[1.2]
I.5 HỘ
NGOẠI QUỈ SỰ
(TIROKU.D.DA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Chúng đứng ở bên
ngoài những vách nhà".
Bậc Ðạo sư trong khi đang
trú ngụ ở Raajagaha, đã kể lại câu chuyện này liên quan đến
một số lớn Ngạ quỉ. Ðây là câu chuyện ấy, được kể
đầy đủ chi tiết.
Cách đây chín mươi hai
Ðại kiếp có một Thành phố tên là Kaasipurii . Tại đó có
một vị vua tên là Jayasena, trị vì trong xứ ấy. Hoàng hậu
của vị ấy tên là Sirimaa và bà mang thai Bồ tát Phussa, là
người đã đến thời kỳ chứng đắc Nhất thiết Trí (của
một vị Phật). Ðức Vua jayasena ưa thích sở hữu, nghĩ
rằng, "con trai của ta chính là người đã thực hiện
sự từ bỏ vĩ Ðại và đã trở thành một vị Phật. Ðức
Phật là riêng của ta, Ðức Pháp là riêng của ta, đức Tăng
là riêng của ta". và chính vị ấy đã hầu hạ các Ngài
luôn khi, chẳng cho ai khác được một cơ hội nào. Ba anh em
của đức Thế Tôn, là những người em trai của một người
mẹ khác, suy nghĩ rằng, "Chư Phật quả thật sanh lên dành
cho toàn thể thế gian, không chỉ vì một ai cả; Tuy nhiên,
cha của chúng không cho một ai khác có được một cơ hội. Bây
giờ làm sao chúng ta có thể hầu hạ chư tăng cho được?"
Và rồi ý nghĩ này đến với họ, "nào chúng ta hãy bày
ra một số cách nào đó!" bởi vậy họ làm ra vẻ như có
một cuộc dấy loạn ở vùng biên giới. Khi Ðức vua nghe tin
về cuộc nổi loạn ở vùng biên giới này, vị ấy sai ba người
con trai này đi dẹp yên vùng biên giới. Họ đi và làm yên
ổn mọi chuyện. Và khi họ trở về, Ðức vua lấy làm hoan
hỷ và ban cho họ một đặc ân, nói rằng, "Hãy lấy
bất cứ cái gì mà các con muốn". "Chúng con muốn
hầu hạ đức Thế Tôn", họ nói. "Các con có thể
lấy bất cứ cái gì ngoài vị ấy". Ðức vua đáp lại.
"Chúng con không màng điều gì khác", Họ nói.
"Trong trường hợp ấy; hãy chọn một thời gian có giới
hạn và thỉnh Ngài". Họ xin được bảy năm, nhưng đức
Vua không đồng ý. Họ lại lần lượt xin sáu năm, bốn, hai,
một năm; Trong bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba tháng và cuối cùng
đức vua nói rằng, "Hãy thỉnh Ngài đi!" Họ đi đến
Ðức Thế Tôn và bạch rằng, "Bạch đức Thế Tôn, chúng
con muốn hầu hạ đức Thế Tôn trong ba tháng. Bạch đức
Thế Tôn, Cầu xin Ðức Thế Tôn nhận lời của chúng con
trong ba tháng của mùa mưa này!" Ðức Thế Tôn im lặng
nhận lời. Ba người ấy gởi một bức thư đến sứ giả
của họ ở trong châu quận ấy (Nơi mà đức Thế Tôn sẽ trú
ngụ), n?i dung nói rằng, "Ðức Thế Tôn sẽ được hầu
hạ bởi chúng ta trong ba tháng này. Trước nhất, hãy dựng lên
một Tịnh xá và rồi kiếm mọi thứ cần đến để hầu
hạ Ðức Thế Tôn". Ông ta nhắn tin về lại khi ông ta đã
kiếm mọi thứ. Họ mặc những y phục màu vàng và cùng với
năm trăm nam hầu, đưa Ðức Thế Tôn và chư Tăng đến vùng
ấy, hầu hạ các Ngài một cách cung kính, và dâng Tịnh xá
đến các Ngài và để các ngài an cư tại đó trong mùa mưa.
Vị quan thủ quỉ là con trai của một gia chủ, đã có vợ, có
đức tin và lòng tịnh tín. Bằng sự chăm lo chu đáo, vị
ấy cúng dường các thí vật để bố thí đến Chư Tăng có
Ðức Phật dẫn đầu. Vị sứ giả trong vùng ấy nhận
những thứ này và cùng với mười một ngàn người từ châu
quận ấy tổ chức sự bố thí cúng dường bằng sự quan tâm
chu đáo. Bấy giờ có một số người ở đó có tâm ô
nhiễm. Chúng ngăn chặn những vật thí, chính chúng ăn những
thí vật và châm lửa vào nhà ăn. Khi các Ngài đã tổ chức
lễ tự tứ thì những đứa con trai của Ðức vua đảnh lễ
đức Thế Tôn và rồi trở về, cùng với Ðức Thế tôn đi
trước, họ đến trước mặt phụ vương của họ. Sau khi đức
Thế Tôn đi đến đó, Ngài nhập Niết bàn.
Ðến đúng thời kỳ,
những đứa con trai của đức vua, vị sứ giả và vị Quan
thủ qu~n của họ đều chết và sanh về Thiên giới cùng
với hội chúng (Những người nam hầu ấy); Trong khi những người
có tâm bất thiện thì sanh vào trong các địa ngục. Rôì
trong suốt Hiền kiếp này, vào thời kỳ của Ðức Thế Tôn
Kassapa, những người có tâm bất thiện ấy sanh vào trong
hội chúng Ngạ quỉ. Lúc bấy giờ, khi dân chúng cúng dường
vật thực nhân danh những quyến thuộc sanh làm Ngạ quỷ
của họ, hồi hướng cho chúng, khi nói rằng, "Xin cho Phước
thí này thấu đến quyến thuộc của chúng tôi!" Nhân đó,
chúng đạt được sự tối thắng. Bấy giờ, khi những Ngạ
quỉ ấy trông thấy điều này, chúng đi đến Ðức Thế Tôn
Kassapa và hỏi rằng, "Bạch đức Thế Tôn, làm sao chúng
con đạt được sự thù thắng như thế?" Ðức Thế Tôn
nói rằng, "Các ngươi sẽ không đạt được điều ấy bây
giờ đâu. Tuy nhiên, trong tương lai sẽ có một vị Chánh
Biến Tri tên là Gotama . Vào thời kỳ của đức Thế Tôn này
sẽ có một vị vua tên là Bimbisara, là quyến thuộc của các
ngươi cách đây chín mơi hai Ðại kiếp. Vị ấy sẽ cúng dường
vật thực đến vị Phật ấy và hồi hướng phước thí ấy
cho các ngươi. Rồi các ngươi sẽ đạt được sự thù
thắng như vậy". Tương truyền rằng, khi Ngài nói điều
này thì xem ra đối với những Ngạ qũy ấy tựa như Ngài đã
nói rằng họ sẽ đạt được nó trong ngày hôm sau.
Rồi khi một trung gian
Phật thời đã trôi qua và Ðức Thế Tôn của chúng ta đã
sanh lên trong thế gian, thì ba người con trai ấy của đức
vua, cùng với một ngàn người cũng đi xuống từ cõi cõi chư
Thiên và sanh trong dòng Bà la môn, trong vương Quốc Magadha . Ðến
thời kỳ, họ xuất gia sống cuộc đời không nhà của Sa môn
và trở thành Ba đạo sĩ tóc búi của xứ Gayaasiisa . Vị sứ
giả của họ trong châu quận ấy trở thành Visaakhaa, có vợ
tên là Dhammadi.n.naa - con gái của một vị Phú Hộ; Trong khi
hội chúng còn lại thì sanh trong những tuỳ tùng của Ðức
vua.
Khi Ðức Thế Tôn của
chúng ta đã sanh lên trong thế gian và trải qua bảy tuần lễ
(sau khi Ngài giác Ngộ), đến đúng thời kỳ, Ngài đi đến
Ba La nại; Ở đó, Ngài chuyển Pháp luân và giáo hoá cho năm
anh em Kiều Trần Như, rồi đến Ba vị Ðạo sĩ tóc búi cùng
với một ngàn môn đệ của họ, và rồi đi đến Raajagaha .
Ở đó, Ngài an trú vào quả Thánh Tu Ðà huờn cho đức vua
Bimbisaara ..., là người đã đến để yết kiến Ngài trong chính
ngày hôm ấy, cùng với một trăm mười ngàn gia chủ Bà là môn,
là những dân cư của xứ A.nga-Magadha . Ngài chấp nhận lời
mời của đức vua đến thọ thực vào ngày hôm sau - và ngày
kế tiếp Ngài đi vào Raajagaha với Sakka, là chúa của chư Thiên,
đã hoá ra làm một chàng trai Bà la môn, đi trước Ngài và tán
dương Ngài bằng những câu kệ bắt đầu bằng:
"Những kẻ được
điều ngự đi chung với Ðấng
Ðiều ngự, những kẻ được giải thoát đi chung với đấng
giải thoát; Ðức Thế Tôn, sáng chói như viên Ngọc Huỳnh
kim, đi vào Raajagaha với Ba vị Ðạo sĩ tóc búi trước
kia".
Và trong chỗ ngụ của
đức Vua, Ngài nhận được sự cúng dường vật thực vĩ đại.
Bấy giờ những Ngạ quỉ mà đứng bao quanh ngôi nhà nghĩ
rằng, "Bây giờ đức vua sẽ hồi hướng vật thí đến
chúng ta". Nhưng khi cúng dường vật thực, đức vua chỉ
nghĩ về khu vực dành cho Tính xá của Ðức Thế Tôn mà thôi,
khi tự nghĩ rằng, "giờ này Ðức Thế Tôn trú ngụ ở
đâu?" và vị ấy không hồi hướng phước thí đến cho
ai cả. Vì không được vật thí theo cánh này, những Ngạ
quỉ ấy thất vọng, và đêm hôm ấy kêu than trong nỗi
thống khổ cay đắng và ghê sợ trong chỗ ngụ đức vua. Ðức
vua bị dao động, đầy sợ hãi và run rẫy. Vào lúc rạng sáng,
vị ấy kể lại với Ðức Thế Tôn rằng, "Bạch Ðức
Thế Tôn, suốt đêm con đã nghe một âm thanh rùng rợn như
thế: Chuyện gì sẽ xảy đến cho con?" Ðức thế Tôn nói
rằng, "Ðừng sợ, tâu Ðại vương, không có điều xấu
nào xảy đến cho Ðại vương đâu; Bệ hạ sẽ hoàn toàn bình
an, sự thật là những quyến thuộc trước kia của Ðại vương
mà đã sanh trong giới những Ngạ quỉ đã đi lang thang trong
suốt một trung gian Phật thời, với lòng mong mỏi rằng Ðại
vương sẽ cúng dường vật thí đến một vị Phật và sẽ
hồi hướng phước thí đến cho chúng. Nhưng khi Ðại vương
đã cúng dường vật thực ngày hôm qua, Ðại vương đã không
cho phước thí ấy, nên chúng đã thất vọng và kêu than trong
nỗi đau đớn ghê sợ như thế" "Bạch Ðức Thế Tôn,
chúng có nhận được phước thí ấy không, nếu những vật
thí ấy được cho đến chúng bây giờ?" (Ðức vua hỏi)
"Ðược, tâu Ðại vương". "Thế thì xin Ðức
Thế Tôn hãy nhận lời mời của con vào ngày hôm nay và con
sẽ hồi hướng những vật thí ấy đến cho chúng". Ðức
Thế Tôn im lặng nhận lời mời. Ðức vua đi về chỗ ngụ
của vị ấy và sai sửa soạn một cuộc bố thí to lớn,
rồi sai công bố giờ giấc với Ðức Thế Tôn. Ngài đi đến
hoàng cung cùng với chư Tăng và ngồi xuống trên chỗ ngồi
đã được soạn sẵn. Những Ngạ quỉ suy nghĩ rằng, "Ngày
hôm nay chúng ta có thể kiếm được một cái gì đó", và
đi đến đứng ở bên ngoài những vách tường và những
chỗ khác. Ðức Thế Tôn khiến cho chúng hiện rõ trước
mắt đức vua. Khi rót nước bố thí, đức vua nói hồi hướng
rằng, "xin cho phước thí này thấu đến những quyến
thuộc của tôi", và ngay khi ấy những hồ sen hiện ra dành
cho những Ngạ quỉ, trên mặt hồ đầy những hoa sen và hoa súng
xanh. Chúng tắm và uống nước trong những hồ sen ấy và
nhờ vơi đi những thống khổ, sự mỏi mệt và khát bỏng,
chúng trở nên có sắc huỳnh kim. Ðức vua cúng dường cơm
dẽo và những vật thực loại cứng loại mềm và hồi hướng
những vật thí này, và ngay tức thì món cơm dẻo của chư
Thiên và những vật thực loại cứng loại mềm hiện ra. Khi
chúng đã ăn những thứ này thì các căn của chúng trở nên
tươi tắn. Ðức vua cúng dường y phục và chỗ ngụ, rồi
hồi hướng những thứ này; Thế là y phục và những cung điện
của chư Thiên, được trang bị đầy đủ bằng những chiếc
trường kỷ và những tấm khăn trãi giường v.v..., hiện ra
cho chúng. Tất cả sự thù thắng này của chúng khiến cho Ðức
vua thấy rõ ngay khi Ðức Thế Tôn đã nguyện cho nó được
như thế. Và khi đức vua trông thấy như vậy thì vị ấy hoàn
toàn vui sướng. Rồi khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong và
đã ăn no bụng, ngài kể cho đức vua nghe những câu chuyện
về những Ngạ quỉ ở bên ngoài vách nhà, để thay lời phúc
chúc của Ngài:
1. Chúng đứng ở bên
ngoài những vách tường và ở những ngã tư đường; chúng
đi đến nhà riêng của chúng và đứng ở những trụ cửa.
2. Mặc dầu có nhiều đồ
ăn và thức uống, những vật thực loại cứng loại mềm
được dọn ra, nhưng không có ai nhớ đến những chúng sanh
ấy vì những nghiệp của chúng.
3. Bởi vậy, những người
mà có lòng thương tưởng hãy cho những đồ ăn và thức
uống đúng thời, thượng vị, thuần tịnh nhất để hồi hướng
đến những quyến thuộc của họ, cầu nguyện rằng,
"xin cho những phước thí này thấu đến những quyến
thuộc của chúng tôi! Cầu xin cho những quyến thuộc của chúng
tôi được hạnh phúc!"
4. Và những quyến
thuộc sanh làm Ngạ quỉ ấy đã tụ họp ở đó sẽ tỏ sự
tuỳ hỷ của chúng đối với đồ ăn và thức dồi dào ấy,
nói rằng:
5. "Sự trường thọ
hãy đến với quyến thuộc của chúng ta; nhờ họ mà chúng
đã có được (tất cả) điều này vì sự tôn trọng đã
được thể hiện đến với chúng ta. Và những người cho ra
không phải không có những kết quả!"
6. Vì ở đó không có
sự trồng trọt cấy cày, cũng không có sự chăn nuôi gia súc;
không có những điều như sự làm nghề kiếm ăn và sự mua bán
bằng vàng. Những Ngạ quỉ, những kẻ đã quá vãng ở đó
chỉ được nuôi sống bằng cái gì được cho đến từ đây.
7. Như mưa rơi trên
những vùng đất cao chảy xuống những vùng đất thấp; cũng
vậy, những gì được cho đi từ đây sẽ đem đến lợi ích
cho những Ngạ quỉ.
8. Cũng như những sông
rạch được làm đầy sẽ làm đầy đại dương; cũng vậy,
những gì được cho đi từ đây sẽ đem lại lợi ích cho
những Ngạ quỉ.
9. "Người ấy đã
cho đến tôi, người ấy đã làm cho tôi, người ấy là
quyến thuộc của tôi, là bạn bè và người thân quen của tôi";
(như vậy) khi nhớ đến những gì mà họ thường làm, người
nên cho những Phước thí đến những Ngạ quỉ.
10. Dầu khóc lóc đến
mấy, sầu muộn hay ta thán cách nào cũng không đem lại lợi
ích cho Ngạ quỉ đâu, dầu những quyến thuộc của họ có
khăng khăng theo họ.
11. Nhưng phước thí này
mà sau khi đã được làm và được gieo trồng vững chắc
trong chư Tăng, thì bằng hiệu quả tức thời, sẽ đem lại
lợi ích lâu dài cho chúng.
12. Bây giờ điều này,
là phận sự đối với những quyến thuộc của người, đã
được chỉ ra rồi và sự tôn kính cao tột đã được thể
hiện đến những Ngạ quỉ; Sức lực đã được cung cấp đến
các vị Tỳ kheo và việc phước mà người đã làm không
phải là nhỏ.
Chú giải:
1. Ở đây, Ở NGOÀI
NHỮNG VÁCH TƯỜNG (Tiroku.d.desu) ở phía bên kia của những vách
tường. CHÚNG ÐỨNG (Ti.t.thanti): Câu nói này xác định cách
đứng của chúng, tương phản với (những tư thế khác) như
ngồi v.v... Nghĩa là chúng đứng ở bên ngoài như vậy, ở bên
kia những hàng rào mà bao quanh những ngôi nhà. VÀ Ở GIAO LỘ
VÀ CÁC NGÃ TƯ ÐƯỜNG: (Sandhisi"nghaa.takesu ca = sandhiisu ca
singhaa.takesu ca) (phối hợp cách); những chỗ mà bốn con đường
gặp nhau, chỗ giao nhau của các căn nhà, chỗ giao nhau của các
vách tường, được gọi là những giao điểm; trong khi ngã tư
đường là những chỗ mà ba bốn con đường gặp nhau. ÐỨNG
Ở NHỮNG TRỤ CỬA (Dvaarabaahaasu ti.t.thanti): Ðứng dựa vào các
trụ cột của các cổng thành phố và của các cửa nhà. CHÚNG
ÐI ÐẾN NGÔI NHÀ RIÊNG CỦA CHÚNG (aagantvaana saka.m ghara.m): ngôi
nhà riêng của chúng có thể là nhà của một quyến thuộc trước
kia, cũng như nhà của chính chúng mà ở đó chúng sống như
những người chủ. Vì chúng xem những chỗ này là nhà riêng
của chúng, Nên ngài nói rằng, "chúng đi đến nhà riêng
của chúng". Ðức Thế Tôn nói câu kệ bắt đầu rằng:
"Chúng đứng ở bên ngoài những bức vách", để
chỉ cho đức vua trông thấy nhiều Ngạ quỉ mà vô cùng xấu
xí, dị tướng và kinh khủng, đang lãnh chịu quả của lòng
ganh tỵ và bỏn sẻn, và là những kẻ bị đứng ở bên ngoài
những bức vách và những chỗ khác, đang đi đến chỗ ngụ
của đức vua khi xem đó là nhà riêng của chúng, vì đó chính
là nhà của người quyến thuộc trước kia, dầu trước kia
trong quá khứ chúng không sống ở đó. Rồi Ngài nói lên câu
kệ thứ hai (bắt đầu là): "Dầu nhiều đồ ăn và
thức uống" để cho thấy tánh chất đáng sợ của
nghiệp mà chúng đã tạo nên.
2. Ở đây NHIỀU (Pahute)
nhiều, số nhiều, nghĩa là nhiều đủ cho nhu cầu. Có thể
được phép để thay thế chữ Ba bằng chữ Pa (như vậy
chuyển chữ Bahu đổi thành chữ Pahu của bài kinh) như trong
những đoạn văn "Dầu khi có nhiều, vị ấy không nuôi
sống..." (Pahu santo Narati). Tuy nhiên có một số người
học chữ nhiều là (Bahuke) nhưng đây là một cách đọc
thiếu thận trọng. ÐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG: (Annapaanamhi = anne
ca paane ca) (cách nối liền trong hình thức văn phạm hoán
chuyển). NHỮNG VẬT THỰC LOẠI CỨNG LOẠI MỀM (Khajjabhojje =
Khajje ca bhojje ca): (Cách nối liền) Ngài chỉ ra bốn loại
vật thựcc: loại để ăn, uống nhai và nếm. KHÔNG AI NHỚ ÐẾN
NHỮNG CHÚNG SANH ẤY (Na tesa.m Koci sarati sattaana.m): Không người
nào, cha hay mẹ hay con cái hay cháu chắc cũng không nhớ đến
những chúng sanh mà đã sanh trong cõi Ngạ quỷ. vì lý do gì?
vì những nghiệp của chúng. Do bởi hành động keo kiệt ấy
mà chính chúng đã làm, gồm có sự không cho ra và ngăn cản
sự cho ra ấy và những việc ác khác nữa- Ðây chính là
nghiệp của chúng khiến cho những quyến thuộc của chúng không
tưởng nhớ đến chúng. Khi Ngài đã cho thấy cách mà trong đó
bất chấp sự hiện diện của nhiều đồ ăn và thức uống
và những thứ khác, do ác nghiệp ấy nên dầu một chút tưởng
nhớ của những quyến thuộc ấy của những Ngạ quỉ mà đang
mỏi mòn trong chờ phước thí từ những quyến thuộc của
họ cũng không có. Rồi đức Thế Tôn đọc lên câu kệ thứ
ba bắt đầu bằng: "(bởi vậy những người có lòng thương
tưởng) hãy bố thí vì những quyến thuộc của họ": Ngài
nói như vậy để khen ngợi những vật thí được cho đến
nhân danh những quy?n thuộc mà sanh trong cõi Ngạ quỉ.
3. Ở đây, NHƯ VẬY
(Eva.m) là một từ chỉ sự so sánh. Nó có thể được hiểu
theo hai cách: dầu họ không tưởng nhớ đến chúng sanh ấy vì
những nghiệp xưa của chúng, một số bố thí dành cho những
quyến thuộc của họ như vậy, họ có lòng thương tưởng; Và
những ngườ có lòng thương tưởng vì những quyến thuộc mà
họ, đã cho những đồ ăn và thức uống thích hợp, đúng
thời, thượng vị và thuần khiết nhất giống như được
cho như vậy theo cách ấy bởi bệ hạ, Tâu Ðại vương. Ở
đây CHO (Dada.nti): hồi hướng NHỮNG AI (ye): Bất cứ những
đứa con trai nào v.v... BẤT CỨ AI Honti=Bhavanti (Thể văn
phạm hoán chuyển) CÓ LÒNG BI MẪN (Anuka.mpakaa): Muốn cho chúng
được lợi ích, là những người mong mỏi lợi ích cho chúng.
TRONG SẠCH (Suci.m) Sạch sẽ, quyến rủ và hợp với lẻ đạo.
THƯỢNG VỊ (Paniita.m): Tốt nhất. ÐÚNG THỜI (Kaalena): Vào
thời gian thích hợp dành cho những bậc Ðáng thọ lãnh
những vật thí hay vào lúc những quyến thuộc của họ đã
đến ở ngoài những bức vách. THÍCH HỢP (Kapiya.m) thích
ứng, xem ra đáng đuợc thọ lãnh bởi những vị (Ariya). ÐỒ
ĂN VÀ THỨC UỐNG: Paanabhonana.m= Paana~ncaBhoja~nja (Cách nối
liền): Ngài nói ở đây về tất cả những phước thí. Rồi
để chỉ cho thấy cách mà trong đó những thứ này phải được
cho đến những Ngạ quỉ, Ngài nói rằng, "Xin cho phước
thí này thấu đến những quyến thuộc của tôi! xin cho
quyến thuộc của chúng tôi được hạnh phúc!" Câu này nên
được hiểu bởi nửa phần đầu của câu kệ thứ ba như
vầy: "Bởi vậy, những người có lòng bi mẫn hãy bố thí
dành cho những quyến thuộc của họ khi nói rằng, "Xin
cho phước báu này thấu đến những quyến thuộc của chúng
tôi. Cầu xin cho những quyến thuộc của chúng tôi được
hạnh phúc" Theo cách này, Ngài đưa ra một sự giải thích
về cách mà trong đó những vật thí sẽ được cho ra. XIN CHO
PHƯỚC THÍ NÀY HÃY DÀNH CHO NHỮNG QUYẾN THUỘC CỦA CHÚNG TÔI!
(~Natina.m hotu): Xin cho những phước thí này dành cho những
quyến thuộc của tôi, là những kẻ đã sanh trong cõi Ngạ
quỉ! CẦU XIN CHO NHỮNG QUYẾN THUỘC CỦA CHÚNG TÔI ÐƯỢC
HẠNH PHÚC! (Sukhitaa hotu naatayo): Cầu xin cho những quyến
thuộc của chúng tôi, là những kẻ sanh trong cõi Ngạ quỉ,
được hạnh phúc, đạt được hạnh phúc nhờ thọ hưởng
quả của việc phước thí này! Mặc dầu nó được nói
rằng, "xin cho điều dành cho những quyến thuộc của chúng
tôi". Ðó không phải là trường hợp của việc làm được
làm bởi người cho quả đến một người khác, mà đơn
giản là những vật mà đang được cho ra nhân danh chúng theo
cách này trở thành nhân duyên để những quyến thuộc Ngạ
quỉ ấy làm một việc thiện. Do đó, chính do việc thiện này
tạo ra quả của nó dành cho chúng ngay khi ấy, phù hợp với
những vật thí ấy. Ðể cho thấy điều này Ngài đọc lên câu
kệ này bắt đầu là: "Và những Ngạ quỉ ấy đã kéo
đến và đã tụ họp ở đó".
4. Ở đây chữ NHỮNG
KẺ ẤY (Te): Những quyến thuộc Ngạ quỉ ấy. Ở ÐÓ
(Tattha): Ở đó, nơi mà những vật thí được cho ra. ÐÃ KÉO
ÐẾN RỒI (Samaagaantvaa): đã tụ họp ở đó để tỏ sự
tuỳ hỷ của chúng khi nghĩ rằng, "những quyến thuộc này
của chúng ta sẽ hồi hướng những phước thí đến chúng
ta". ÐỐI VỚI NHIỀU ÐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG ẤY (Pahuute
annapaana.mhi): Ðối với đồ ăn và thức uống ấy, đối
với những vật mà đang được cho nhân danh họ. CUNG KÍNH BÀY
TỎ SỰ TUỲ HỶ CỦA HỌ (Sakkhacca.m Anumodare): Có sự tin tưởng
vào quả của những nghiệp, không có sự từ bỏ lòng tôn kính
của chúng và không có sự xáo trộn trong tâm chúng khi tuỳ
hỉ. Chúng bày tỏ sự tuỳ hỉ và đầy hỉ lạc và hạnh phúc
khi nghĩ rằng, "Mong rằng những phước thí này trở thành
sự hạnh phúc và lợi lạc cho chúng ta!"
5. SỰ TRƯỜNG THỌ
(Cira.m): Cầu xin cho họ được sự trường thọ, cầu xin cho
họ được sống lâu! ÐẾN NHỮNG QUYẾN THUỘC CỦA CHÚNG TÔI
(No ĩaatii). Ðến những thân bằng quyến thuộc đã quá vãng
của chúng tôi. Do bởi những người ấy. (Yesa.m hetu): Bởi
những người ấy, nhờ vào những người ấy. CHÚNG TA ÐƯỢC
(Labhaamase): Chúng ta đã được sự tối thắng như vậy. Ðiều
này cho thấy cách khen ngợi đối với những quyến thuộc
của họ, được thể hiện bởi những Ngạ quỉ mà đang hưởng
sự thù thắng, có được do bởi sự tuỳ hỉ của chúng.
Sự bố thí cho quả của nó ngay tức thì khi ba yếu tố có
mặt: Có được những bậc đáng bậc lãnh những vật thí,
sự hồi hướng bởi những người cho và sự tuỳ hỉ của
những Ngạ quỉ. Trong ba nhân này người cho là nhân đặc
biệt; vì lý do này khiến họ nói rằng. "Do bởi những
người ấy khiến chúng ta có được tất cả những điều này"
VÌ SỰ TÔN KÍNH ÐÃ ÐƯỢC THỂ HIỆN ÐỐI VỚI CHÚNG TA
(Amhaaka~n ca kataa Puujaa): Vì sự cúng dường đã được cho đến
chúng ta bởi những người hồi hướng những vật thí ấy như
vầy: "Hãy cho cái này thấu đến những quyến thuộc
của chúng tôi". VÀ NHỮNG NGƯỜI CHO KHÔNG PHẢI KHÔNG CÓ
QUẢ BÁU (Daayakaa ca anipphalaa). Bởi vì việc làm ấy (bao gồm
sự bố thí) cho kết quả của nó ở chỗ này chỗ kia, vì
việc phước ấy đã nằm trong tâm của người cho rồi. Ở
đây người ta có thể hỏi rằng: "Làm sao mà chỉ những
kẻ sanh trong Ngạ quỉ mới nhận được sự thù thắng này
do nhờ những quyến thuộc của chúng, hay những Ngạ quỉ khác
cũng lãnh được nó? Không có điều gì cần thiết được nói
ra bởi chúng ta ở đây cả, vì điều này đã được giải
thích bởi Ðức Thế Tôn như vầy:
"Thưa thầy Gotama,
những vị Bà la môn chúng tôi bố thí vật thực và làm
những việc làm cúng tế khác khi nói rằng, "cầu mong
những vật thí này đem lại những lợi ích cho Ngạ quỉ, là
những quyến thuộc của chúng tôi, là những bà con ruột
thịt của chúng tôi! Xin cho những quyến thuộc Ngạ quỉ
của chúng tôi và những bà con ruột thịt của chúng tôi hưởng
vật thí này!" Thưa Sa môn Gotama, có phải những vật thí
ấy đem lại lợi ích cho những Ngạ quỉ ấy, là những
quyến thuộc và là những người thân thích của chúng tôi chăng?
Những quyến thuộc Ngạ quỉ và những người bà con thân thích
của chúng tôi có thật sự hưởng được những vật thí
ấy không?".
"Này Bà-la-môn, nếu
chúng ở đúng chỗ thì chúng sẽ được lợi ích; Nếu chúng
ở chỗ không thích hợp thì không được lợi ích".
"Nhưng chỗ nào là chỗ thích hợp, thưa Thầy Gotama, và
chỗ nào là chỗ không thích hợp?".
"Này Bà-la-môn, ở
đây có một người nọ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, nói đâm thọc, nói lời thô lỗ, nói lời phù phiếm,
tham lam, hiểm ác trong tâm và có tà kiến". Vào lúc thân
hoại mạng chung, kẻ ấy sanh trong địa ngục. Vị ấy chống
chỏi ở đó, vị ấy tồn tại ở đó bằng bất cứ cái gì
gọi là vật thực của những chúng sanh ở trong địa ngục.
Này ông bà-la-môn, đây là chỗ không thích hợp. Những vật
thí ấy không có lợi ích cho chúng sanh nào ở trong đó.
"Ở đây, này ông Bà-la-môn,
có người sát sanh... Có tà kiến. Vào lúc thân hoại mạng
chung, người ấy sanh trong bào thai của loài thú. Chúng sanh
ấy tự nuôi sống ở đó, lưu lại ở đó bằng bất cứ cái
gì gọi là vật thực dành cho súc sanh. Này ông Bà-la-môn, đây
là chỗ không thích hợp; những vật thí ấy không có lợi ích
cho những kẻ ở trong cõi ấy.
"Này ông Bà-la-môn,
ở đây có người tránh xa sát sanh, tránh xa trộm cắp, tránh
xa tà hạnh, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói đâm
thọc, tránh xa sự nói cộc cằn, tránh xa sự nói phù phiếm,
không tham lam, không ác tâm và không có tà kiến. Sau khi thân
hoại mạng chung người ấy sanh trong cõi người. Người ấy
sinh sống và duy trì mạng sống bằng vật thực của loài người,
Nầy ông Bà-la-môn, đây là chỗ không thích hợp; những vật
thí không có lợi ích cho những người nào sống ở đó cả.
"Này ông Bà-la-môn,
ở đây có người từ bỏ sát sanh... Có chánh kiến. Vào lúc
thân hoại mạng chung, người ấy sanh trong hội chúng của
những vị chư Thiên. Người ấy tự nuôi sống ở đó, người
ấy duy trì mạng sống ở đó, bằng bất cứ cái gì gọi là
vật thực của chư Thiên. Này ông Bà-la-môn, đây là chỗ không
thích hợp; những vật thí ấy không đem lợi ích cho chúng
sanh nào ở trong đó.
"Ở đây, Này ông Bà-la-môn,
có người sát sanh... Có tà kiến. Vào lúc thân hoại mạng
chung người ấy sanh trong cõi Ngạ quỉ. Chúng sanh ấy tự nuôi
sống ở đó, sanh tồn ở đó, bằng bất cứ cái gì gọi là
vật thực của những chúng sanh trong cõi Ngạ quỉ. Hay kẻ
ấy nuôi sống ở đó, kẻ ấy sanh tồn ở đó, bằng bất
cứ cái gì mà những bạn bè, những người thân quen hay
những quyến thuộc và những người thân thích hồi hướng
đến từ đây. Này ông Bà la môn, đây là chỗ thích hợp,
những vật thí đem lại lợi ích cho chúng sanh nào sống ở
đó".
"Nhưng, thưa Sa môn
Gotama, nếu kẻ quá vãng ấy là người quyến thuộc và là người
thân thích của chúng con mà chưa sanh trong cõi ấy, thì ai
thọ lãnh những vật thực ấy?"
"Này ông Bà-la-môn,
những Ngạ quỉ khác là những quyến thuộc và là những kẻ
thân thích của ngươi mà đã sanh trong cõi ấy - Những kẻ này
thọ hưởng những vật thí."
"Nhưng, thưa Sa môn
(Gotama), nếu những Ngạ quỉ ấy là người quyến thuộc và
là người thân thích của chúng con chưa sanh trong cõi ấy và
những Ngạ quỉ khác là những quyến thuộc và là những kẻ
thân thích của chúng con cũng chưa sanh trong cõi ấy-thì ai hưởng
những vật thí ấy?"
"Nhưng điều này không
thể xảy ra, này ông Bà-la-môn, điều này không thể có,
rằng chỗ ấy trong một thời gian rất lâu lại trống rỗng,
không có những Ngạ quỉ là những quyến thuộc và là những
kẻ thân thích của ngươi; và dù sao chăng nữa, này ông Bà-la-môn,
những người mà có bố thí không phải không có kết
quả".
Rồi để cho thấy
rằng, những kẻ mà đã sanh trong cõi Ngạ quỉ chỉ được
nuôi sống bằng cái gì được cho đến từ đây, ngoài ra không
có một nguồn nào khác như sự gieo trồng và sự chăn nuôi
gia súc v.v... mà có thể là nguyên nhân để chúng có được
sự thù thắng, "những câu kệ bắt đầu là: "Vì không
có" được nói đến.
6. Ở đây, câu VÌ KHÔNG
CÓ SỰ GIEO TRỒNG Ở ÐÓ (na hi tattha kasii atthi )nghĩa là không
có sự gieo trồng ở cõi Ngạ quỉ ấy để những Ngạ quỉ
có thể sống thanh thản. Ở đây CŨNG KHÔNG CÓ SỰ CHĂN NUÔI
GIA SÚC NÀO ÐƯỢC BIẾT ÐẾN. (Go rakkh'ettha na vijjati): Ở đây,
nơi cõi Ngạ quỉ này, không những không có sự gieo trồng, mà
cũng không có sự chăn nuôi gia súc được biết đến mà
nhờ đó chúng có thể sống thoải mái.
CŨNG KHÔNG CÓ NHỮNG SINH
HOẠT NHƯ SỰ BUÔN BÁN (Vanjjaa Taadisii n'atthi): cũng không có
ngay cả những sinh hoạt như sự buôn bán trao đổi mậu
dịch mà có thể là nguyên nhân khiến chúng có được sự thù
thắng. VÀ SỰ MUA BÁN BẰNG VÀNG (hira~n~nena kayakakaya.m): cũng
không có ngay cả sự mua và bán bằng vàng mà CÓ THỂ LÀ NGUYÊN
NHÂN ÐEM LẠI SỰ THÙ THẮNG CHO CHÚNG, những Ngạ quỉ những
kẻ mà đã quá vãng ÐƯỢC NUÔI DƯỠNG Ở ÐÓ BẰNG CÁI GÌ
ÐƯỢC CHO ÐẾN TỪ ÐÂY (ito dinnena yaapenti Petaa kaalagataa
hahim ): Chúng được nuôi dưỡng, chúng tiếp tục sống hoàn
toàn bằng cái gì được cho đến từ đây bởi những quyến
thuộc của chúng, hay bởi những bạn bè và những người thân
quen của chúng NHỮNG NGẠ QUỈ (Petaa): Những chúng sanh mà đã
sanh trong cõi Ngạ quỉ. NHỮNG KẺ MÀ ÐÃ CHẾT (Kaalakataa):
Những kẻ mà đã hết thời gian về nghiệp của chúng,
những kẻ mà đã làm sự lâm chung của chúng, những kẻ mà
đã đi đến trạng thái tử vong của chúng. Ở ÐÓ (tahim):
Ở cõi Ngạ quỉ ấy. Rồi Ngài nói lên hai câu kệ bắt đầu
là: "Như nước mưa rơi trên những vùng đất khô" để
chứng minh bằng lối so sánh ý nghĩa của điều mới được
nói.
7-8. Ðây là ý nghĩa: cũng
như nước đổ xuống bởi những trận mưa trên đất khô, trên
vùng đất cao, chảy xuống những chỗ đất thấp, đi xuống
những chỗ trũng, đến phần đất mà nằm ở dưới thấp; Cũng
vậy, theo cùng cách ấy, những vật thí được cho ra từ đây
cũng đem lại lợi ích cho những Ngạ quỉ, phát sanh đến chúng
nhờ sự xuất hiện quả báu của chúng. Thế giới Ngạ quỉ
là chỗ mà những vật thí đem lại lợi ích, là chỗ giống
như chỗ đất thấp mà nước chảy xuống đó. Do đó Ngài nói
rằng "Này ông Bà-la-môn, đây là chỗ thích hợp; những
vật thí ấy có lợi ích cho kẻ nào đang sống ở đó..."
Và cũng như những con sông rạch, những con sông lớn, mà được
làm đầy bởi nước chảy xuống từ những kẽ núi và
những con suối, từ những con rạch và những khe núi, từ
những ao hồ lớn, làm đầy Ðại dương; Cũng vậy, những
vật thí được cho ra từ đây đem lại lợi ích cho những
Ngạ quỉ theo cách như đã nói ở trên. Vì những Ngạ quỉ
đã đi đến nhà những quyến thuộc của chúng, hy vọng
rằng chúng thể kiếm được cái gì đó từ nơi đó, không
thể nài xin rằng, "Xin hãy - cho tôi con này?" Do đó,
Ngài nói lên câu kệ, bắt đầu: "Người ấy đã cho tôi"
để cho thấy rằng người con trai trong gia đình nên làm
việc phước, khi nhớ đến, tại những trường hợp đáng
ghi nhớ liên quan đến chúng.
9. Ðây là ý nghĩa: Người
ấy cho đến ta những của cải ấy hay ngũ cốc ấy; Người
ấy đã làm cho ta khi người đã hoàn toàn làm đầy đủ điều
mà phải được làm; vì người đó đó có quan hệ về bên
cha hay bên mẹ, nên người ấy là một quyến thuộc; vì người
ấy có khả năng làm nơi nương tựa của ta do bởi tình thương
của người ấy, nên người ấy là một người bạn; Trong
khi vì người ấy là bạn chơi chung với ta khi làm những cái
bánh bằng bùn, nên người ấy là người chơi chung: Khi nhớ
đến tất cả điều này, người nên cho ra những phước thí
dành cho những Ngạ quỉ, người nên hồi hướng những vật
thí đến chúng.
10. 11. Ngài nói lên câu
kệ rằng: "Dầu khóc lóc bao nhiêu", để cho thấy
rằng trong khi cứ khăng khăng khóc lóc hoài và sầu muộn ta
thán cho cái chết của những quyến thuộc thì họ chẳng làm
gì đem lại lợi ích cho những quyến thuộc ấy cả; và sự
khóc lóc sầu muộn ta thán này chỉ là hoàn toàn dẫn đến
việc làm khổ chính họ mà thôi; điều ấy không đem lại
lợi ích cho Ngạ quỉ. Rồi Ngài nói thêm một câu kệ nữa:
"Nhưng điều này" để chỉ rõ tánh chất có lợi
của sự bố thí được cho bởi vua nước (Magadha). Ý nghĩa
của những lời này cũng giống như ý nghĩa của câu nói đã
được nêu ra ở trên.
12. Rồi Ðức Thế Tôn nói
lên câu kệ kết thúc rằng: "Bây giờ (điều này), là
phận sự đối với những quyến thuộc cuả mình", để
tán dương đức vua vì những đặc tính chân thực này, nghĩa
là, bởi vì do đức vua cho ra phước thí ấy, do vị ấy làm
điều nên được làm bởi một quyến thuộc đối với một
quyến thuộc khác; Phận sự đối với những quyến thuộc
của mình đã được chỉ ra, nó được làm cho mọi người
biết đến, khi chỉ cho thấy, khi chỉ cho biết rằng họ cũng
nên làm tròn phận sự của họ đối với những quyến
thuộc của họ theo cùng cách ấy; và nhờ khiến cho những
Ngạ quỉ có được thù thắng của chư Thiên, nên sự tôn
trọng cao cả nhất gọi là đã được thể hiện đến
những Ngạ quỉ, do vị ấy làm thoả mãn bằng đồ ăn và
thức uống đến chư Tăng có Ðức Phật dẫn đầu, nên sức
mạnh được cho đến chư Tăng; và bằng sự bố thí làm sanh
lên lòng quảng đại cùng với đức tính Từ bi, nên việc phước
đi theo không phải nhỏ. Ở đây, PHẬN SỰ ÐỐI VỚI NHỮNG
QUYẾN THUỘC CỦA NGƯỜI (~naatidhammo); sự thực hành nên được
làm bởi người thân đối với người thân. CAO CẢ
(U.laaraa): tốt rất đẹp SỨC MẠNH (bala.m) sức mạnh về
thể lực. ÐƯỢC BÁM THEO (pasuta.m): được tích lũy. Bây
giờ ở đây, do bởi câu nói: " Bây giờ điều này,
phận sự đối với những quyến thuộc của mình, đã được
chỉ ra" Ðức Thế Tôn giáo giới cho đức vua bằng thời
pháp thoại, để chỉ cho vị ấy thấy phận sự đối với
những quyến thuộc của mình. Ở đây là một lời giáo
giới. Do bởi câu nói: "và sự tôn kính cao cả nhất đã
được thể hiện đến những Ngạ quỉ" Ngài thức tỉnh
vị ấy, vì sự tán dương vị ấy là " Cao cả
nhất" ở đây là sự thức tỉnh về cách tỏ sự cung kính
của vị ấy nhiều lần". Do bởi câu nói "sức mạnh
đã cung cấp đến các vị Tỳ kheo", Ngài cho đức vua
thấy sự cung cấp sức mạnh để làm gia tăng sự tinh tấn
của vị ấy trong việc cung cấp sức mạnh theo cách đặc
biệt ấy. Do câu nói "và phước được tính lũy bởi Ðại
Vương không phải là ít". Ngài đã làm cho vị ấy khởi
lên lòng hoan hỉ. Với việc phước mà vị ấy đã làm.
Vào lúc kết thúc các
thời pháp thoại, tuệ quán sanh lên trong tám mươi bốn ngàn
chúng sanh nhờ bài mô tả về những hoàn cảnh trong cõi Ngạ
quỉ. Vào những ngày tiếp theo, Ngài cũng dạy câu chuyện ngoài
bức tường này để giáo hoá chư Thiên và nhân loại trong
bảy ngày, và chính tuệ quán này cũng sanh lên.
-ooOoo-
I.6 THỰC
NGŨ NHI QUỶ SỰ
"Ngươi trần truồng
và có tướng mạo gớm guốc".
Pháp thoại này được
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Saavatthi, liên
quan đến một Petii (nữ Ngạ quỉ), là kẻ ăn thịt năm đứa
con của nàng.
Tương truyền rằng: ở
trong một ngôi làng nọ không cách xa thành Saavatthi, có một
người vợ của một người đàn ông giàu có. Những quyến
thuộc của người chồng nói rằng; "Bà vợ chánh của
anh vô tử, chúng ta phải kiếm cho anh một nàng dâu khác."
Nhưng anh ta không chịu vì tình thương của anh ta đối với
vợ. Bấy giờ khi người vợ của anh ta nghe tin ấy, nàng nói
vơi chồng rằng, "Thưa chồng, em là người không có con;
Nên kiếm về một người vợ khác đi - đừng làm tuyệt dòng",
và bị hối thúc bởi nàng, người chồng lấy một người
vợ khác mà đến đúng thời kỳ đã có thai. Người vợ không
con suy nghĩa rằng, "Khi nó đã có đứa con trai thì nó
trở thành bà chủ trong ngôi nhà này", và khởi lên lòng
ganh tị, bèn tìm cách để làm cho nàng kia bị hư thai, nàng
cho người đàn bà kia đồ ăn và thức uống khiến cho nàng
bị hư thai. Khi người vợ thứ hai bị sẩy thai, nàng báo tin
cho mẹ của nàng biết và mẹ nàng tập hợp những quyến
thuộc của bà ta. Và cho họ biết vấn đề. Họ tố cáo người
vợ không có con phải chịu trách nhiệm về sự sẩy thai
của người vợ thứ, nhưng nàng phủ nhận điều ấy, nói
rằng, " Tôi không chịu trách nhiệm". Họ đáp rằng,
"Nếu cô không chịu trách nhiệm trong việc sẩy thai thì
hãy thề đi!" Nàng thề dối rằng. "Nếu tôi có trách
nhiệm trong việc xảy thai tôi sẽ sanh ra mỗi buổi sáng và
chiều năm đứa con trai và ăn thịt chúng, tuy nhiên vẫn không
thấy thoả mãn; hơn nữa, xin cho tôi luôn luôn có mùi hôi
thối và bị những đàn ruồi bu quanh". Chẳng bao lâu, nàng
chết và sanh làm Petii có hình tướng ghê tởm không cách xa
ngôi làng ấy. Vào thời ấy có tám vị Trưởng lão, đã
trải qua mùa mưa trong vùng ấy và trên đường đi đến
Saavatthi để yết kiến bậc Ðạo sư. các Ngài đi đến
nghỉ dưới một bóng cây ở một chỗ có nước trong rừng
không cách xa ngôi làng ấy. Nữ quỉ khi ấy hiện ra cho các
Trưởng lão trông thấy và Trưởng lão lớn nhất nhóm hỏi
Nữ quỉ ấy bằng câu kệ này:
"Người trần
truồng và có tướng mạo gớm guốc; ngươi toả ra mùi xú
uế, ngươi bị bao quanh bởi những đàn ruồi - bây giờ người
là ai mà đứng ở đây"
Chú giải:
Ở đây TRẦN TRUỒNG
(Naggaa): là không mặc áo quần CÓ TƯỚNG MẠO GỚM GUỐC
(Lubba.n.na ruupasii): Ngươi vô cùng xấu xí, tướng mạo của
ngươi là một cảnh tượng rất ghê tởm. MÙI HÔI THỐI
(Duggandhaa) mùi khó chịu. NGƯƠI TOẢ RA MÙI THỐI THA
(Putivaayasi): Ngươi toả ra mùi của con cá chết thối rữa
từ thân của ngươi. NGƯƠI BỊ VÂY QUANH BỞI NHỮNG CON RUỒI
(Makkhikaa Pariki.nnà'va ): Ngươi hoàn toàn bị vây quanh bởi
những con ruồi xanh. BÂY GIỜ NGƯƠI LÀ AI MÀ ÐỨNG Ở ÐÂY?
(Kaa Nu Tva.m idha titthaasi) quả thật, ngươi là ai mà đứng ở
đây tại chỗ này, trông như thế này và đi lang thang chỗ này
lối nọ?
Khi được hỏi bởi Trưởng
lão, nữ quỉ nói lên câu kệ này để giải thích nàng là
ai, để làm cho chúng sanh khởi lên lòng kinh cảm:
2. Thưa Ngài, con là một
Petii, đã đi đến kiếp sống đau khổ trong cõi Yama ; sau khi
đã làm ác nghiệp, con đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ
quỉ.
3. Vào lúc sáng, con sanh
ra năm đứa con, và đến chiều lại con sanh ra năm đứa con
khác; dầu con ăn thịt hết tất cả chúng, Ngay cả nhiều như
vậy cũng không đủ đối với con.
4. Tim của con sôi sục và
bị thiêu đốt bởi cơn đói, và con không thể kiếm ra được
nước để uống! Hãy xem cảnh ngộ giáng xuống cho con!
Chú giải:
2. Ở đây chữ
(Bhaddhante) THƯA NGÀI: Nàng nói với Trưởng lão do bởi lòng tôn
kính. ÐÃ ÐI ÐẾN KHỔ CẢNH: (Duggataa): đã đến trạng thái
đau khổ. TRONG CÕI YAMA (Yamalokikaa): Trong cõi Ngạ quỉ mà được
biết đến bởi cái tên là cõi Yama . ÐÃ RA ÐI TỪ ÐẤY.
(Ito Gataa): Con đã ra đi từ đây, từ cõi người đi đến cõi
Ngạ quỉ, do sự tái sanh: Nghĩa là con đã sanh lên sau khi
chết.
3. VÀO BUỔI SÁNG
(Kaalena): vào lúc rạng sáng. NĂM ÐỨA CON TRAI: (Pa~nca-
Puttaani= Pa~nca putte); điều này được nói bởi sự bóp méo
về giống tánh. VÀO BUỔI CHIỀU LẠI SANH THÊM NĂM ÐỨA CON
(Saaya.m Pa~nca Punaapare) vào buổi chiều con lại ăn thịt thêm
năm đứa con trai nữa) - đây là cách nên được hiểu. CON ÐẺ
(Vijyitvaana): Ngày lại ngày con đẻ ra mười đứa con. NGAY
CẢ NHỮNG ÐỨA NÀY CŨNG KHÔNG ÐỦ CHO CON (Te pi naa Honti me
ala.m) ngay cả mười đứa con này cũng không đủ cho con để
làm vơi cơn đói trong ngày; Na ở đây được kéo dài thành Nà.
4. TIM CỦA CON SÔI SỤC VÀ
BỊ THIÊU ÐỐT BỞI CƠN ÐÓI (pariđayhati dhuumaayati khudaayaa
hadaya.m mama): Do bị đói, tim con sôi sục, cháy bỏng, bị làm
khổ khắp châu thân bởi cơn đau đói. Và con không thể
kiếm nước để uống khi đi lang thang chỗ này chỗ kia vì cơn
khát. HÃY XEM CẢNH NGỘ ÐÃ GIÁNG XUỐNG CHO CON, (Passa ma.m
vyasana.m gata.m): Nàng cho Trưởng lão biết rằng nỗi thống
khổ mà nàng trải qua, khi nói rằng. "Bạch Ðại đức, hãy
xem loại cảnh ngộ đã giáng xuống cho con, nói chung và nói
riêng, do vì đã sanh vào trong cõi Ngạ quỉ".
Khi nghe qua điều này Trưởng
lão bèn hỏi nàng về nghiệp quá khứ mà nàng đã làm:
5. "Hãy cho ta biết
ác nghiệp nào được làm bởi thân, khẩu và ý của ngươi?
do kết quả của nghiệp nào khiến người ăn thịt những đứa
con của ngươi?
Chú giải:
5. Ở đây, chữ ÁC
NGHIỆP (Dukkhata.m): ác hạnh. DO KẾT QUẢ CỦA NGHIỆP NÀO?
(Kissa kammavipaa kena): Do kết quả của loại nghiệp nào, nghĩa
là ngươi đã sát sanh hay làm một nghiệp nào khác như trộm
cắp v.v...?
Rồi quỉ nữ ấy kể
lại cho Trưởng lão nghe về nghiệp của nàng đã làm:
6. Người vợ chung
chồng của con đã có thai và con đã âm mưu làm việc ác để
hại nàng. Bị ô nhiễm trong tâm, con đã làm cho nàng sẩy
thai.
7. Cái bào thai được
hai tháng của nàng đã tuôn ra như máu. Rồi mẹ của nàng
tức giận và tập họp những quyến thuộc của bà ta lại; bà
ta bắt con phải thề và khiến họ nguyền rủa con.
8. Con đã nói một lời
dối trá kinh khủng khi nói lên lời thề ấy rằng: "Nếu
điều ấy do tôi làm thì xin cho tôi phải ăn thịt những đứa
con trai của tôi".
9. Chính do kết quả
của ác nghiệp ấy và do con đã nói dối, nên con đã ăn
thịt những đứa con trai của con và bị lấm nhơ bởi máu và
vật nhơ.
Chú giải:
6. Ở đây, NGƯỜI VỢ
CHUNG CHỒNG (Sapatii): nói về người đàn bà có chung một ông
chồng. Và con âm mưu gây ra ác nghiệp chống lại nàng,
chống lại người vợ chung chồng ấy. BỊ Ô NHIỄM TRONG TÂM
(Padu.t.thamanasaa): Với ý định xấu hay với tâm ô nhiễm.
7. HAI THÁNG TUỔI
(Dvemaasiko): khi đã được an trú trong bào thai được hai tháng,
chính là hai tháng tuổi. CHẢY RA Y NHƯ MÁU (Lohita~n~neva
Paggharii): Khi nó bị hư nó trở nên y như máu và bị trôi ra.
RỒI MẸ CỦA NÀNG NỔI GIẬN ÐỐI VỚI CON VÀ TẬP HỌP BÀ
CON CỦA BÀ TA LẠI (Tad assà maataa Kupitaa Mayaha.m~naatii
Samaanayi): Rồi mẹ của người vợ thứ tức giận và mời
những quyến thuộc của bà ta lại. Một cách đọc chuyển đổi
là Tad'assaa mà chia ra thành hai chữ là Tato-Assaa (nhân đó...
của nàng). VÀ KHIẾN HỌ CHỬI MẮNG (Paribhaasaapayi ca ): Và
khiến họ đe doạ con.
8. CON ÐÃ NÓI DỐI KHI
CON NÓI LỜI THỀ ẤY (Sapatha.m Musaavaada.m Abhaasissa.m): con đã
nói dối khi nói lời thề ấy, nghĩa là không có sự chân
thật trong sự nói ra của con, con đã không nói đúng điều mà
con thực sự đã làm, khi nói rằng, " Nếu điều này do tôi
làm thì xin cho tôi có thể như thế như thế." NẾU ÐIỀU
NÀY DO TÔI LÀM THÌ XIN CHO TÔI CÓ THỂ ĂN THỊT NĂM ÐỨA CON
CỦA TÔI (Puttama.m saani khaadaami sac'eta.m pakata.m mayaa): Như
vậy điều này cho thấy tánh chất của lời thề được nói
ra, nghĩa là nếu điều ác này, sự sẩy thai này, được làm
bởi tôi, thì tôi có thể ăn thịt không gì khác ngoài thịt
của những đứa con trai của tôi, trong kiếp sống tương lai
của tôi.
9. CỦA CÁI ÐÓ (Tassaa):
của nghiệp sát sanh được gieo tạo bằng sự làm sẩy thai
ấy. VÀ DO VÌ TÔI ÐÃ NÓI DỐI (Musaavaadassa ca ): và do hành động
nói dối ấy. TÔI BỊ LÀM BẨN BỞI MÁU VÀ VẬT NHƠ
(Pubbalohitamakkhitaa): Tôi ăn thịt những con trai của tôi sau
khi tôi đã trở nên nhơ bẩn bởi máu và vật nhơ, do sanh đẻ
và hành động xé xát những đứa con - đây là cách nên được
hiểu.
Khi Ngạ quỉ nữ đã nói
rõ những nghiệp của nàng, nàng bèn nói một lần nữa
rằng: "Bạch Ðại Ðức, con đã từng là vợ của người
đàn ông có của cải đó trong chính ngôi làng này, nhưng con
đã sanh lòng ganh tỵ, đã làm điều ác và đã sanh trong cõi
Ngạ quỉ. Bạch Ðại đức, xin ngài hoan hỷ đi về nhà của
người đàn ông có của cải ấy. Người ấy sẽ dâng cúng
đến Ngài những vật thí. Rồi bảo người ấy hồi hướng
phước thí cho con. Nhờ cách này, con sẽ được thoát khỏi
đây, khỏi cõi Ngạ quỉ này". Khi những vị Trưởng lão
nghe qua điều này, họ đi vì thương hại cho nàng và có lòng
bi mẫn, và đi vào nhà của người đàn ông có của cải ấy
để khất thực. Khi người đàn ông có của cải ấy trông
thấy các vị Trưởng lão đầy tịnh tín, ông ta đi ra để
đón tiếp các Ngài, cầm bát của các Ngài, mời các Ngài
ngồi và dâng đến các Ngài vật thực thượng vị. Những
vị Trưởng lão thuật lại biến cố đã xảy ra cho người
đàn ông biết và bảo ông ta hồi hướng phước thí ấy đến
Ngạ quỉ nữ. Ngay khi ấy Ngạ quỉ nữ hết đau khổ. Khi
được sự thù thắng cao tột, nàng hiện ra trong đêm ấy cho
người đàn ông có tài sản trông thấy. Những Trưởng lão
sau khi đã đi đến Saavatthi, nêu ra vấn đề ấy với đức
Thế tôn. Ðức Thế Tôn lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân
cần thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh pháp cho hội
chúng đã tụ hợp ở đó. Thời pháp ấy đem lợi ich cho
những người ấy.
-ooOoo-
I.7. THỰC
THẤT NHI QUỈ SỰ
"Ngươi trần truồng
và có hình tướng ghê tởm".
Pháp thoại này được
Bậc Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ tại
Saavatthi, liên quan đến một Ngạ quỉ nữ ăn thịt bảy đứa
con trai của nàng.
Tương truyền rằng,
trong một ngôi làng nọ không cách xa thành Saavatthi, có một tín
nữ có hai đứa con trai đều trẻ trung, xinh đẹp, có đạo
đức có hạnh kiểm tốt. Người mẹ của hai đứa con coi thường
người chồng vì ỷ về những đứa con trai của nàng, khi nghĩ
rằng. "Ta được sở hữu những đứa con trai". và ông
ta, sau khi bị bà ta coi thường nhiều, bèn dẫn về một người
vợ khác mà không bao lâu sau cũng có thai. Người vợ trước
sanh lòng ganh tỵ và thuyết phục một vị y sĩ nọ, bằng cách
trả một món tiền hối lộ, để gây ra sự sẩy thai cho cái
phôi được ba tháng tuổi nơi người vợ kế. Bấy giờ, khi
được hỏi bởi người chồng của nàng và những quyến
thuộc rằng liệu nàng có chịu trách nhiệm về cái thai của
người đàn bà kia không, nàng bèn nói dối và phủ nhận
việc đó rằng: "Tôi không chịu trách nhiệm". Họ
tin nàng và nói rằng, "Thế thì hãy thề đi!" Nàng
thốt lên lời thề: "Nếu tôi có làm như vậy xin, cho tôi
sanh mỗi buổi sáng và chiều bảy đứa con trai, và tôi sẽ
ăn thịt những đứa con ấy; Xin cho tôi luôn luôn có mùi
thối tha và bị vây quanh bởi những con ruồi!" Ðến đúng
thời kỳ, nàng chết và sanh trong cõi Ngạ quỉ do quả của nàng
về việc làm sẩy thai và do sự nói dối của nàng. Nữ quỉ
đi lang thang không cách xa chính ngôi làng ấy, ăn thịt những
đứa con trai của nàng theo cách như đã nói trước. Bấy
giờ trong cùng thời gian ấy, những vị Trưởng lão mà đã
an cư trong mùa mưa ở trong cùng ngôi làng ấy và đang trên
đường đi đến Saavatthi để yết kiến Bậc Ðạo sư, đến
nghỉ đêm tại một chỗ không cách xa chính ngôi làng ấy.
Ngạ quỉ nữ hiện hình trước các vị Trưởng lão và vị
Trưởng lão lớn nhất hỏi nàng bằng câu kệ này:
1. "Ngươi trần
truồng và có hình tướng gớm ghê; ngươi toả ra mùi xú
uế. Ngươi bị bu quanh bởi những con ruồi - Bây giờ người
là ai, ngươi là ai mà đang đứng ở đây?
Khi được hỏi bởi Trưởng
lão, nàng trả lời vị ấy bằng ba câu kệ:
2. Bạch Ngài, Con là
một Ngạ quỉ nữ, đã đi đến khổ cảnh trong cõi yama. Con
đã ra đi từ đây đến cõi Ngạ quỉ.
3. Vào lúc sáng sớm con
sanh ra bảy đứa con trai và vào lúc chiều lại con sanh thêm
bảy đứa khác nữa- Dầu con đã ăn thịt tất cả chúng,
ngay cả những đứa này cũng không đủ cho con.
4. Tim của con sôi sục,
bị thiêu đốt bởi cơn đói và con không thể có được sự
nguôi ngoai; con bị hành hạ tựa như bị đốt cháy bởi
lửa.
Chú giải:
Ở đây, SỰ NGUÔI NGOAI
(Nibbutim): sự làm vơi giảm đau khổ của cơn đói và khát.
CON KHÔNG THỂ KIẾM naadhigacchaami: con không thể được cái gì,
con bị hành hạ tựa như bị đốt cháy bởi NGỌN LỬA
(aggida.d.dhaa va atape): Con bị hành hạ bởi sức nóng cùng
cực tựa như con đang bị đốt cháy bởi lửa (Bởi vì) con
không thể có được sự nguôi mgoai - đây là cách nên được
hiểu.
Khi nghe qua điều này, Trưởng
lão thốt lên câu kệ này để hỏi nàng về nghiệp mà nàng
đã làm:
5. "Bây giờ ác
nghiệp nào được làm bởi ngươi bằng thân, khẩu và ý? Do
kết quả của nghiệp nào khiến ngươi ăn thịt những đứa
con của ngươi?"
Rồi nữ ngạ qủi ấy nói
lên những câu kệ này để kể lại cách mà nàng đã tái
sanh trong cõi ngạ qủi và lý do khiến nàng ăn thịt những đứa
con:
6. "Con có hai đứa
con trai mà cả hai đều đến tuổi thành niên; vì ỷ vào
quyền uy của những đứa con trai, con đã coi thường chồng
của con.
7. Nhân đó chồng của
con tức giận và lấy một người khác làm vợ hầu; khi nàng
có thai, con đã âm mưu gây ra một ác nghiệp để hại nàng.
8. Bị ô nhiễm trong tâm,
con khiến cho nàng sẩy thai và cái phôi ba tháng của nàng rơi
xuống như máu tanh.
9. Rồi mẹ của nàng
tức giận trước cảnh này và hội họp những quyến thuộc
của bà ta lại; bà ta bắt con phải thề và khiến họ chửi
mắng con.
10. Con đã nói một lời
dối trá kinh khủng khi con nói lời thế ấy rằng, nếu điều
này được làm bởi con thì xin cho con ăn thịt những đứa
con trai của con.
11. Chính do cả kết
quả của việc làm ấy và do bởi sự kiện rằng con đã nói
dối khiến con ăn thịt những đứa con trai của con và con
bị lấm nhơ bởi máu và vật nhơ.
Chú giải:
6. Ở đây CÓ ÐƯỢC UY
QUYỀN CỦA NHỮNG CON TRAI CỦA CON: puttabaluupetaa = puttabalena
upeta (cách kết hợp): uy quyền do những đứa con của nàng mà
có. CON BÀY MƯU (atima~n~nissa.m): Con đã nói chống lại, con đã
miệt thị.
8. RƠI XUỐNG NHƯ MÁU
TANH HÔI (Puutilohitako pati): Cái phôi rơi xuống sau khi trở thành
cái xác chết đầy máu.
Tất cả phần còn lại
cũng giống như phần trước, chỉ có điều khác biệt là có
Tám Trưởng lão trong khi ở đây thì có nhiều vị Trưởng lão;
và câu chuyện trước thì có năm đứa con trai trong khi ở đây
thì có đến bảy đứa.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |