakkhitto): Thân bị lấm lem bởi máu. THÂN HOÀN TOÀN BỊ TAN RÃ (samparibhinnagato): Có thân bị nát ở bên trong bởi cây cọc. GIỐNG NHƯ GIỌT SƯƠNG ÐANG TREO LƠ LỬNG (Ussaavabindu va palimpamaano): giống như giọt sương ở trên đầu của ngọn cỏ. NGÀY HÔM NAY HAY NGÀY MAI (ajja suve): Sự kết thúc, hoặc sự chấm dứt mạng sống của người này quả thật sẽ đến vào ngày hôm nay hoặc ngày mai, nghĩa là sau đó nó sẽ không còn tiếp tục nữa.

6. BỊ ÐÂM XUYÊN (uttaasita.m): Bị đặt vào, bị trói vào. TRÊN MỘT CÁI CỌC BẰNG GỖ CỦA CÂY NIMBA (picumandassa suule): Trên một cái cọc làm bằng thân của cây Nimba. BẰNG DẤU HIỆU NÀO? (kena va.n.nena): Vì lý do gì? NÀY BẠN, HÃY SỐNG CÒN, VÌ SỐNG CÒN THÌ TỐT HƠN (jiivabho jiivita.m eva seyyo): Hãy sống còn này bạn. Tại sao? Vì được sống là phần ngươi, cho dù bị đâm xuyên ở đây dầu một trăm lần, một ngàn lần, vẫn tốt hơn là sự sống khác mà đang chờ ngươi khi ngươi mạng chung ở đây.

Khi được hỏi như vậy bởi đức vua, vị Peta ấy bèn nói bốn câu kệ để giải thích cho vị ấy rõ điều mà vị ấy muốn nói:

7. "Người ấy là quyến thuộc máu mủ của tôi. Tôi đã nhớ đến trong kiếp sống quá khứ. Khi tôi trông thấy nó, tôi có lòng thương hại cho nó vì nghĩ rằng, "đừng để kẻ ác ấy phải rơi vào địa ngục."

8. Khi nó rời khỏi đây, hỡi Licchavi, thì người này, người đã làm những ác nghiệp này, sẽ sanh trong địa ngục có đông tội đồ và kinh khủng, vô cùng nóng nực, kinh khủng và đáng sợ.

9. Cái cọc này tốt hơn vô số lần địa ngục ấy; đừng để nó phải rơi vào địa ngục vô cùng đau đớn, đau khổ, đáng sợ và khắc nghiệt ấy;

10. Bây giờ nếu nó chịu nghe những lời của tôi thời nó sẽ bị đau khổ và có thể trút hơi tàn của nó. Do đó, tôi không nói trước mặt của nó, e rằng sự chấm dứt mạng sống của nó sẽ đến do bởi riêng tôi."

Chú giải:

7. Ở đây QUYẾN THUỘC MÁU MỦ (Saalohito): Có cùng giòng máu, có quan hệ về dòng dõi. TRONG KIẾP QUÁ KHỨ CỦA TÔI (purimaaya jaatiyaa): Trong kiếp sống quá khứ của tôi, ÐỪNG ÐỂ KẺ ÁC ẤY PHẢI RƠI VÀO ĐỊA NGỤC (maa paapadhammo niraya.m pataaya.m): Khi tôi trông thấy nó, tôi có lòng bi mẫn đối với nó vì nghĩ rằng, "đừng để người đàn ông có tánh ác này phải rơi vào trong địa ngục, đừng để nó sanh vào trong địa ngục - đây là cách nên được hiểu.

8. CÓ ÐÔNG (sattussada.m): Có đông đảo những chúng sanh mà đã từng là những kẻ tạo ra những ác nghiệp. Hay nói chách khác, nó có nghĩa là có đông, được chất chồng lần lượt với bảy cách làm khổ đau đớn, bắt đầu bằng năm loại bánh răng nhỏ, nghĩa là bị đổ nước đồng cháy đỏ vào trong mịêng, bị đặt trên núi than cháy đỏ, bị quăng xuống cái vạc dầu bằng sắt, bị khiến cho đi vào khu rừng có những ngọn lá dao, đi xuống trong con sông vetara.nii, và rồi bị quăng trở lại trong đại địa ngục. CỰC KỲ NÓNG BỎNG (Mahaabhitaapa.m): Bị đốt nóng một cách khổ sở bởi ngọn lửa lớn. MÃNH LIỆT (ka.tuka.m): Khó chịu. ÐÁNG SỢ (bhayaanaka.m): khiến phải kinh sợ.

9. VÔ SỐ LẦN (anekabhaayena gunena): Vô số lần nhiều hơn đối với lợi ích của ngươi. CÁI CỌC NÀY... HƠN ĐỊA NGỤC ẤY (aya.m eva suulo nirayena tena): Cái cọc này tốt hơn địa ngục, là chỗ mà nó phải sanh vào sau đó . Ðây là công cụ cách trong ý nghĩa công cụ. VÔ CÙNG ÐAU ÐỚN (ekantatipapa.m): nghĩa là có sự đau khổ cùng cực và gay gắt, có sự đau khổ tuyệt đối ngút ngàn.

10. BÂY GIỜ NẾU NÓ PHẢI NGHE NHỮNG LỜI NÀY CỦA TÔI (ina~n ca sutvaa vacana.m ma.m'eso): điều mà vị ấy đã nói bắt đầu bằng, "Khi nó rời khỏi đây," Nếu nó phải nghe những lời này của tôi thời nó sẽ bị đau khổ; là phải chịu nỗi đau khổ của địa ngục do bởi những lời của tôi. có thể trút hơi tàn của nó (vijaheyya paana.m): Có thể từ bỏ mạng sống của nó. do đó (tasmaa): vì lý do ấy. E RẰNG DO BỞI RIÊNG TÔI (maa m' ekato): Tôi không nói những lời này trước mặt nó, e rằng sự kết thúc mạng sống của người đàn ông này sẽ đến do bởi riêng tôi. Ðúng hơn tôi chỉ nói rằng, 'Hãy sống còn, này bạn, vì sống còn thì tốt hơn' - đây là ý nghĩa.

Khi vị Peta ấy đã giải thích như vậy điều mà vị ấy muốn nói thì đức vua thốt lên câu kệ này để xin phép hỏi vị Peta một lần nữa về vấn đề ấy:

11. "Nhưng sự kiện về người đàn ông này đã được biết đến rồi; Chúng tôi muốn hỏi luôn Ngài về những điều khác nữa. Nếu Ngài cho phép chúng tôi, thời chúng tôi sẽ hỏi Ngài, nhưng Ngài không được giận chúng tôi."

12. "Chắc chắn tôi đã đồng ý rồi - không có sự bàn bạc với người mà không được tin cậy. Khi miễn cưỡng cho rằng bệ hạ là người có lời nói có thể được tin cậy, khi hành động như vậy, bệ hạ có thể hỏi tôi điều nào bệ hạ muốn và nếu có thể được thời tôi sẽ trả lời."

Những câu kệ này là cuộc nói chuyện qua lại giữa vị peta và đức vua.

Chú giải:

11. Ở đây ÐƯỢC BIẾT ÐẾN (a~n~naato): Ðược hiểu. CHÚNG TÔI MUỐN icchaamase = icchaama: (thể văn phạm hoán chuyển). CHÚNG TÔI: no = a.mhaaka.m (thể văn phạm hoán chuyển). NHƯNG NGÀI KHÔNG ÐƯỢC GIẬN (na ca kujjhitabba.m): Nhưng Ngài không được giận khi nghĩ rằng, "Bất cứ điều gì mà những người này đang hỏi?"

12. CHẮC VẬY (addhaa): chắc chắn. TÔI ÐÃ ÐỒNG Ý (pati~n~naa me): Tôi đã đồng ý khi nói rằng, Ngài hỏi về tin tức, nghĩa là tôi đã cho phép. KHI ẤY (tadaa ahu): vào lúc mà tôi trông thấy bệ hạ đầu tiên. KHÔNG CÓ SỰ BÀN BẠC VỚI NHỮNG NGƯỜI MÀ KHÔNG CÓ SỰ TIN CẬY (naacikkhanaa appasanassa hoti): Không có sự nói chuyện với người mà không được tin cậy. Những người trọng chữ tín sẽ chỉ nói chuyện về bất cứ điều gì với những người mà họ tin cậy. Tuy nhiên, bệ hạ không có sự tin cậy trong tôi thời tôi cũng không có sự tin cậy trong bệ hạ. Vì lý do này, khi miễn cưỡng cho rằng bệ hạ là người có những lời nói có thể tin được, rất miễn cưỡng khi cho rằng điều mà bệ hạ nói sẽ được tin. KHI HÀNH ÐỘNG NHƯ VẬY (iti katvaa): Vì lý do này. BỆ HẠ CÓ THỂ HỎI TÔI ÐIỀU GÌ MÀ BỆ HẠ MUỐN VÀ NẾU CÓ THỂ ÐƯỢC (pucchassu ma.m kaama.m yathaa visayha.m): Bệ hạ có thể hỏi tôi về bất cứ điều gì mà bệ hạ muốn hỏi và nếu có thể được, nếu tôi có khả năng thời tôi sẽ trả lời theo đúng phạm vi hiểu biết của tôi - đây là ý nghĩa.

Khi đã được vị Peta cho phép như vậy, đức vua bèn nói lên câu kệ này:

13. Bất cứ điều gì mà trẫm có thể trông thấy bằng chính mắt của trẫm - thời trẫm có thể tin tất cả điều ấy. Nếu trẫm trông thấy một điều gì đó mà trẫm vẫn không tin thời Ngài nên giúp đỡ trẫm, thưa Yakkha."

Chú giải:

13. Ðây là ý nghĩa: Bất cứ điều gì mà trẫm được trông thấy bằng mắt của trẫm thời trẫm có thể tin, trẫm có thể chấp nhận, tất cả điều ấy đúng như thế. Tuy nhiên, nếu trẫm trông thấy một điều gì đó mà trẫm không tin về điều mà ngài nói thời ngài nên giúp đỡ trẫm, hỡi Yakkha, Ngài nên quở trách trẫm hay nói bằng cách nào đó. BẤT CỨ ÐIỀU GÌ MÀ TRẪM TRÔNG THẤY BẰNG CHÍNH MẮT CỦA TRẪM (ya.m ki~ncaaha.m cakkhumaa passisaami): Bất cứ điều gì mà trẫm có thể thấy bằng chính mắt của trẫm vì nó ở ngoài tầm thấy của một người khác. THỜI TRẪM CÓ THỂ TIN VÀO TẤT CẢ ÐIỀU ẤY (sabba.m pi taaha.m abhisaddaheyya.m): Thời trẫm có thể tin vào điều mà trẫm trông thấy, nghe hay biết, vì đó là sự tin cậy của trẫm đối với ngài - đây là ý nghĩa. Tuy nhiên, ý nghĩa của hai đoạn cuối cùng đúng như đã được gi?i thích.

Khi nghe qua diều này, vị Peta ấy bèn nói lên hai câu kệ này:

14. "Hãy cho ta có được lời hứa của bệ hạ rằng sau khi nghe pháp, bệ hạ sẽ có được lòng tịnh tín thích hợp, vì bệ hạ mong mỏi được biết và tâm của bệ hạ không bị ô nhiễm nên ta sẽ công bố tất cả giáo pháp đúng như đã được phân giải, dầu bệ hạ đã nghe hay chưa nghe."

Từ đây trở đi là những câu kệ trong cuộc nói chuyện giữa hai người trong bọn họ.

15. "Trên một con ngựa trắng có trang sức, ngài đi đến với người mà đã bị đâm xuyên; con ngựa này thật kỳ diệu và trông khả ái - Ðây là kết quả của nghiệp nào?"

16. "Ở trung tâm của thành phố Vesaali có một cái vũng nước trên con đường lầy lội; Với lòng tịnh tín trong tâm của tôi, tôi đã lấy một cái đầu lâu màu trắng của một con bò và đặt nó xuống trong vũng bùn ấy.

17. Nhờ đặt bàn chân của chúng tôi trên cái đầu lâu này, nên cả chúng tôi và những người khác có thể đi qua được; Con ngựa này, kỳ diệu và trông khả ái - là kết quả của nghiệp ấy."

18. "Bây giờ sắc của ngài sáng rực trong tất cả các hướng và mùi hương của ngài làm tràn ngập khắp các hướng; Ngài có oai lực lớn và đã đạt được năng lực thần thông này của một vị Yakkha. Tuy nhiên, Ngài lại trần truồng - Ðây là kết quả của nghiệp gì?"

19. "Tâm của tôi không sân hận và thường xuyên có lòng tịnh tín, tôi đi đến mọi người với giọng nói nhỏ nhẹ; Sắc tướng chư thiên của tôi thường xuyên chiếu sáng - đây là kết quả của nghiệp ấy.

20. Khi tôi thấy danh vọng và tiếng tăm của những người được an trú trong pháp thì tôi công bố họ với lòng tịnh tín trong tâm của tôi; mùi hương chư thiên của tôi toả ra liên tục - đây là kết quả của nghiệp ấy.

21. Trong khi những người bạn của tôi đang tắm ở chỗ tắm thì tôi vui đùa không có sự ô nhiễm trong tâm, đã lấy y phục của họ và giấu chúng ở một chỗ đất cao - Vì lý do này khiến tôi trần truồng và sống một cuộc đời phiền toái".

22. "Ðối với người mà làm điều ác để vui đùa, thì đó là kết quả về nghiệp của vị ấy. "Nhưng đối với người mà làm điều ấy không phải để vui đùa, thì người ta sẽ nói gì là quả nghiệp của người ấy?"

23. "Những người mà có mục đích đồi bại và có tâm bị ô nhiễm và có thân khẩu bất tịnh thời số phận của họ vào lúc thân hoại mạng chung là, không nghi ngờ gì, họ phải rơi vào địa ngục.

24. Nhưng những ai mà, khao khát một kiếp sống hạnh phúc, thoả thích trong sự bố thí và có tánh thương người thì số phận của họ vào lúc thân hoại mạng chung, không nghi ngờ gì, là họ sẽ được đi đến nhàn cảnh."

Chú giải:

14. HÃY CHO TÔI CÓ ÐƯỢC LỜI HỨA LONG TRỌNG CỦA NGÀI (saccappa.ti~n~naa tava me saa hontu): Hãy cho lời hứa này của bệ hạ đến tôi, là một lời hứa trang trọng. RẰNG SAU KHI ÐÃ NGHE PHÁP, NGÀI SẼ CÓ ÐƯỢC LÒNG TỊNH TÍN THÍCH HỢP (sutvaana dhamma.m labha suppasaada.m): rằng sau khi nghe pháp thoại này mà tôi nói về, ngài sẽ có được lòng tịnh tín chơn thật. MONG MỎI ÐƯỢC BIẾT (a~n~natthiko): Mong mỏi sự hiểu biết. ÐÚNG NHƯ ÐÃ ÐƯỢC PHÂN GIẢI (Yathaa pajjaana.m): Ðúng như người khác cũng giải nó; hay nói cách khác đúng như đã được phân biệt rõ (yathaa pajaana.m): nghĩa là đúng như sự hiểu biết của tôi.

15. ÐÂY LÀ KẾT QUẢ CỦA NGHIỆP NÀO? (kiss'eta.m kammassa aya.m vipaako): Ðây là kết quả của điều gì, quả thật đây là kết quả của điều gì? Ðây là kết quả của nghiệp gì? Hay nói cách khác, ta.m (không được dịch) chỉ là một bất biến từ, của nghiệp gì - đây là cách nên hiểu. Một số người đọc là Kissa te (ý nghĩa vẫn không thay đổi).

16. TRONG MỘT CON ÐƯỜNG CÓ BÙN (Cikkhallamagge): Trong một con đường có đầy bùn. MỘT CHỖ TRŨNG (naraka.m): Một cái hố. TÔI ÐÃ LẤY ekaaha.m = eha.m aha.m: (phối hợp cách). ÐẶT NÓ XUỐNG TRONG CÁI LỖ TRŨNG ẤY (Narakasmi.m nikkhipin): Ðặt nó xuống trong cái lỗ trũng có bùn ấy để người ta không phải giẫm lên nó.

20. VỀ NHỮNG NGƯỜI ÐƯỢC AN TRÚ TRONG PHÁP (dhammo .thitaana.m): Về những người mà sống trong pháp, TÔI CÔNG BỐ (manteni): Tôi nói về.

21. CÓ TÁNH CÁCH VUI ÐÙA (khi.d.datthiko): Có ý định xem nó như một trò đùa. KHÔNG CÓ SỰ Ô NHIỄM TRONG TÂM (no ca padu.t.thacitto): Không có tánh hiểm độc trong tâm đối với chủ nhân của chiếc áo, nghĩa là không có ý định ăn cắp hay gây ra sự mất mát nào.

22. CHẲNG PHẢI ÐỂ VUI ÐÙA (akaa.lamaano): Không có ý định vui đùa, với tánh hiểm độc trong tâm do bởi tham lam v.v... HỌ SẼ NÓI ÐIỀU GÌ LÀ KẾT QUẢ VỀ NGHIỆP CỦA VỊ ẤY? (kim tassa kammassa vipaaka.m aahu): Những bậc trí tuệ nói về sự cho quả khổ của nghiệp được làm của người ấy sẽ to lớn như thế nào?

23. CÓ MỤC ÐÍCH VÀ TÂM ÐỒI BẠI (Du.t.thasa.m kappamanaa): Với những ý nghĩ có tánh chất hiểm độc do bởi những mục đích có liên hệ đến các dục v.v... Bằng cách này, vị ấy nói về ác hạnh trong tâm. VÀ THÂN KHẨU BẤT TỊNH (kaayena vaacaaya ca sa"nkili.t.thaa): bị ô nhiễm về thân và khẩu như sát sanh v.v...

24. KHAO KHÁT ÐƯỢC (aasamaanaa): Hy vọng, mong muốn được

Khi những quả nghiệp đã được giải thích bằng sự phân tích tóm tắt do bởi vị Peta ấy thì đức vua nói lên câu kệ này, vì không tin điều mà vị ấy đã nghe!

25. "Làm sao trẫm có thể biết chắc điều này, rằng đây là quả của những nghiệp thiện và ác? Hay trẫm sẽ tin vào điều gì mà trẫm đã trông thấy? Hay, ai có thể làm cho trẫm tin vào điều này?"

Chú giải:

25. LÀM SAO TA CÓ THỂ BIẾT CHẮC ÐIỀU NÀY ÐƯỢC (ta.m kim ti Jaaneyya.m aha.m avecca) làm sao, nhờ vào nguyên do gì, ta có thể tin chắc điều này được, mà không phải nhờ vào những người khác, kết quả này của những thiện nghiệp và ác nghiệp được nói đến và được phân tích bởi Ngài bằng câu, "Những người có mục đích và tâm đồi bại và có thân khẩu bất tịnh v.v..., và câu "những người khác nào, mà mong mỏi được sanh vào cõi an vui v.v..". Hay tôi đã trông thấy điều gì để tôi tin? (ki.m và'ha.m disvà abhisaddaheyya.m): Hay loại bằng chứng nào mà ta đã trông thấy để ta đồng ý? HAY DẦU VẬY, AI CÓ THỂ LÀM CHO TA TIN VÀO ÐIỀU NÀY (ko và pi ma.m saddahaapeyy eta.m): Hay bậc đa văn nào, bậc trí tuệ nào, có thể làm cho ta tin vào vấn đề này, nghĩa là hãy nói cho ta biết rõ điều này.

Khi đã nghe qua điều này, vị Peta bèn nói những câu kệ này để giải thích cho đức vua rõ vấn đề một cách hợp lý:

26. "Khi bệ hạ đã thấy và đã nghe, bệ hạ phải tin rằng đây là kết quả của những thiện nghiệp và ác nghiệp; Nếu cả thiện nghiệp và ác nghiệpkhông tồn tại thì làm sao những chúng sanh có được kiếp sống hạnh phúc hay đau khổ?

27. Và nếu những kẻ còn sanh tử không làm những nghiệp ở đây, là những nghiệp thiện và bất thiện trong thế giới của loài người, thời sẽ không có những chúng sanh có được những kiếp sống hạnh phúc hay đau khổ, chẳng có ai cao và thấp trong cõi người.

28. Nhưng vì chúng sanh còn sanh tử, còn làm những nghiệp, là thiện nghiệp và ác nghiệp trong cõi người, do đó có những chúng sanh có được kiếp sống hạnh phúc và đau khổ, là những kẻ cao quý và thấp hèn trong cõi người.

29. Trong hiện tại, người ta nói rằng kết quả của nghiệp có hai: Những nghiệp sẽ được thọ lãnh là hạnh phúc và những nghiệp phải bị thọ lãnh là đau khổ; Những vị chư thiên thì làm cho chính mình được vui sướng, trong khi những kẻ ngu thì không thấy tánh hai mặt nên bị nấu đốt.

Chú giải:

26. Ở đây KHI BỆ HẠ ÐÃ TRÔNG THẤY (disvaa): Khi bệ hạ cũng đã thấy bằng chính mắt của bệ hạ. ÐÃ NGHE (sutvaa): Khi bệ hạ đã nghe pháp thời bệ hạ có thể rút ra kết luận của chính mình, phân giải theo đúng với nó. CỦA NHỮNG THIỆN NGHIỆP VÀ ÁC NGHIỆP: Kalyaa.napaapassa = kalyaa.nassa paapassa (phối hợp cách). Bệ hạ phải tin rằng sự hạnh phúc này và đau khổ này là kết quả của những thiện nghiệp và bất thiện nghiệp. NẾU CẢ HAI ÐỀU KHÔNG TỒN TẠI (ubhaye asante): Nếu hai loại nghiệp này, thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, không được biết đến. LÀM SAO CHÚNG SANH CÓ THỂ CÓ ÐƯỢC NHỮNG HẠNH PHÚC HAY ÐAU KHỔ? (siyaa nu sattaa sugataa duggataa vaa): Làm sao có sự kiện rằng những chúng sanh này đã đi đến cõi hạnh phúc hoặc đến cõi khổ đau, và những người nghèo thì ở trong trạng thái đau khổ, còn những người giàu thì ở trong trạng thái an vui? Bấy giờ vị ấy giải thích theo đúng vấn đề, đúng với điều mà được nói rồi bằng hai câu kệ bắt đầu là: "Và nếu những kẻ còn sanh tử không làm những nghiệp ở đây", "Nhưng vì những kẻ còn sanh tử có làm các nghiệp."

29. TRONG HIỆN TẠI NGƯỜI TA NÓI RẰNG: QUẢ CỦA NGHIỆP CÓ HAI PHẦN (dvaaya' ajja ka.mmaana.m vipaaka.m aahu): Trong hiện tại, bây giờ, người ta nói về, người ta bàn về quả nghiệp của những hành động thiện và bất thiện có hai, có hai loại. Hai loại ấy là gì? Vị ấy nói rằng, NHỮNG QUẢ NGHIỆP SẼ ÐƯỢC THỌ HƯỞNG LÀ HẠNH PHÚC VÀ NHỮNG NGHIỆP PHẢI LÃNH CHỊU LÀ ÐAU KHỔ (sukhassa dukkhassa ca vedaniiya.m): Những người đáng thọ lãnh cái gì khả ái và cái gì không khả ái. NHỮNG VỊ CHƯ THIÊN TỰ LÀM CHO CHÍNH HỌ ÐƯỢC VUI SƯỚNG (taa devataayo paricaarayanti): những người, mà do giới đức về tánh siêu việt của họ, thâu gặt được kết quả để được thọ lãnh là hạnh phúc, trở thành những vị Devataa trong cõi Devaloka và, có được hạnh phúc của chư thiên, làm thoả mãn các căn của họ. TRONG KHI NHỮNG KẺ NGU VÌ KHÔNG THẤY TÁNH HAI MẶT BỊ NẤU SÔI (pacanti baalaa dvayata.m apassino): Trong khi những kẻ ngu mà, vì không tin hai phương diện của nghiệp và quả của nghiệp, đeo đuổi theo những ác nghiệp và, do bởi những nghiệp ấy, họ bị nấu sôi, đối diện với đau khổ trong các địa ngục v.v... để thọ lãnh những kết quả phải được thọ lãnh là đau khổ.

Liên quan đến câu hỏi của đức vua, "Nhưng tại sao, khi tin vào quả của các nghiệp, Ngài lại chịu đau khổ như vậy. Rồi vị ấy nói lên câu kệ này:

30."Không có những nghiệp của tôi được làm bởi chính tôi; ngay cả cũng không có người nào, mà sau khi đã cho y phục, giường nằm, đồ ăn và thức uống, chịu hồi hướng cho tôi" - Vì lý do này mà tôi phải bị trần truồng và sống một cuộc sống phiền toái."

Chú giải:

30. Ở đây KHÔNG CÓ NHỮNG NGHIỆP CỦA TÔI ÐƯỢC LÀM BỞI CHÍNH TÔI (na m'atthi ka.mmaani saya.m kataani): Vì không có những việc phước của tôi, vì không có cái gì được biết đến,được làm trong quá khứ bởi chính tôi mà nhờ đó để bây giờ tôi có được y phục v.v... THẬM CHÍ CŨNG KHÔNG CÓ NGƯỜI NÀO MÀ, SAU KHI ÐÃ BỐ THÍ, CHỊU HỒI HƯỚNG ÐẾN CHO TÔI (datvaa pi me n'atthi so aadiseyya): Cũng không có người nào mà, sau khi đã cúng dường vật thí đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn, chịu hồi hướng phước ấy đến cho tôi khi nói rằng, 'Xin cho phước thí này thấu đến Peta đặc biệt ấy'. VÌ LÝ DO NÀY MÀ TÔI PHẢI CHỊU TRẦN TRUỒNG VÀ SỐNG MỘT CUỘC SỐNG PHIỀN TOÁI . (ten'amhi nagga karisaa ca vutti): Vì hai lý do này mà bây giờ tôi bị trần truồng, và sống một cuộc sống phiền toái và đau khổ.

Khi nghe qua điều này đức vua, khi muốn cho vị ấy có được y phục v.v... bèn nói lên câu kệ này:

31. Có thể nào để có một cách nào đó, hỡi Yakkha, mà nhờ đó Ngài có thể có được y phục không? hãy nói cho trẫm biết xem có phương tiện nào để chúng tôi lắng nghe một câu nói nào đó về những điều hiện mà có thể tin được."

Chú giải:

31. Ở đây MÀ NHỜ ÐÓ (yena): Nghĩa là có thể nào có được một cách nào để mà nhờ đó Ngài có thể có được y phục không? LIỆU CÓ: Yadatthi =yadi atthi (phối hợp cách).

Rồi vị Peta ấy nói lên những câu kệ này để cho đức vua biết cách:

32. "Ở đây có một vị Tỳ kheo tên là Kappitaka, là một vị thiền sư, có giới hạnh tốt, một vị A-la-hán, đã giải thoát và đã khéo hộ phòng các căn, là phước điền, có thu thúc trong những điều luật của Paatimokkha, là người đã trở nên mát lạnh và đã đạt đến tri kiến rốt ráo rồi;

33. Nói hiền hòa, nhã nhặn, khéo thuyết, có gương mặt hiền từ, rành mạch và là người nói rất từ ái, là phước điền, là người sống trong sự thanh bình và là người sống đáng thọ lãnh sự cúng dường của chư thiên và nhơn loại.

34. An tịnh, thiểu dục, không bị phiền não, không tham muốn, đã giải thoát, không buồn rầu, không vị kỷ, chánh trực, không còn cội rễ, là người mà đã đoạn trừ tất cả các chướng ngại, là người đã chứng đắc ba loại trí tuệ, chiếu sáng;

35. Không được biết đến và không dễ nhận ra được ngay khi đã trông thấy, giữa những người bạn bè người ta gọi vị ấy là "Bậc hiền trí"; Các vị Yakkha biết vị ấy là đã thoát khỏi ái dục, rảo đi trong thế gian với bản tánh thiện.

36. Nếu bệ hạ cho vị ấy một đôi hay hai cái, khi hồi hướng phước thí này cho tôi, và những vật thí này được thọ lãnh, thời bệ hạ sẽ trông thấy tôi được mặc những y phục".

Chú giải:

32. Ở đây CÓ TÊN LÀ KAPPITAKA (kappitako naama): Vị ấy nói về thầy Hoà thượng của Trưởng lão đáng kính Upaali, người mà có một thời là vị lãnh đạo của một ngàn vị Ðạo sĩ tóc búi. Ở ÐÂY (idha): ở gần thành Vesaali này. MỘT VỊ THIỀN SƯ (jhàyii): Một vị thiền sư do bởi thiện kết hợp với quả cao tột. LÀ NGƯỜI ÐÃ TRỞ NÊN MÁT LẠNH (siitibhuuto): người đã đạt đến trạng thái mát lạnh do đã dập tắt sầu khổ nóng cháy của tất cả các loại ô nhiễm. ÐÃ ÐẠT ÐẾN TRI KIẾN TỘT BẬC (uttamadi.t.thi patto): đã đạt đến quả tột bậc, là Chánh Tri kiến.

33. NÓI LỜI TỪ HOÀ (Sakhilo): nhỏ nhẹ. KHÉO THUYẾT (suvaco): Hiền lành, RÀNH MẠCH (savaagamo): người mà chánh pháp đã được truyền lại một cách đúng pháp đến cho vị ấy. NGƯỜI ĂN NÓI RẤT TỪ ÁI (suppa.timuttako ca): Người mà có giọng nói rất từ ái, nghĩa là người nói một cách từ tốn. NGƯỜI SỐNG TRONG SỰ THANH BÌNH (ara.mavihaarii): người sống bằng tâm từ.

34. AN TỊNH (santo): đã vắng lặng các phiền não. không bị phiền não (aniigho): đã hết đau khổ. Không có khói (vidhuumo): không còn xông lên những làn khói tà tư duy. GIẢI THOÁT (mutto): không có tất cả các hữu trong tương lai. Không có mũi tên (visallo): KHÔNG CÓ MŨI TÊN của tham ái v.v... KHÔNG VỊ KỶ (amamo): Không có cố chấp về cái ta. CHÁNH TRỰC (ava"nko): đã loại trừ những lối sống lòn cúi như những nghiệp cong queo về thân v.v... KHÔNG CÓ NỀN MÓNG (nirupadhi): người mà đã từ bỏ nền móng như các ô nhiễm và những nghiệp tích lũy v.v... NGƯỜI MÀ ÐÃ ÐOẠN TRỪ TẤT CẢ NHỮNG CHƯỚNG NGẠI (sabbapapa~ncakhii.no): Người mà đã hết những chướng ngại như ái dục v.v... CHIẾU SÁNG (jutimaa): Chiếu sáng bằng ánh sáng vô song của trí tuệ.

35. Không được biết đến (appa~n~naato): Không biết rõ được do bởi tánh thiểu dục của vị ấy và những giới đức tiềm ấn của Ngài. KHÔNG DỄ DÀNG NHẬN RA ÐƯỢC (Sujaano): Do bởi bản tánh sâu sắc của Ngài, người ta không dễ gì biết chắc rằng Ngài có giới đức như vậy, có bản tánh và trí tuệ như vậy, ngay cả khi được trông thấy bằng mắt. NHỮNG VỊ DẠ XOA BIẾT NGÀI LÀ ÐÃ THOÁT KHỎI ÁI DỤC (jaananti ta.m Yakkha bhuutaa aneja.m): Và những vị Dạ xoa biết Ngài là không còn ái dục, và biết ngài là một vị A-la-hán. CÓ BẢN TÁNH THIỆN (Kalyaanadhammaa): có những đức tánh tốt về giới v.v...

36. ÐẾN VỊ ẤY (tassa): Ðến vị Trưởng lão cao hạ Kappitaka ấy. MỘT CẶP (eka.myuga.m): Một cặp y phục. hoặc hai cái (duve vaa) hoặc hai cặp y phục. HỒI HƯỚNG CÁI NÀY ÐẾN CHO TÔI: Ma.m uddisitvaana = mama.m uddisitvaa (thể văn phạm hoán chuyển). VÀ NHỮNG CÁI NÀY NẾU ÐƯỢC THỌ LÃNH (Patiggahitaani ca taani c' assu): Nếu những cặp y này sẽ được thọ lãnh bởi vị ấy. ÐƯỢC TRANG BỊ BẰNG NHỮNG Y PHỤC (sannaddhadussa.m): Việc mặc những y phục của tôi được làm xong, nghĩa là mặc vào hoặc khoác vào những y phục, bằng những y phục mà vị ấy đã thọ lãnh.

Rồi đức vua dò hỏi về chỗ ngụ của Trưởng lão:

37. "Vị Sa-môn ấy trú ngụ ở chỗ nào để bây giờ chúng tôi có thể đến thăm vị ấy, là người mà ngày hôm nay có thể đoạn trừ giùm cho ta những hoài nghi về điều không đoan chắc, là sự luồn lách của tà kiến này?"

Chú giải:

37. Ở đây TẠI CHỖ NÀO (Kasmi.m padese): ở chỗ nào.

Vị Peta nói rằng: "Vị ấy đang ngôì ở Kapinaccanaa, được vây quanh bởi nhiều vị Devataa; Người xứng danh ấy đang thuyết pháp, chuyên tâm vào những lời dạy của Bậc Ðạo sư".

38. Ở đây TẠI KAPINACCANAA (Kapinaccanaaya.m): Tại chỗ mà thường được biết qua cái tên Kapinaccanaa vì là tên của những con khỉ (kapiina.m), của những kẻ ở rừng, đang nhảy múa (naccanena). NGƯỜI CÓ TÊN CHƠN CHÁNH, (saccanaamo) có tên đúng với những đức tánh tên của mình là một thiền sư, có giới hạnh tốt, một vị A-la-hán, giải thoát v.v...

Khi vị Peta ấy đã nói điều này, thì đức vua bèn nói lên câu kệ này khi muốn đi thăm vị Trưởng lão ấy ngay:

39. "Bây giờ trẫm sẽ đi và làm điều mà ngài đề nghị, trẫm sẽ khoác vào vị Sa-môn ấy một cặp y và nếu những thứ này được thọ lãnh rồi thời chúng ta sẽ trông thấy ngài có mang những y phục trên thân".

Chú giải:

39. TRẪM SẼ ÐI BÂY GIỜ: Kassaami = Karissaami (thể văn phạm hoán chuyển);

Rồi vị Peta ấy nói lên câu kệ này để cho thấy rằng, bởi vì Trưởng lão đang thuyết pháp đến những vị chư thiên, do đó chưa phải lúc để đi đến với Ngài:

40. Ðừng đi đến người đã xuất gia khi chưa đúng lúc - Hỡi đấng Licchavi, đây không phải tục lệ dành cho bệ hạ. Hãy đi đến vị ấy sau, vào thời gian thích hợp, và thăm vị ấy ngay tại đó khi Ngài đang ngồi một mình."

Chú giải:

40. Ở đây LÀNH THAY (saadhu): Là một tiểu từ về sự khẩn khoản. HỠI ÐẤNG LICCHAVI, ÐÓ KHÔNG PHẢI LÀ TỤC LỆ DÀNH CHO NGÀI (vo Licchavi n'esa dhammo): Hỡi vua Licchavi, đây không phải là tục lệ dành các vị vua như ngài, khi đi đến vào thời gian không thích hợp. NGAY TẠI ÐÓ (tatth'eva): Ngay tại chỗ ấy.

Khi vị Peta đã nói điều này thì đức vua đồng ý nói rằng, "Lành thay", và trở về chỗ ngụ của vị ấy. Khi thời gian thích hợp lại đến, đức vua đi đến Trưởng lão, sai mang theo tám bộ y phục. Khi đã ngồi xuống ở một bên, vị ấy nói lời chào hỏi thân mật với Trưởng lão và nói rằng, "Bạch Ngài, xin hãy nhận lãnh tám bộ y phục này". Khi nghe qua điều này thì Trưởng lão, để bắt đầu cuộc nói chuyện với đức vua, bèn hỏi rằng, "Tâu Ðại Vương, trước kia Ðại vương không có đức tánh bố thí và đàn áp các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Làm sao mà bây giờ bệ hạ lại muốn cho những y phục thù thắng này? Khi nghe qua điều này, đức vua bèn kể cho Trưởng lão nghe qua lý do, thuật lại cho Trưởng lão nghe về cuộc gặp mặt của mình với vị Peta và tất cả những điều mà mỗi người trong họ đã nói, và rồi dâng đến Trưởng lão những y phục và hồi hướng phước thí kia đến cho Peta ấy. Do bởi điều này khiến Peta hiện ra trước mặt Trưởng lão và đức vua, đang mặc y phục và có trang sức, mang những y phục của chư thiên và cỡi trên con ngựa. Khi trông thấy vị ấy, đức vua rất hoan hỉ, vui sướng và đầy hỉ lạc và nói rằng, "Ta chắc chắn đã trông thấy bằng chính mắt của ta quả của các nghiệp. Bây giờ ta sẽ không làm những ác nghiệp, ta sẽ làm những việc phước mà thôi." Và nhờ vị Peta ấy làm chứng cho lời nói của mình. Vị Peta nói rằng, "Hỡi vua Licchavi, nếu bệ hạ từ nay trở đi từ bỏ những lối sống bất chánh và sống đúng với pháp thời chỉ tôi sẽ là kẻ chứng nhận cho ngài và đi đến trước mặt của bệ hạ. Hãy thả nhanh người bị đâm xuyên ra khỏi chiếc cọc. Sau khi đã lấy lại mạng sống của vị ấy như vậy và ăn ở theo đúng với Pháp vị ấy còn có thể thoát khỏi đau khổ đang chờ vị ấy. Thỉnh thoảng hãy đi đến Trưởng lão và lắng nghe pháp, hãy làm những việc phước", và rồi vị Peta ấy sau đó ra đi.

Ðức vua đảnh lễ Trưởng lão và ra đi trở lại kinh đô. Vị ấy gấp rút triệu tập tất cả những người Licchavi lại, và với sự đồng ý của họ, giải thoát người đàn ông ra khỏi chiếc cọc và truyền lịnh cho những y sĩ của mình làm cho người ấy khoẻ mạnh trở lại. Vị ấy đi đến Trưởng lão và hỏi rằng, "đối với một người mà đã làm một nghiệp sẽ dẫn người ấy đến địa ngục, bạch ngài, có thể nào vẫn có con đường để người ấy thoát khỏi địa ngục không?" "Có thể được, tâu Ðại vương. Nếu người ấy làm những việc phước cao cả, thời người ấy có thể thoát khỏi được." Trưởng lão đáp lại và rồi an trú cho đức vua vào trong Tam qui và Ngũ giới. Khi được an trú ở trong đó và trú vững chắc trong lời khuyến giáo của Trưởng lão, vị ấy trở thành một vị Sotaapanna (Tu-đà-huờn) . Tuy nhiên, người bị đâm xuyên thì trở nên khoẻ mạnh trở lại, đầy xúc động, bèn xuất gia theo các vị Tỳ kheo, và chẳng bao lâu sau chứng đắc đạo quả A-la-hán. Những vị kiết tập Tam Tạng đọc lên những câu kệ này để chứng minh sự kiện này:

41. "Khi nói rằng, "Hãy làm như vậy", vị ấy rời khỏi chỗ ấy, và được vây quanh bởi một nhóm gồm những nô lệ, vị Licchavi ấy đi đến thành phố và đi đến giường nằm trong chỗ ngụ của chính vị ấy.

42. Rồi vào buổi sáng, khi đức vua đã chăm lo những phận sự trong nhà của mình, vị ấy tắm và uống nước; Khi thời gian thích hợp đến, đức vua chọn tám bộ y phục từ một cái rương và vị Licchavi ấy sai nhóm nô lệ đem chúng đi theo.

43. vị ấy đi đến chỗ ấy và trông thấy vị Sa-môn mà đã trở nên mát lạnh ngồi với tâm an tịnh dưới một cội cây, đã trở về sau khi đã đi khất thực.

44. Ðức vua đi đến Trưởng lão và nói điều này với Trưởng lão khi hỏi thăm sức khoẻ và sự an vui của Trưởng lão, "Tôi là một vị Licchavi ở Vesaali, thưa ngài, người ta biết tôi là vị Licchavi Ambasakkhara .

45. Bạch Ngài, xin Ngài hãy hoan hỉ nhận lãnh tám bộ y xinh đẹp này của trẫm; trẫm xin dâng chúng đến Ngài - Chính riêng mục đích này khiến trẫm đã đến đây và trẫm sẽ được vui sướng nếu Ngài hoan hỉ thọ lãnh."

46. "Các vị Sa-môn và Bà-la-môn tránh xa chỗ ngụ của bệ hạ; Trong chỗ ngụ của bệ hạ, những cái bát của họ thường bị đập vỡ và ngay cả y phục của họ cũng bị xé rách.

47. Hơn nữa, các vị Sa-môn bị lột trần và bị làm cho té nhào - đó là sự quấy rầy do bệ hạ gây nên đến các vị Sa-môn và những người xuất gia.

48. Bệ hạ chẳng cho gì dầu một cọng cỏ cũng không, bệ hạ cũng không chỉ đường cho những người bị lạc, chính bệ hạ cũng thường giựt lấy cây gậy từ tay một người mù, bệ hạ quả thật rất keo kiệt và không thu thúc. Bây giờ vì lý do gì, chính điều gì bệ hạ đã trông thấy khiến bây giờ bệ hạ chia những cái này cho chúng tôi.

49. "Trẫm thừa nhận điều mà Ngài nói, bạch Ngài; Trẫm đã quấy rầy các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Tuy nhiên, ngay cả ác nghiệp này của trẫm được làm chỉ có tánh cách vui đùa và không có sự ô nhiễm trong tâm.

50. Một vị Yakkha, sau khi đã làm những ác nghiệp trong cuộc chơi, thọ lãnh đau khổ, sự thọ hưởng của vị ấy không được hoàn toàn. Vị ấy có tánh chất trẻ trung, nhưng trạng thái trần truồng là số phận của vị ấy - bây giờ đối với vị Yakkha ấy có sự đau khổ nào hơn thế nữa!

51. Khi trẫm trông thấy vị ấy thì trẫm đầy xúc động, bạch Ngài, - đó là lý do khiến trẫm dâng cúng vật thí này. Xin hãy nhận lãnh tám bộ y này, bạch Ngài, và xin cho phước thí này thấu đến vị dạ xoa ấy.

52. "Chắc chắn sự bố thí sẽ được người ta tán dương bằng nhiều cách; Bây giờ cầu xin cho điều này hằng không bị cạn hết đối với bệ hạ, là người đã bố thí nó. Tôi nhận lãnh tám bộ y này của bệ hạ - mong rằng phước thí này thấu đến vị Yakkha ấy."

53. Rồi vị Licchavi làm lễ sám hối và dâng đến Trưởng lão tám bộ y khi nói rằng, "Xin hãy thọ lãnh những thứ này". Nhân đó Trưởng lão nói rằng, "Bây giờ hãy xem vị Yakkha, đã được khoác lên người những y phục"

54. Vị ấy trông thấy Yakkha, có xức bằng dầu gỗ trầm thượng hạng, cưỡi trên một con ngựa thuần chủng, với nước da tuyệt hảo, trang sức lộng lẫy, mặc những y phục đáng kính nể, có tuy tùng vây quanh, có năng lực thần thông vĩ đại của một dạ xoa.

55. Khi đức vua trông thấy vị ấy thì rất vui sướng, phấn chấn, tâm của vị ấy rộn lên niềm hoan hỉ, khuôn mặt rạng rỡ; vị ấy trông thấy nghiệp của mình và kết quả vĩ đại và thực có của nó bằng chính mắt của vị ấy, đã trông thấy điều này bằng chính mắt của vị ấy.

56. Vị ấy đi đến dạ xoa và nói điều này với dạ xoa, "Trẫm sẽ cho ra những vật thí đến các vị Sa-môn và Bà-la-môn vì không có cái gì của trẫm mà trẫm không cho ra. Ngài đã đem đến cho trẫm một sự giúp đỡ lớn, thưa Yakkha ."

57. "Và bệ hạ đã cho những vật thí cục bộ dành cho tôi, hỡi đấng Licchavi, điều này không phải vô ích; Tôi sẽ làm nhân chứng của bệ hạ, một vị phi nhân làm chứng cho một con người."

58. "Ngài là định mạng, là quyến thuộc, là chỗ nương tựa và là bạn của trẫm, và hơn nữa là vị Devataa của trẫm. Thưa Yakkha, vì trẫm mong được thấy lại ngài, vậy trẫm xin chấp tay cung kính cầu xin Ngài."

59. "Nếu bệ hạ trở thành người không có đức tin, tỏ ra bỏn sẻn và có tâm tội lỗi thời bệ hạ sẽ không được trông thấy tôi chút nào cả, trong khi đó cho dù tôi có trông thấy bệ hạ, tôi cũng sẽ không nói với bệ hạ.

60. Nhưng nếu bệ hạ phát triển lòng tôn kính đối với pháp bảo, thoả thích trong việc bố thí, có bản tánh thương người và trở thành một con suối phun nước cho các vị Sa-môn và Bà-la-môn, thời bằng cách này bệ hạ sẽ được trông thấy tôi; và khi tôi trông thấy bệ hạ, tôi sẽ nói chuyện với bệ hạ, tâu bệ hạ.

61. Bây giờ hãy nhanh chân phóng thích người đàn ông này ra khỏi chiếc cọc, vì nhờ người ấy mà tôi trở thành nhân chứng của bệ hạ; Tôi thiết nghĩ, chính do bởi người bị đâm xuyên mà chúng ta trở thành nhân chứng của nhau.

62. Và nếu người đàn ông này được phóng thích nhanh ra khỏi chiếc cọc, thời người ấy vẫn còn có thể chuyên tâm trong các thiện pháp một cách chính đáng, thoát khỏi địa ngục và thoát khỏi nghiệp ấy, trở thành người được thọ hưởng ở một chỗ khác.

63. Khi đã đi đến vị Kappitaka trong thời gian thích hợp và chia phần với vị ấy cái gì mà bệ hạ có, hãy ngồi xuống gần và hỏi thẳng vị ấy, và vị ấy sẽ công bố về đề tài này.

64. Chỉ đi đến vị Tỳ kheo ấy và hỏi vị Tỳ kheo ấy. Vì bệ hạ mong mỏi được biết và khi tâm của bệ hạ không bị ô nhiễm, vị ấy sẽ công bố tất cả về giáo pháp đúng như đã được phân tích, dầu bệ hạ đã nghe hay chưa nghe."

65. Khi đức vua đã nói chuyện riêng ở đó với vị Phi nhân ấy và đã khiến vị ấy làm nhân chứng cho mình, đức vua ra đi và trước mặt các vị Licchavi, vị ấy nói với hội chúng mà đang ngồi với nhau rằng."

66. "Hãy lắng nghe, thưa quí vị, chỉ một lời của trẫm mà thôi - trẫm xin quí vị một ân huệ mà nhờ đó trẫm sẽ được lợi ích. Người đàn ông ấy có những hành động ác, đã bị đâm xuyên, đã thọ lãnh hành phạt rồi, đã có hình tướng của người gánh chịu sự thọ hình của vua ban.

67. Ðã hai mươi ngày gánh chịu hậu quả khiến người bị đâm xuyên ấy bây giờ chẳng hoàn toàn sống cũng chẳng hoàn toàn chết. Bây giờ trẫm muốn thả người ấy ra - xin chúng dân hãy cho phép trẫm hành động như trẫm nghĩ là thích hợp. "

68. "Hãy nhanh chóng phóng thích người này và những người khác - ai dám nói lời chống lại bệ hạ khi hành động theo cách ấy? Bệ hạ nên làm điều gì người nghĩ là cần thiết - chúng dân cho phép bệ hạ hành động như bệ hạ thấy là thích hợp.

69. Vị ấy vội vàng đi đến chỗ ấy và phóng thích cho người bị đâm xuyên; 'Ðừng sợ, này bạn' Ðức vua nói với tội nhân và sai những vị y sĩ săn sóc cho vị ấy.

70. Rồi đức vua đi đến Kappitaka trong thời gian thích hợp và chia phần cho Trưởng lão cái mà vị ấy có; Khi ngồi xuống ở gần kề, vị Licchavi bèn hỏi vị Trưởng lão ngay tại chỗ ấy, mặt đối mặt, mong mỏi một phương cách nào đó.

71. "Người đàn ông có những ác nghiệp ấy bị đâm xuyên rồi và đã bị trừng phạt rồi và xem ra đã gánh chịu điều này đến hai mươi ngày. Kết quả là người đàn ông bị đâm xuyên ấy phải sống dở chết dở.

72. Nhưng, bạch Ngài, bây giờ con đã đi và phóng thích cho người ấy rồi, vì đây là lời của vị Yakkha ấy. Có thể có cách nào mà nhờ đó vị ấy không đi địa ngục chăng?

73. Bạch Ngài, hãy nói cho con biết xem có điều kiện nào không, vì chúng con muốn lắng nghe một câu nói về những điều kiện mà có thể tin được. Phải chăng không thể có sự tiêu diệt những ác nghiệp ấy, không thể có sự chấm dứt những ác nghiệp ấy ở đây mà không phải bị thọ lãnh chăng?"

74. "Nếu người ấy chuyên tâm đúng mức trong các thiện pháp với sự siêng năng cả ngày lẫn đêm, người ấy vẫn có thể thoát khỏi địa ngục và nghiệp ấy sẽ trở thành nghiệp mà sẽ được thọ lãnh ở một nơi khác."

75. "Những sự kiện về người đàn ông này đã được biết đến. Bạch Ngài, bây giờ xin hãy rủ lòng lân mẫn đến con. Hãy khuyên con, hãy sách tấn con, hỡi bậc trí tuệ cao cả, bằng cách nào đó để con có thể không đi vào địa ngục."

76. "Bệ hạ nên qui y Phật trong chính ngày hôm nay, qui y Pháp và Tăng với lòng tịnh tín trong tâm của bệ hạ, dường thế ấy, bệ hạ nên thọ trì ngũ giới, không bị sứt mẻ và trọn vẹn.

77. Và bệ hạ nên tránh xa ngay việc sát sanh và tránh xa cái gì không được cho đến trong đời này; bệ hạ không nên làm người uống những chất say và bệ hạ cũng không nên nói dối, trong khi đó bệ hạ nên vừa lòng với chính vợ của bệ hạ.

78. Và bệ hạ nên thọ trì những thiện nghiệp này dẫn đến hạnh phúc mà thuộc về của bậc Thánh và những thiện nghiệp ấy được làm cho viên mãn bởi tám điều học.

79. Với lòng tịnh tín, bệ hạ nên bố thí đến những bậc chánh trực những y phục và vật thực; những vật dụng và chỗ ngụ, đồ ăn và thức uống, vật thực cứng, vải vóc và chỗ ngụ.

80. Bệ hạ nên làm thoả mãn bằng đồ ăn và thức uống cho các vị Sa-môn có giới đức, không tham ái và đa văn - phước sẽ tiếp tục sanh lên.

81. Khi chuyên tâm đúng mức như vậy trong các thiện pháp, với sự tinh tấn cả ngày lẫn đêm, bệ hạ vẫn có thể thoát khỏi địa ngục và nghiệp ấy trở thành nghiệp sẽ được thọ lãnh ở một nơi khác."

82. "Chính ngày hôm nay con sẽ qui y Phật, Pháp, Tăng, với lòng tịnh tín trong tâm của con; dường thế ấy con cũng sẽ thọ trì ngũ giới, không sứt mẻ và trọn vẹn.

83. Con sẽ tránh xa ngay sự sát sanh và tránh không lấy cái gì không được cho đến ở trong đời này; Con sẽ không làm người uống những chất say, con cũng sẽ không nói dối, trong khi đó con sẽ vừa lòng với chính vợ của con.

84. Con sẽ thọ trì những thiện pháp dẫn đến hạnh phúc, được thành tựu bởi tám thánh Pháp.

85. Những y phục và vật thực cúng dường, những vật dụng và chỗ ngụ, đồ ăn và thức uống, vật thực cứng, vải vóc và chỗ ngụ con sẽ cho ra, không ngập ngừng và nhiệt tâm với giáo pháp của chư Phật, đến các vị Tỳ kheo có giới đức, đã thoát khỏi tham ái và đa văn học rộng."

86. Con người như vậy là Licchavi Ambasakkhara - một vị thiện nam ở thành Vesaali có đức tin, là người hiền lành và hữu dụng, và là người mà bây giờ nuôi dưỡng Chư Tăng bằng sự chăm sóc chu đáo.

87. Và người bị đâm xuyên thì trở nên khoẻ mạnh trở lại và vui sướng tự ý đi vào trạng thái không nhà; Do nhờ Kappitaka, là vị Tỳ kheo cao quí nhất, cả hai người kia đều đã chứng đạt các quả do kết quả từ đời sống phạm hạnh của một vị ẩn sĩ.

88. Kết hợp với những bậc Ứng cúng sáng suốt và thánh thiện đem lại quả báu lớn đến nỗi người bị đâm xuyên đạt đến quả báu cao nhất, trong khi Ambasakkhara thì đạt đến quả thánh thấp hơn."

Chú giải:

41. Ở đây ÐI ÐẾN GIƯỜNG vas' upaga~ncittha = vaasam upaga~nchi: phối hợp cách trong thể văn phạm hoán chuyển).

42. NHỮNG PHẬN SỰ TRONG NHÀ CỦA VỊ ẤY (gihikiccaani): Những phận sự liên quan đến tài sản trong gia dình và những của cải mà phải được trông coi bởi người đang ngụ ở trong nhà. VỊ ẤY CHỌN RA (viceyya): Vị ấy chọn lựa để lấy ra những y phục tốt nhất.

43. TRỞ VỀ (patikkanta.m): Trở về sau khi đi khất thực. Vì lý do này mà vị ấy nói rằng, 'Trở về sau khi vị ấy đã đi khất thực.'

44. NÓI (avoca) nói rằng, 'Bạch Ngài, tôi là một vị Licchavi từ Vesaali đến', v.v...

46. XÉ RÁCH: Vipaatayanti = Viphaalayanti (thể văn phạm hoán chuyển).

47. LÀM CHO TÉ NGÃ (Paatayanti): Khiến cho ngã xuống.

48. BẰNG MỘT CỌNG CỎ (ti.nena): Ngay cả bằng đầu mút của cọng cỏ cũng không. BỆ HẠ CŨNG KHÔNG CHỈ ÐƯỜNG CHO NHỮNG NGƯỜI ÐI LẠC (muu.lhassa magga.m pi na paavadaasi): Bệ hạ cũng không chỉ đường cho những người mà đã bị lạc nhưng lại nghĩ rằng, 'cứ để cho người ấy đi lang thang chỗ này chỗ kia.', Vị vua này quả thật không thể nhờ cậy được. CHÍNH NGÀI THƯỜNG CHỘP LẤY (saya.m aadiyaasi): Chính bệ hạ thường giật lấy chiếc gậy chính từ tay những người mù. BÂY GIỜ BỆ HẠ CHIA PHẦN (sa.mvibhaaga.m karosi): Bây giờ bệ hạ lại chia phần, cho ra một số trong những thứ được dành riêng cho bệ hạ dùng xài.

49. BẠCH NGÀI, TRẪM THỪA NHẬN VỚI LỜI MÀ NGÀI NÓI (pacceni bhante ya.m tva.m vadesi): Trẫm đồng ý với điều mà Ngài nói như là 'trong chỗ ngụ của bệ hạ những cái bát của họ bị đập vỡ.' v.v... Vị ấy chỉ ra rằng tất cả những điều ấy được làm hay khiến cho được làm bởi vị ấy. TUY VẬY NGAY CẢ ÐIỀU NÀY (eta.m pi): tuy vậy ngay cả điều này được làm, ám chỉ rằng để vui chơi mà thôi.

50. TRONG CUỘC CHƠI: Khi.d.daa = Khi.d.daaya (thể văn phạm hoán chuyển). SAU KHI ÐÃ ÐEO ÐUỔI (pasavitvaa): Sau khi đã tích lũy. THỌ LÃNH (vedeti): lãnh chịu. SỰ THỌ HƯỞNG CỦA VỊ ẤY KHÔNG HOÀN TOÀN (asamattabhogii): Sự thọ hưởng của vị ấy không có sự thành tựu viên mãn; để cho thấy sự bất toàn trong sự thọ hưởng của vị ấy, 'Vị ấy có trạng thái trẻ trung' v.v... Ðược nói đến. TÁNH CHẤT TRẦN TRUỒNG CỦA CHÍNH VỊ ẤY (nagganiyassa): Trạng thái trần truồng của vị ấy. bây giờ có điều gì đau khổ dành cho vị ấy nhiều hơn thế? (kim su tato dukkhatar' assa hoti): Bây giờ quả thật vậy, điều gì có thể làm cho vị Peta ấy đau khổ nhiều hơn trạng thái trần truồng ấy.

51. CẦU XIN CHO PHƯỚC THÍ NÀY THẤU ÐẾN VỊ Yakkha ấy (Yakkhass'i.m'aagacchantu dakkhi.naayo): Cầu xin cho phước thí về những y phục này đây mà tôi đang bố thí đem lại lợi ích cho Peta ấy.

52. ÐƯỢC TÁN DƯƠNG BẰNG NHIỀU CÁCH (bahudhaa pasa.t.tha.m): được khen ngợi bằng nhiều cách bởi chư Phật v.v... CẦU XIN CHO ÐIỀU NÀY CÓ TÁNH CHẤT KHÔNG CẠN KIỆT (akkhaya dhamma.m atthu): Xin cho điều này có bản tánh không bị hoại diệt.

53. LÀM LỄ SÁM HỐI (aacamayitvaa): Súc miệng, sau khi đã rửa tay chân trước rồi.

54. XỨC DẦU BẰNG GỖ TRẦM HẢO HẠNG (candanasaaralitta.m): Xức bằng chất của gỗ trầm. CÓ NƯỚC DA TUYỆT ÐẸP (U.laarava.n.na.m): Có sắc tướng thù thắng. ÐƯỢC VÂY QUANH (parivaarita.m): Ðược vây quanh bởi những tuỳ tùng có tác phong khả ái. ÐÃ ÐẠT ÐẾN THẦN THÔNG LỰC QUẢNG ÐẠI CỦA MỘT VỊ YAKKHA (Yakkhamahiddhipatta.m): đang đứng sau khi đã đạt được thần thông lực quảng đại của một vị Yakkha, là thần thông lực quảng đại của một vị Deva.

56. Nói điều này với vị ấy: tamenamavoca = ta.m ema.m avoca (phối hợp cách.)

57. BỆ HẠ ÐÃ CHO NHỮNG VẬT THÍ CỤC BỘ (ekadesa.m adaasi): Vị ấy nói liên quan đến vật thí về y phục, là một trong bốn món vật dụng. NHÂN CHỨNG (sakkhi.m): Có tánh chất của một nhân chứng.

58. LÀ VỊ DEVATÀ CỦA TÔI (devataa me): Ngài là vị devataa của trẫm - đây là cách nên được hiểu.

59. CÓ TÂM LẦM LỖI (vippa.tipannacitto): có tâm xu hướng theo những tà kiến, nghĩa là đi theo con đường sái quấy sau khi từ bỏ con đường chân chánh.

61. CHIA CHO (sa.mvibhajitvaa): Chia phần làm vật thí. NGỒI GẦN KỀ VÀ HỎI VỊ ẤY MẶT GIÁP MẶT (saya.m mukhena upanisajja puccha): Không cử những người khác đi giùm, ngồi ở gần và chỉ hỏi vị ấy ở trước mặt.

65. NGỒI VỚI NHAU (sannisiuna.m): Ngồi sau khi đi đến với nhau.

66. TÔI SẼ LÃNH ÐƯỢC LỢI ÍCH (Labhissaami attha.m): Tôi sẽ lãnh được lợi ích mà tôi muốn. ÐÃ SAI ÁP DỤNG HÌNH PHẠT RỒI (pai"nhitada.n.do): Ðã sai đem đến hình phạt về thân. ÐÃ CÓ HÌNH THỨC CỦA NGƯỜI MÀ ÐÃ GÁNH CHỊU (anupattaruupo): đã ở trong trạng thái của người mà đã gánh chịu án truyền của đức vua.

67. CÓ ÐẾN HAI MƯƠI NGÀY (Viisatirattimattaa): nghĩa là đã có đến hai mươi ngày trôi qua rồi. TÔI... VỊ ẤY: taaha.m = ta.m aha.m (phối hợp cách). NHƯ TRẪM NGH~N LÀ THÍCH HỢP (Yathaa mati.m): Ðúng như nó làm cho trẫm hoan hỉ.

68. NGƯỜI NÀY VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÁC (eta~n ca a~n~na.m ca): Người đàn ông bị đâm xuyên này và những người khác mà đối với họ hình phạt của đức vua đã được áp dụng. HÃY TRẢ TỰ DO NHANH (lahu"m pamu~nca): Hãy phóng thích ngay thức thì. AI SẼ NÓI LỜI CHỐNG LẠI BỆ HẠ? (ko ta.m vadetha): Ai trong vương quốc Bạt kỳ này có thể nói rằng, 'đừng trả tự do cho hắn,' đối với người đang hành động theo đúng cách như thế, nghĩa là không ai được phép nói như thế này.

69. VÀ ÐÃ SAI NHỮNG Y S~N CỦA VỊ ẤY: tikicchakaana~n ca = tikicchake ca (thể văn phạm hoán chuyển).

72. ÐÂY LÀ LỜI CỦA VỊ YAKKHA ẤY (yakkhassa vaco): Ðây là điều mà vị Peta ấy đã phải nói ra. Ðức vua chỉ cho thấy rằng 'Tôi hành động như vậy, theo đúng với điều mà vị Peta ấy đã phải nói ra, thưa Ngài.'

74. NHỮNG THIỆN PHÁP (dhammaani): Những pháp tạo phước có thể thắng phục những ác nghiệp đã được làm trước kia. NGHIỆP ẤY TRỞ THÀNH NGHIỆP SẼ CHO QUẢ Ở MỘT NƠI KHÁC (Kamma.m siyaa a~n~natra vedaniiya.m): Ác nghiệp mà sẽ được thọ lãnh bằng một cách khác nào đó trở thành nghiệp mà quả của nó sẽ được thọ lãnh ở một nơi khác, bằng một cách khác nào đó, nghĩa là chỉ khi nào Sa.msaara tiếp tục trôi lăn đối với người ấy.

78. VÀ... NHỮNG ÐIỀU NÀY (ima~n ca): Ðiều này được nói đến liên quan đến điều ở gần hay ở trong tầm thấy do vì nó được nói bởi chính vị ấy. MÀ THUỘC VỀ TRÍ TUỆ CỦA BẬC THÁNH VÀ ÐƯỢC THÀNH TỰU BỞI TÁM PHÁP (ariya.m a.t.ttha"ngavaren'upeta.m): Những điều học của Uposatha cao tột mà đã được thành tựu, được chuyên tâm vào, do bởi Bát Giới gồm có sự tránh xa sát sanh v.v... Và thuộc về Bậc Thánh trong ý nghĩa rằng chúng thanh tịnh. NHỮNG THIỆN NGHIỆP (Kusala.m): Những nghiệp vô tội. DẪN ÐẾN HẠNH PHÚC (sukhundriya.m): Cho kết quả hạnh phúc.

80. PHƯỚC TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG (sadaa pu~n~na.m pava.d.dhati): Khi người đã làm một việc phước chỉ trong một lần, người ấy sẽ không được thoả mãn hoàn toàn khi nghĩ rằng, 'Nó đủ tới chừng mức ấy', và trong khi người đang thực hành viên mãn thiện hạnh lập đi lập lại thì phước của người đang gia tăng luôn khi. Nói cách khác, ý nghĩa là trong khi người đang thực hành viên mãn thiện hạnh nhiều lần lập đi lập lại, thì những quả phước của người, cái được gọi là phước, mọc lên, được thêm vào phước này nối tiếp phước khác.

Khi Trưởng lão nói như vậy rồi thì đức vua sanh tâm ghê sợ đau khổ trong nghững khổ cảnh và với lòng tịnh tín đang gia tăng trong Tam bảo và trong những việc phước, vị ấy nói rằng, 'chính ngày hôm nay trẫm sẽ qui y noi đức Phật v.v...' Từ đó trởi đi thọ trì Tam qui và ngũ giới.

86. Ở đây MỘT NGƯỜI NHƯ VẬY (etaadiso): Như loại người đã được nói ở trên. MỘT VỊ THIỆN NAM Ở TRONG THÀNH VESAALI (vesaaliya.m a~n~nataro upaasako): Vị ấy trở thành một thiện nam trong vô số ngàn người trong thành Vesaali . LÀ NGƯỜI CÓ ÐỨC TIN (saddho): v.v... Ðiều này được nói đến để chỉ sự khác biệt với bản tánh trước kia của vị ấy, trong đó vị ấy bây giờ đang ngồi chung với bạn lành v.v... Vì trước kia vị ấy không có niềm tin, thô lỗ và lăng mạ các vị Tỳ kheo và không hộ độ Chư Tăng; trong khi đó, bây giờ vị ấy có niềm tin và hiền lành, và bây giờ thì nuôi dưỡng chúng Tỷ kheo với sự chăm sóc chu đáo. Liên quan đến điều này, HỮU ÍCH (Kaarakaro): Người mà đem lại sự giúp đỡ.

87. CẢ HAI (Ubho pi): Hai người, người bị đâm xuyên và đức vua ÐÃ ÐẠT ÐẾN CÁC QUẢ LÀ HẬU QUẢ CỦA ÐỜI SỐNG CỦA MỘT ẨN SĨ (saama~n~naphalaani ajjhagu.m): Ðạt đến các quả là kết quả của đời sống của một vị Sa môn theo đúng với sự xứng đáng của chúng; để cho thấy điều này theo đúng với sự xứng đáng của họ là ÀNgười bị đâm xuyên đã đạt đến kết quả cao tột trong khi Ambasakkhara thì đạt đến quả thấp hơn, được nói đến.

88. Ở đây QUẢ THẤP HƠN (phala.m kani.t.tha.m): Vị ấy nói lên liên quan đến quả thánh Tu đà hườn.

Ðiều mà ở đây không được phân tích về ý nghĩa bởi vì quá rõ ràng rồi.

Ðại Ðức Mahaakappitaka đi đến Saavatthi, đảnh lễ Bậc Ðạo sư và nêu vấn đề với Ðức Thế Tôn về điều đã được nói như vậy giữa đức vua, vị Peta và chính Trưởng lão, Bậc Ðạo sư lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và thuyết Pháp cho hội chúng đã tụ họp ở đó. Thời Pháp ấy đem lại lợi ích cho hội chúng ấy.

-ooOoo-

IV.2 QUỶ SỰ SERISSAKA
(SERISSAKA PETAVATTHUVA.N.NANAA)

'Hãy lắng nghe ở chỗ mà cuộc gặp gỡ giữa vị Yakkha và các tiên nhân.' Ðây là Quỉ sự Serissaka.

Bởi vì không có sự khác biệt giữa câu chuyện này và thiên cung sự Serissaka, nên điều gì sẽ được nói đến ở đây về nguyên nhân cần thiết đã sanh lên và những câu kệ cũng giống như đã được nêu ra trong phần trình bày về những câu chuyện thiên cung trong phần giải thích này về ý nghĩa bên trong. Do vậy nó cũng nên được hiểu đúng như đã được nêu ra ở trong đó.

-ooOoo-

Ðầu trang | 1.1 | 1.2 | 1.3 | 1.4 | 2.1 | 2.2 | 2.3 | 2.4 | 2.5 | 3.1 | 3.2 | 3.3 | 4.1| 4.2 | 4.3 | 4.4 | Mục lục

Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản vi tính
(Bình Anson, tháng 08-2001)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 17-08-2001