[1.4]
I.11 TƯỢNG
QUỶ SỰ
(NAAGA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Người đi ở trước
trên một con voi trắng."
Pháp thoại này được bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngự ở Jetavana, liên
quan đến hai Ngạ quỉ mà đã từng là những vị Bà la môn.
Tương truyền rằng, vị
Ðại Ðức bảy tuổi sa.mkicca đã chứng đắc đạo quả A la
hán trong khi vẫn còn ở trong nhà cạo tóc và đang sống như
một vị Sa Di với ba mươi vị Tỳ kheo trong một khu rừng.
Sau khi vị ấy đã bảo vệ các vị Tỳ kheo ấy thoát khỏi
cái chết gần kề từ tay của năm trăm tên cướp và đã thuần
phục những tên cướp, truyền phép xuất gia cho chúng, vị
ấy đi đến trước mặt Bậc Ðạo sư.
Bậc Ðạo sư thuyết pháp
đến các Tỳ kheo và vào lúc kết thúc thời pháp ấy, họ chứng
đắc đạo quả A la hán. Rồi khi Ðại Ðức sa.mkicca đã đủ
tuổi và đã thọ cụ túc, vị ấy đi đến Ba la nại với
năm trăm vị Tỳ kheo và trú ngụ ở Isipatana . Dân chúng đi
đến trước mặt Trưởng lão để nghe pháp, và tự sắp
thành những nhóm dọc theo những con đường, bố thí những vật
thực đến những người mới đến. Một vị Thiện nam nọ
ở đó ra sức thuyết phục mọi người cung cấp thường xuyên
vật thực, và họ cung cấp vật thực thường xuyên này theo
khả năng của họ.
Bấy giờ tại Ba la nại
có một vị Bà la môn có tà kiến, có hai đứa con trai và một
đứa một đứa con gái. Ðứa con trai lớn trong ba đứa này
là một người bạn của vị Thiện nam ấy. Vị ấy dẫn anh
ta đến trước mặt Ðại Ðức sa.mkicca, và Ðại Ðức
Sa.mkicca thuyết pháp cho anh ta, nhờ đó tâm của anh ta trở
nên mềm mại; Rồi vị Thiện nam nói với anh ta rằng, "bạn
nên bố thí vật thực thường xuyên đến một vị Tỳ
kheo". "Tục lệ dành cho những vị Bà la môn là không
cho vật thực thường xuyên đến những vị Sa môn nào trong
những con trai của dòng thích ca, bởi vậy tôi sẽ không cho
đâu". "Ngay cả tôi ông cũng không cho vật thực sao?
Vị ấy hỏi. "Làm sao tôi không thể cho nó được",
anh ta đáp lại. "Trong trường hợp ấy, hãy cho đến một
vị Tỳ kheo cái gì mà anh định cho đến tôi". "Tốt
lắm", Anh ta đồng ý và vào ngày hôm sau, trong khi trời vẫn
còn rất sớm, anh ta đi đến tịnh xá, kiếm về một vị Tỳ
kheo và cúng dường vật thực đến vị ấy. Trải qua một thời
gian như thế, người em trai và em gái trông thấy những hạnh
kiểm của Tỳ kheo và nghe pháp và, khi tìm thấy đức tin
trong giáo Pháp, lấy làm thoả mãn trong những việc phước.
Như vậy ba người này, khi cúng dường vật thực theo khả
năng của họ, tôn kính, sùng mộ, và tôn trọng các vị Tỳ
kheo, và tôn trọng các vị Bà la môn trẻ. Tuy nhiên, cha mẹ của
họ chẳng có niềm tin, cũng chẳng có tâm đạo, không có
lòng tôn kính đến các vị Sa môn và Bà la môn, và không quan
tâm đến sự thực hành những việc phước. Những quyến thuộc
yêu cầu rằng, đứa con gái trẻ của họ nên gả cho người
bà con bên mẹ của nàng. Nhưng người ấy nghe pháp trước mặt
Ðại Ðức Samkicca, và đầy xúc động, thường xuyên mang
bát đến nhà của mẹ để ăn cơm. Mẹ của vị ấy ra sức
dụ dỗ vị ấy lấy người em gái bà con bên mẹ. Do bởi điều
này, vị ấy trở nên bất mãn và đi đến ông thầy của vị
ấy và nói rằng, "Bạch Ngài, con muốn hoàn tục, xin hãy
chấp thuận cho con". Thầy hoà thượng của vị ấy, khi
thấy rằng vị ấy có khả năng để trở thành một vị
saavaka, bèn nói rằng, "Hãy đợi chỉ trong một tháng
thôi, này ông Sa Di". "Lành thay", vị ấy đồng ý
và, khi một tháng đã trôi qua, vị ấy lại nói với thầy
hoà Thượng theo cùng cách ấy. Thầy hoà thượng lại nói rằng:
"Hãy đợi thêm nửa tháng nữa" khi nửa tháng đã
trôi qua và ông thầy Hoà thượng lại được nói như vậy, và
vị ấy nói rằng, "hãy chờ một tuần". "Lành
thay", người kia đồng ý. Trong một tuần ấy nhà của người
cô của vị Sa Di bị sập vì cái mái hư của nó và những bức
vách cũ kỹ yếu ớt của nó bị gió và mưa thổi vào, và Vị
Bà la môn cùng vợ của ông ta, hai đứa con trai và con gái của
họ bị chết khi bị nhà sập đè xuống. Trong những người
này, vị Bà la môn và vợ của ông ta sanh trong cõi Ngạ quỉ,
trong khi hai đứa con trai và con gái của họ sanh trong cõi chư
Thiên địa cầu. Trong những vị chư Thiên này, đứa con trai
lớn sanh ra cỡi trên một con voi, đứa em trai thì sanh ra trong
một chiếc xe được kéo bởi một con lừa và đứa em gái
thì ở trong một cái kiệu bằng vàng. Vị Bà la môn và vợ
ông ta, mỗi người cầm những cái búa tạ bằng sắt khổng
lồ và đánh vào nhau, và những vết sưng phồng, mỗi vết bằng
cái lu nước khổng lồ lại sanh lên ở những chỗ mà họ bị
đánh, lâm vào cơn khủng hoãn trong một tình trạng nghi nghi
hoặc hoặc và rồi thình lình hiện ra. Họ lại làm vỡ những
vết bầm của nhau, giận dữ và nguyền rủa lẫn nhau bằng
những lời thô lỗ, uống máu và mủ, tuy nhiên vẫn không thấy
thoả mãn.
Rồi vị Sa Di vẫn bị
chế ngự bởi lòng bất mãn, đi đến thầy hoà Thượng của
vị ấy và nói rằng, "Bạch Ngài, con đã đợi sự đồng
ý trong nhiều ngày; Nay con muốn về nhà, xin ngài hãy đồng
ý cho con". Rồi thầy Hoà Thượng của vị ấy nói rằng,
"Hãy đến đây vào lúc mặt trời lặn, khi đ?n ngày thứ
mười bốn của tháng hạ huyền", và đi đến đứng một
lát ở đằng sau của tịnh xá Isipatana . Lúc bấy giờ hai vị
chư Thiên ấy đang đi, cùng với đứa em gái của họ, dọc
theo cùng con đường ấy, để tham dự vào cuộc họp của dạ
xoa. Mẹ và cha của họ đã theo họ với những cây gậy trong
tay và với những lời nói thô lỗ. Họ có tướng mạo tối
đen, bị đè nặng bởi những mớ tóc rối bù gớm guốc và
tung bay, và giống như những thân cây thốt nốt bị đốt cháy
do bị tia chớp giáng xuống. Họ bị chảy máu, mủ nhỏ giọt
và thân của họ nhăn nheo, trông họ như một cảnh tượng gớm
guốc và ghê rợn. Rồi Ðại Ðức Sa.mkicca thị hiện thần
thông để vị Sa Di có thể trông thấy tất cả họ đang đi
và, khi vị ấy đã làm như thế bèn nói rằng, "Này ông
Sa Di, ngươi có trông thấy họ đang đi không?" "Thưa
vâng, bạch Ngài, con trông thấy họ". "Thôi được, hãy
hỏi họ về những nghiệp mà họ đã làm". Vị ấy lần
lượt hỏi những người đang đi như thế, bắt đầu từ
người đang cỡi trên con voi. "Ngài nên hỏi những Ngạ
quỉ đang đi theo ở đằng sau", họ nói. Và vị Sa Di nói
với những Ngạ quỉ bằng những câu kệ này:
1. Người đi trước trên
một con voi trắng, tuy nhiên người đi giữa thì ở trong một
chiếc xe được kéo bởi một con lừa, ở đằng sau là một
thiếu nữ được khiêng đi trong một chiếc kiệu bằng vàng,
hoàn toàn chiếu sáng cả trong mười phương.
2. Nhưng các người, với
cái búa tạ trong tay, với những khuôn mặt đầy nước mắt
và thân bị nứt nẻ và xây sát, ác nghiệp nào các ngươi đã
làm trong khi các ngươi còn ở trong cõi người, mà do đó các
ngươi phải uống máu lẫn nhau?
Chú giải:
1. Ở đây, chữ Ở TRƯỚC
(Purato): ở trước tất cả. Trắng (Setena): Có màu sắc nhạt.
NGƯỜI ÐI TỚI, (Paleti): Người đi. TUY NHIÊN Ở GIỮA (Majjhe
pana): ở giữa là người cỡi trên con voi và người trong chiếc
kiệu. TRONG CHIẾC XE ÐƯỢC KÉO BỞI CON LỪA (assatariirathena):
Người đi bằng chiếc xe được thắng ách bằng những con lừa
cái. - Ðây là cách nên được hiểu. ÐƯỢC DẪN ÐI
(Niiyati): được chở đi. HOÀN TOÀN RỰC SÁNG TRONG MƯỜI
PHƯƠNG (obhaasayantii dasa sabbato disaa): Chiếu sáng ra trong khắp
cả mười phương với hào quang từ thân của nàng, từ y phục
và những nữ trang của nàng v.v... VỚI THÂN THỂ BỊ NỨT NẺ
VÀ XÂY XÁT (Bhinnapabhinnagattaa): với những tấm thân bị nứt
nẻ và xây xát khắp cả bởi những nhát búa đánh vào.
Khi được hỏi như vậy
bởi vị Sa di, những Ngạ quỉ đáp lại bằng bốn câu kệ,
để kể lại toàn thể câu chuyện:
3. "Người mà đi
trước trên một con voi, trên con bạch trượng có bốn chân,
người ấy là đứa con trai của chúng tôi. Sau khi đã bố
thí vật thực, bây giờ vị ấy được hạnh phúc và vui sướng.
4. Người mà đi ở giữa
trong một chiếc xe được kéo bởi lừa có thắng bốn ách,
đang phi nước đại, vị ấy là đứa con trai thứ hai của chúng
tôi. Là người không bỏn xẻn và là bậc thầy trong việc thực
hành bố thí, bây giờ vị ấy chiếu sáng rực rỡ.
5. Cô gái ở đằng sau
được khiêng đi trong một chiếc kiệu, cô thiếu nữ với đôi
mắt dịu dàng của con nai, nàng là con gái của chúng tôi và
là đứa sanh chót. Nhờ đã làm thoả mãn bởi nửa phần ăn
của nàng, bây giờ nàng hạnh phúc và vui sướng.
6. Như vậy trong quá khứ,
họ đã cúng dường vật thực, với lòng tịnh tín trong tâm
của họ, đến các vị Sa môn và Bà là môn. Tuy nhiên, chúng
tôi thì ích kỷ và hay lăng mạ các vị Sa môn và Bà la môn.
Họ đã bố thí và bây giờ làm hài lòng chính họ, trong khi
chúng con thì bị héo úa như cây sậy bị đốn ngã.
Chú giải:
3. Ở đây NGƯỜI MÀ ÐI
Ở ÐÀNG TRƯỚC (Pu rato' vu yo gacchati) người đi ở đằng
trước của những người đang lũ lượt đi. TRÊN MỘT CON VOI
(Ku.narena): trên một con voi (Hatthinaa, mà đã có nói trên tên
là (Ku~njara) bởi vì nó mang đến địa hình, quả đất, s? tiêu
diệt, (Ciirayati hay thay vào đó vì nó ở trong những thung lũng
(Ku~njesu) nên nó vui sướng, (Ramati) nên nó đi rảo quanh. TRÊN
MỘT CON VOI (Naagena): con voi ấy, con (Naaga) mà không có chỗ
nào có thể đến gần nó được và đối với nó không có
điều gì mà nó không thể chinh phục được. BỐN CHÂN
(Catukkamena): Có bốn chân cả thảy, NGƯỜI CÓ TRƯỚC
(Getthako): Người sanh trước.
4. CÓ BỐN CÁI ÁCH
(Catubbhii): được thắng ách bởi bốn con lừa cái. PHI NƯỚC
ÐẠI (Suvaggitena) di chuyển đẹp mắt, di chuyển nhanh chóng.
5. VỚI ÐÔI MẮT DỊU
DÀNG CỦA MỘT CON NAI (Migamandalocanaa): mắt nhìn ra một cách dịu
dàng như đôi mắt của con nai cái, BẰNG NỬA PHẦN ĂN CỦA NÀNG:
Bhaaga.d.dhabhaagena = bhaagassa a.d.dhabhaagena (Cách nối kết): lý
do là nàng đã cho đi nửa phần ăn đã nhận lãnh cho chính
nàng. HẠNH PHÚC: (Sukhii = Sukhinii): điều này được nêu ra
ở đây có sự méo mó về giới tính.
6. HAY CHỬI MẮNG
(paribhaasakaa) hay lăng mạ. BÂY GIỜ CHÚNG TỰ LÀM HÀI LÒNG
(paricaarayanti) Chúng làm thoả mãn các căn của chúng theo ý
thích, bất cứ chỗ nào chúng muốn, bằng những dục lạc của
chư Thiên, hay chúng vui chơi (Paricariya.m kaarenti) với những tuỳ
tùng của chúng do bởi quả thù thắng về những thiện nghiệp
của chúng. TRONG KHI CHÚNG TÔI THÌ BỊ HÉO ÚA NHƯ CÂY SẬY BỊ
ÐỐN HẠ (Maya~nca sussaama na.lo va chinno): nhưng chúng tôi thì
tàn tạ như cây sậy đã bị đốn hạ và bị đặt xuống
trong ánh nắng của mặt trời, chúng tôi bị thiêu đốt và bị
khô héo bởi cơn đói và khát, do bởi những cú đánh nhừ tử
(mà chúng tôi nhận lãnh của nhau).
Khi họ đã làm sáng tỏ
những ác nghiệp của họ như vậy, sau đó họ nói cho vị
ấy biết rằng họ là dì và dượng của vị Sa di ấy. Khi
nghe qua điều này, đầy xúc động, vị sa di bèn thốt lên
câu kệ này để hỏi cách làm sao vật thực có thể được
làm để có thể dùng được đối với những người làm
ác:
7. Vật thực của các người
là gì? giường ngủ của người như thế nào? Các người tự
nuôi sống bằng cách nào, các người là người có tánh rất
ác, dầu sống giữa nhiều của cải, lại bỏ qua cơ hội hạnh
phúc của các ngươi, và ngày hôm nay phải đi đến chỗ đau
đớn?
Chú giải:
7. Ở đây VẬT THỰC CỦA
CÁC NGƯỜI LÀ GÌ? (Kim tumhaaka.m bhojana.m): vật thực của các
người thuộc loại nào? GIƯỜNG NGỦ CỦA CÁC NGƯỜI NHƯ THẾ
NÀO? (Ki.m Saayaana.m): giường ngủ của các ngươi thuộc loại
nào? một số người đọc là: sự ngủ nghỉ của các người
như thế nào? (Ki.m Saayaana.m): loại giấc ngủ nào của các ngươi,
nghĩa là các ngươi ngủ bằng loại giường nào? CÁC NGƯƠI TỰ
NUÔI SỐNG BẰNG CÁCH NÀO? (Katha.m su yaapetha): các ngươi tự
nuôi sống bằng cách nào? CÁC NGƯƠI LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ
TÁNH RẤT ÁC (Supaapadhammino): Các ngươi là những người có
tánh ác vô cùng. DẦU SỐNG GIỮA NHIỀU CỦA CẢI
(Pahuutabhogesu): Dầu sống trong nhiều của cải. Dầu ở trong
vô số của cải.
Khi được hỏi như vậy
bởi vị Sa di, những Ngạ quỉ ấy nói lên những câu kệ
này để trả lời những vấn đề mà vị ấy hỏi về:
8. "Khi chúng tôi đã
đánh nhau rồi, thì chúng tôi sẽ uống máu và mủ; chúng tôi
uống nhiều nhưng chúng tôi không được no đủ, chúng tôi
không được hài lòng.
9. Thực ra, những kẻ
phàm phu không có lòng bố thí cũng ta thán sau khi chết- chúng
trở thành những tội đồ của Yama (Diêm Vương); những người
mà đã biết và đã dành được của cải rồi, nhưng lại không
sử dụng nó, thậm chí cũng không làm những việc phước.
10. Về sau những người
này chịu đói và khát; những Ngạ quỉ ấy cháy nóng, bị
thiêu đốt trong một thời gian dài. Sau khi đã tạo những
nghiệp dẫn đến quả đau khổ, quả cay đắng, chúng chịu
đau khổ".
11. Quả thật vậy, những
của cải và những ngũ cốc tồn tại thật ngắn ngủi và đời
sống của người ta ở đây cũng trôi qua nhanh; khi biết những
pháp có tánh chất thay đổi là vô thường, Bậc Trí Tuệ
nên tạo ra một chỗ nương tựa.
12. Những người mà hiểu
được điều này là những người thông hiểu giáo Pháp; khi
đã nghe những lời vàng ngọc của các vị A la hán, họ
không coi thường việc bố thí vật thực.
Chú giải:
8. Ở đây, CHÚNG TÔI
KHÔNG ÐƯỢC NUÔI DƯỠNG (Na dhaataa homa): Chúng tôi không được
nuôi dưỡng, không được thoả mãn, không vừa lòng. KHÔNG ÐƯỢC
THÍCH THÚ: Naruccaadimhase = Na ruccaama (hình thức văn phạm chuyển
đổi); Chúng tôi không có được sự an lạc, nghĩa là chúng
tôi không uống nó cho thoả thích.
9. BỞI VẬY, THỰC RA
(icc'eva) bằng chính cách này. NHỮNG KẺ PHẢI CHẾT CŨNG TA THÁN
(Maccaa paridevayanti): Những người khác cũng vậy, là những người,
như chúng tôi, cũng đã làm những điều bất chánh, cũng ta
thán và kêu gào. KHÔNG CÓ LÒNG BỐ THÍ (Adaayakaa): ích kỷ,
không có đức quảng đại. CHÚNG TRỞ THÀNH NHỮNG THẦN DÂN
CỦA Yama (Yamassa .thàyino): Bản tánh của chúng là phải ở
trong cõi Ngạ quỉ, chỗ ngụ của Yama (Diêm Vương), được mệnh
danh là cõi của Yama . NHỮNG NGƯỜI MÀ ÐÃ BIẾT VÀ ÐÃ CÓ
ÐƯỢC CỦA CẢI (Ye te viditvaa adhiga.mma bhoge): Những người
đã biết và đã có của cải để đem lại hạnh phúc phi thường,
cả bây giờ lẫn mai sau. NHƯNG LẠI KHÔNG DÙNG ÐẾN NÓ, THẬM
CHÍ CŨNG KHÔNG LÀM NHỮNG VIỆC PHƯỚC (Na bhu~njare nà'pi'karontipu~n~na.m):
Nhưng là người, như chúng tôi, không tự mình dùng nó, thậm
chí cũng không làm những việc phước về sự bố thí vật
thực bằng cách cho đến những người khác.
10. VỀ SAU NHỮNG NGƯỜI
NÀY CHỊU ÐÓI VÀ KHÁT (Te khuppipaasuupagataa parattha): những
chúng sanh này bị chế ngự bởi sự muốn ăn và bởi sự
khát về sau, ở cõi Ngạ quỉ, trong kiếp sau. NHỮNG NGẠ QUỈ
ẤY NÓNG CHÁY, BỊ THIÊU ÐỐT TRONG MỘT THỜI GIAN DÀI (Cira.m
jhaayare dayhamaanaa): Nghĩa là những Ngạ quỉ ấy, bị đốt cháy,
chúng than khóc, bị thiêu đốt liên tục bởi ngọn lửa của
lương tâm bất an, khi nghĩ rằng "than ôi! Chúng ta đã
không làm những việc thiện, chúng ta chỉ làm những việc
ác mà thôi" và bởi ngọn lửa đau khổ do bởi cơn đói
của chúng gây ra. ÐEM LẠI ÐAU KHỔ (anubhonti dukkha.m
katukapphalaani): Sau khi đã làm việc ác đem lại quả cay đắng,
chúng chịu đau khổ, chúng chịu trạng thái đau khổ trong cõi
khổ, trong một thời gian dài.
11. CÓ ÐỜI SỐNG NGẮN
NGỦI (ittara.m): không tồn tại lâu, vô thường, chịu sự
thay đổi; MẠNG SỐNG CỦA CON NGƯỜI TRÔI QUA NHANH Ở ÐÂY
(ittara.m idha jiivita.m): Mạng sống của chúng sanh ở đây,
trong cõi người này, đang trôi nhanh, Có hạn kỳ, ngắn ngủi.
Vì lý do này mà Ðức Thế Tôn nói rằng. "Người mà sống
lâu, chỉ sống một trăm năm hoặc lâu hơn một chút."
KHI BIẾT CÁC PHÁP CÓ TÁNH CHẤT THAY ÐỔI LÀ VÔ THƯỜNG
(Ittara.m ittaro ĩaatvaa): Khi biết chắc bằng trí tuệ rằng,
các pháp hữu vi như của cải và ngũ cốc v.v... Và mạng sống
của con người là đang trôi nhanh, hữu hạn, ngắn ngủi, và
không tồn tại lâu dài. NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ NÊN TẠO RA MỘT
CHỖ NƯƠNG TỰA (diipa.m Kariyaatha pa.n.dito): Người có trí tuệ
nên tạo ra một chỗ nương tựa, một chỗ chống đỡ, đó sẽ
là nền tảng hạnh phúc và lợi ích trong đời sau.
12. NHỮNG NGƯỜI HIỂU
BIẾT ÐIỀU NÀY (ye te eva.m pa jaananti) những người mà thật
sự giác ngộ tánh chất thay đổi của đời người và của
cải, họ không nên dễ duôi trong việc bố thí luôn khi. KHI
ÐÃ NGHE NHỮNG LỜI VÀNG CỦA CÁC BẬC A LA HÁN (Sutvaa arahata.m
vaco): nghĩa là khi đã nghe những lời của các vị A la hán, của
các bậc thánh nhân như chư Phật v.v... Phần còn lại quá rõ
rồi.
Khi những Ngạ quỉ ấy
đã giải thích những vấn đề mà chúng đã được hỏi bởi
vị Sa di, chúng nói rằng. "Chúng tôi là dượng và dì của
ngài". Khi vị ấy nghe qua điều này, vị Sa di đầy xúc
động, di?t trừ tâm thối thất của vị ấy và gục đầu
dưới chân thầy hoà thượng mà nói rằng, "Bạch Ngài, bất
cứ lòng thương tưởng nào nên được cho đến do bởi lòng
bi mẫn, đã được Ngài cho đến con, thì chắc chắn con được
bảo vệ không bị rơi vào trong nỗi bất hạnh lớn. Bây giờ,
con không còn thích thú trong đời sống gia đình và sẽ thấy
vui thích trong đời sống phạm hạnh". Ðại đức
Sa.mkicca cho người đệ tử một đề mục thiền định thích
hợp với tâm tánh của vị ấy. Nhờ chuyên tâm với đề mục
thiền định ấy, không bao lâu vị Sa di chứng đắc Ðạo quả
A la hán. Ðại đức Sa.mkicca nêu lên vấn đề ấy với đức
Thế Tôn. Bậc Ðạo sư lấy vấn đề ấy làm nguyên nhân cần
thiết đã sanh lên và thuyết giảng chánh pháp một cách tỉ
mỉ đến hội chúng hội họp ở đó. Thời pháp ấy đem lại
lợi ích cho những người hội họp ở đó.
-ooOoo-
I.12 XÀ QUỈ
SỰ
(URAGA PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Cũng như con rắn sau khi quăng bỏ cái vỏ cũ
kỹ của nó"
Pháp thoại này được Bậc
Ðạo sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở Jetavana, liên
quan đến một thiện Nam nọ.
Tương truyền rằng, tại
Savatthi đứa con trai của một vị thiện nam nọ đã chết. Ðầy
ưu bi, ông ta ta thán về cái chết của đứa con trai; Ông ta
chỉ ở trong nhà, chẳng đi ra ngoài cũng không thể làm công
việc gì. Rồi khi vào lúc hừng sáng, Bậc Ðạo sư đã xuất
khỏi đại bi định và đang dò xét thế gian bằng Phật nhãn
của Ngài, trông thấy vị thiện nam ấy. Ngài mặc y vào lúc
sáng và khi mang y Tăng-Già-Lê và bát, đi đến đứng cửa nhà
của ông ta. Khi vị Thiện nam nghe tin Bậc Ðạo sư đã đến,
ông ta vội vàng đứng dậy và đi ra đón Ngài. Ông ta lấy
bát từ tay của Ngài, thỉnh Ngài vào nhà và dâng đến Ngài
chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Ðức Thế Tôn ngồi trên chỗ
ngồi đã được soạn sẵn và vị thiện nam ngồi đảnh lễ
Ðức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ðức Thế Tôn nói
rằng: "Này ông thiện nam, tại sao ông trông có vẻ như
người bị ưu bi vậy". "Thưa vâng, bạch Ðức Thế
Tôn, đứa con trai yêu quí của con đã chết. Vì lý do này khiến
con ưu bi" ông ta đáp lại. Rồi đức Thế Tôn đọc bài
kinh Xà Bổn sanh với mục đích diệt trừ nỗi ưu bi của
ông ta.
Cách đây đã lâu, tại
Ba-la-nại trong vương quốc Kaa si, có một gia đình của một
Bà-la-môn nọ tên là Dhammapaala, tất cả những người trong
gia đình gồm có: Vị Bà-la-môn, vợ của ông ta, đứa con
trai và con gái của ông ta, nàng dâu và cô tớ gái. Tất cả
đều có thói quen niệm về cái chết. Bất cứ khi nào có người
nào trong bọn họ đi ra ngoài, thì người ấy khuyên những người
còn lại trong gia đình và rồi ra đi mà không có sự vướng
bận gì. Rồi một ngày nọ, vị Bà-la-môn với đứa con trai
của ông ta đi ra đồng để cày trong khi đứa con trai của
ông ta châm lửa vào mớ củi và cỏ khô. Khi thấy đống lửa
này, một con rắn đen rất độc, do sợ bị cháy, bèn rời khỏi
bộng cây và cắn vào đứa con trai của ông Bà-la-môn. Cậu
ta té xỉu, do hiệu lực của nọc độc, ngã xuống ngay tại
đó và chết ngay sau đó, tái sanh làm Sakka, vua của chư Thiên.
Khi vị Bà-la-môn trông thấy đứa con trai đã chết của ông
ta, vị ấy nói với người đàn ông mà vị ấy trông thấy
đang đi qua gần chỗ mà vị ấy đang làm việc: "Này
ông, xin ông làm ơn đi về nhà của tôi và báo cho vợ của
tôi biết rằng, bà ta nên tắm rửa và mặc y phục cho sạch
sẽ, rồi đến đây với vật thực dành cho một người, và
mang theo tràng hoa, vật thơm v.v..." Người đàn ông kia đi
đến đó và báo cho bà biết tin, và những người trong gia đình
đã làm như ông ta nói. Vị Bà-la-môn tắm, độ thực và sức
dầu vào người và được vây quanh bởi những người hầu,
ông ta đặt xác của đứa con trai trên giàn hoả và châm lửa
vào đó, rồi đứng ở đó tựa như ông ta chỉ đốt một đống
củi mà thôi, chẳng có ưu bi hay sầu khổ gì, chỉ bằng tâm
chuyên chú vào ý nghĩ về vô thường.
Bấy giờ chính Bồ tát
của chúng ta lúc bấy giờ là con trai của ông Bà-la-môn, đã
sanh làm Sakka . Khi vị ấy quán niệm về những việc phước
mà vị ấy đã làm trong kiếp quá khứ của mình, vì cảm thấy
thương hại cho người cha của mình và những quyên thuộc,
bèn đi đến đó cải trang làm một vị Bà-la-môn. Vì thấy
quyế thuộc chẳng có người nào khóc than cho mình cả, vị
ấy bèn nói rằng, "Này các người, các người đang nướng
món thịt nai gì đấy. Xin làm ơn cho tôi một ít thịt nhé;
Tôi đói bụng lắm..." "chẳng phải thịt nai nướng
đâu, thưa ông Bà-la-môn, đó xác của một người đấy,"
ông ta đáp lại. "Có phải là kẻ thù của các người không?"
"Người ấy không phải là kẻ thù của tôi mà là ruột
thịt máu mủ của chính tôi, là đứa con trai còn trẻ có giơi
đức của tôi". "Tại sao ông không khóc than khi đứa
con trai còn trẻ có giới đức như vậy bị chết?" Khi
nghe qua điều này, vị Bà-la-môn thốt lên hai câu kệ này để
cho biết lý do khiến ông ta không khóc:
1. Như rắn bỏ đi lớp
vỏ già nua của nó, là thân của nó, và rồi tiếp tục đi,
vào lúc chết thì cái Peta, cái thân vô dụng của nó cũng vậy.
2. Cái mà đang cháy thì
không hay biết những lời ta thán của những quyến thuộc. Do
vậy tôi không khóc than cho nó; nó đã đi đến bất cứ chỗ
nào gọi là định nghiệp của nó".
1.
Như rắn lột bỏ vỏ
già,
Vỏ ấy cũng ví như là xác thân,
Và rồi tiếp tục du phương
Lúc chết cũng vậy, nắm xương ích gì!"
2.
Cái mà đang cháy hoại
đi,
Thì không hay biết lời gì thở than.
Do vậy tôi chẳng kêu oan,
Khóc cho cái nắm tro tàn con tôi.
Nó đã đi khỏi đây rồi.
Ðến nơi đã định cho đời mai sau".
Chú giải:
1. Ở đây CON RẮN
(Urago): Uraga là một từ mô tả dành cho loài rắn. CÁI VỎ
GIÀ NUA CỦA NÓ (Taca.m ji.n.na.m): da của nó, xác rắn lột của
nó, đã già, cũ hư, do bởi tình trạng lão hoá của nó. BỎ
ÐI CÁI VỎ CỦA NÓ VÀ RỒI ÐI TIẾP (hitvaa gacchati santanu.m):
cũng như con rắn bò qua giữa hai cây, hai nhánh, những rễ hoặc
những tảng đá, bỏ đi lớp vỏ già nua từ thân của nó mà
đang làm cho nó đau khổ, tựa như bỏ đi một cái áo chật
sát, và khi đã bỏ nó rồi và quăng qua một bên, rồi đi tiếp
theo ý thích; Cũng vậy chúng sanh trôi lăn trong vòng luân hồi,
bỏ đi tấm thân què quặc của người ấy, thân của các người
ấy, do hết nghiệp quá khứ của người ấy, và rồi đi tiếp
theo nghiệp của người ấy, nghĩa là người ấy sanh trong một
kiếp sống mới. CŨNG VẬY (eva.m): Ông ta nói điều này để
chỉ về xác thân đang cháy của đứa con trai. XÁC THÂN VÔ
ÍCH CỦA NÓ (Sariire nibbhoge): thân của nó mà đã mất sự lợi
ích của nó, nghĩa là không dùng được, cho người ấy, cũng
vậy nó cũng không có lợi ích cho những người khác. CÁI
PETA (Pete): Khi mạng quyền, hơi nóng và tâm thức đã đi rồi,
đã rời khỏi tấm thân rồi. VÀO LÚC CHẾT (Kaalakate sati) khi
người đã chết.
2. DO ÐÓ (tasmaa): Bởi sự
ra đi của tâm thức, tấm thân mà đang cháy không biết sự
đau đớn bị cháy và cũng vậy, sự khóc lóc và ta thán của
những quyến thuộc thân yêu. Do vậy, tôi không khóc để tạo
ra một cớ không đúng về đứa con trai của tôi. NÓ ÐÃ ÐI
ÐẾN BẤT CỨ CHỖ NÀO ÐÃ ÐỊNH SẴN CHO NÓ (gato so tassa yaa
gati): Tuy nhiên, những chúng sanh đã chết không phải là
không còn mạng sống; Nói đúng hơn, ngay sau khi chết, người
ấy đi đến bất cứ chỗ nào mà nghiệp của người đã chết
ấy tìm thấy cơ hội của nó. Người ấy không mong chờ sự
khóc lóc ta thán của những quyến thuộc trước kia của người
ấy, sự khóc lóc của những quyến thuộc trước kia nói
chung cũng chẳng đến đâu vào đâu cả - đây là ý nghĩa.
Khi vị Bà-la-môn đã cho
thấy tánh thuần thục của mình trong việc chú tâm hoàn toàn
về ý niệm vô thường như vậy, thì Sakka, trong lốt một vị
Bà-la-môn, nói với người vợ của vị Bà-la-môn rằng,
"Thưa bà, người chết là gì đối với bà?" "Nó
là đứa con trai đã lớn của tôi, thưa ông, là người mà
tôi đã cưu mang trong mười tháng, cho bú mớm và dạy cho nó
bò." "Cho dù cha của người ấy không khóc, chẳng qua
là bản tánh của người đàn ông, chắc chắn tấm lòng của
người mẹ thì mềm mỏng; Thế thì tại sao bà không
khóc?" Khi Bà ta nghe qua điều này, Bà ta bèn thốt lên hai
câu kệ để cho biết lý do của Bà ta tại sao không khóc:
3. "Nó đến từ đó
cũng không có sự mời mọc và đi khỏi đây cũng chẳng có sự
cho phép. Nó đến như thế nào thì nó đi cũng như thế. Trong
những hoàn cảnh như vậy, ta thán có lợi ích gì?
4. Cái mà đang cháy thì
không hay biết những lời ta thán của quyến thuộc, do vậy
tôi không than khóc cho nó. Nó đã đi đến bất cứ chỗ nào
đã định phần cho nó.
3.
"Ðến đây chẳng
được ai mời,
Ra đi chẳng được một lời thuận ưng.
Ðến đi bất định bất phân,
Ích gì mà khóc mỗi lần ra đi?
4.
Cái mà đang cháy đen xì
Làm sao biết được những gì thở than.
Nên tôi chẳng khóc chẳng than;
Con tôi nó đã đi sang cõi nào.
Chú giải:
3. Ở đây KHÔNG CÓ LỜI
MỜI (Anabbhito): không được gọi đến, nó không được mời
đến, khi nói rằng, "Nào, hãy trở thành một đứa con
trai cho ta!" TỪ ÐÓ (Tato): Từ chỗ mà nó đã sống trước
kia, từ thế giới kia. NÓ ÐẾN: aagaa=aagacchi (hình thức văn
phạm chuyển đổi). KHÔNG ÐƯỢC PHÉP (naamu~nnaato) không có sự
cáo từ; nó không được cho đi bởi chúng tôi, khi nói rằng.
"Hãy đi đến thế giới khác, này con!" KHỎI ÐÂY
(ito): từ thế giới này. ÐI (gato): Rời khỏi. NÓ ÐẾN NHƯ
THẾ NÀO (yathaa gato): cách mà nó đã đi đến, nghĩa là nó đến
lặng lẽ mà không có lời mời của chúng tôi. NÓ ÐI CŨNG VẬY
(Tathaa gato): trong cùng cách ấy nó đã ra đi. Nó đến như thế
do nghiệp của chính nó, bởi vậy nó đi cũng vì nghiệp của
chính nó; theo cách này sự vận hành của nghiệp được cho
thấy. TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH NHƯ VẬY, SỰ TA THÁN CÓ LỢI
ÍCH GÌ: (tattha kaa paridevanaa): Bởi vì vòng luân hồi trôi lăn
như vậy mà không có sự kiểm soát của con người, quả thật
vậy, khóc cho cái chết có ích gì? Ðiều ấy cho thấy rằng
điều ấy chẳng thích hợp và không nên được làm bởi người
có trí.
Khi vị ấy nghe qua điều
mà người vợ của vị Bà-la-môn đã phải nói như thế, vị
ấy bèn hỏi đứa em gái của người chết, "Người ấy
là gì đối với cô, này cô gái?" "Thưa Ngài, người
ấy là anh của tôi", "Này cô, chắc chắn những người
em gái đều thương yêu những người anh của họ; thế thì tại
sao cô không khóc?" Nàng đọc lên những câu kệ này để
cho biết lý do khiến nàng không khóc:
5. "Nếu tôi khóc
thì tôi trở nên tiều tụy. Khóc như thế sẽ có kết quả
gì cho tôi?. Tuy nhiên, nó sẽ làm cho những quyến thuộc của
tôi và những người cầu phúc cho chúng tôi thêm ưu bi mà
thôi.
6. Cái mà đang cháy thì
không hay biết những lời ta thán của những quyến thuộc.
Do đó, tôi không khóc
than cho vị ấy; người ấy đã ra đi đến chỗ định phần
cho người ấy rồi".
5.
Nếu tôi khóc lóc thở
than,
Thì tôi sẽ ốm gầy mòn xanh xao,
Làm vậy sẽ được gì nào?
Lại đem khổ lụy đến bao nhiêu người.
6.
Cái mà đang cháy rả rời,
Chẳng hay biết được những lời kêu than.
Nên tôi chẳng khóc than van,
Anh tôi đã chuyển sanh sang cõi nào.
Chú giải:
5. NẾU TÔI KHÓC THÌ TÔI
TRỞ NÊN GẦY YẾU (Sace rode kisaa assa.m): Nếu tôi khóc thì
tôi trở nên tiều tụy và thân của tôi sẽ kiệt quệ. SẼ
CÓ KẾT QUẢ GÌ CHO TÔI TRONG ÐIỀU ẤY? (Tattha me ki.m Phala.m
siyaa): Thật vậy, có kết quả gì, lợi ích gì, cho tôi trong
điều ấy, trong việc khóc lóc cho cái chết của anh tôi? Anh
tôi sẽ không sống lại do sự khóc lóc ấy, thậm chí cũng
không nhờ đó mà đi đến cõi an vui. Ðây là ý nghĩa. TUY NHIÊN
CÒN GÂY RA NHIỀU KHỔ LUỴ HƠN CHO NHỮNG QUYẾN THUỘC VÀ NHỮNG
NGƯỜI CÓ LÒNG TỐT CỦA CHÚNG TÔI MÀ THÔI
(~naatimittasubhajjaana.m bhiiyo no arati siyaa ): Vì sự khóc lóc cho
người ấy chỉ khiến cho quyến thuộc, bạn bè và những người
có thiện ý của chúng tôi thêm đau khổ nhiều hơn mà thôi.
Khi nghe qua điều mà người
em gái đã phải nói, vị ấy bèn hỏi người vợ của người
chết rằng, "Người ấy là gì đối với cô?"
"Thưa ông, người ấy là chồng của tôi". "Này
cô, chắc chắn đàn bà đa số đều yêu thương người chồng
của họ, và khi những người chồng ấy chết thì những thiếu
phụ phải chịu quạnh hiu. Thế thì tại sao cô không
khóc?" Nàng đọc lên hai câu kệ để cho biết ý lý do
khiến nàng không khóc:
7. "Cũng như đứa bé
khóc đòi mặt trăng, người khóc lóc cho kẻ đã quá vãng cũng
như thế.
8. Cái mà đang cháy thì
không hay biết những lời thở than của những quyến thuộc.
Do đó, tôi không khóc
cho vị ấy; Người ấy đã ra đi đến bất cứ chỗ nào đã
định rồi.
7.
Cũng như đứa bé khóc
lăn,
Ðòi cho bằng được mặt trăng trên trời,
Người khóc cho kẻ chết rồi,
Cũng dường thế ấy chỉ hoài công thôi.
8.
Cái mà đang cháy rã rời,
Làm sao hay biết những lời kêu than.
Nên tôi chẳng khóc than van.
Chồng tôi nay đã sanh sang cõi nào.
Chú giải:
7. ÐỨA BÉ (Daarako): một
đứa bé ngu đần. ÐÒI MẶT TRĂNG (Canda.m). Ðòi cái đĩa mặt
trăng. ÐANG MỌC LÊN (Gacchanta.m): Ðang đi lên trong bầu trời.
KHÓC (Anurodati): Kêu khóc khi nói rằng, "Hãy bắt lấy
bánh xe và cho nó đến con!" CŨNG VẬY VỚI KẾT QUẢ NHƯ
THẾ (eva.m sampada.m ev'eta.m): Sự kêu khóc về người ấy, là
người khóc cho kẻ đã quá vãng, người đã chết, thì cũng
chỉ đem lại kết quả, và tương tự như ước muốn bắt
được mặt trăng khi nó mọc lên trong bầu trời, vì là ước
muốn được một vật mà không thể có được. Ðây là ý
nghĩa.
Khi nghe qua điều mà người
vợ của người chết đã phải nói, vị ấy bèn hỏi người
đầy tớ gái, "Này cô, người ấy là gì đối với cô?"
"Thưa Ngài, Người ấy chủ của tôi" "Nếu vậy,
có lẽ cô đã từng làm công việc của cô một cách miễn cưỡng
sau khi vị ấy đánh đòn. Do đó, ta nghĩ rằng ngươi mới không
khóc khi ngươi nghĩ rằng, do cái chết của người ấy mà ngươi
sẽ được thoát khỏi người ấy." "Ðừng nói với
tôi như thế, thưa Ngài, điều ấy không đúng đâu. Ðứa con
trai của chủ tôi đã hành đúng pháp và có sự nhẫn nại
vô cùng, có lòng từ ái và thân thiết. Người ấy như đứa
con đã lớn lên từ cái vú của tôi". "Thế thì tại
sao cô không khóc?" Nàng cũng nói lên hai câu kệ để nói
rõ lý do khiến nàng không khóc:
9. "Thưa ông
Bà-la-môn, cũng như cái bình nước đã bị vỡ tan, không thể
ráp lại với nhau được, cũng vậy người khóc cho kẻ đã
quá vãng, kết quả cũng như thế thôi.
10. Cái mà đang cháy thì
không thể hay biết những lời thở than của những quyến thuộc.
Do vậy, tôi không khóc
cho người; Người ấy đã đi đến bất cứ chỗ nào đã định
phần."
9.
Dạ thưa ông
Bà-la-môn,
Cũng như bình vỡ không còn hồi nguyên,
Khóc cho người đã qui thiên,
Cũng như bình vỡ nối liền được chi.
10.
Cái mà đang cháy đen xì,
Làm sao biết được những gì thở than,
Nên tôi chẳng khóc than van,
Chủ tôi nay đã sanh sang cõi nào.
Chú giải:
9. THƯA ÔNG BÀ-LA-MÔN, CŨNG
NHƯ CÁI BÌNH NƯỚC ÐÃ VỠ TAN, KHÔNG THỂ GẮN LẠI VỚI NHAU
ÐƯỢC (Yaathaa pi brahme, udakumbho bhinno appatisandhiyo): Quả thật
vậy, thưa ông Bà-la-môn, cũng như cái bình nước mà đã bị
vỡ tan bởi những nhát búa không thể gắn lại với nhau,
không thể phục hồi lại trạng thái đầu tiên của nó. Phần
còn lại thì hoàn toàn rõ ràng như đã được giải thích ở
trên.
Khi Sakka nghe qua Pháp thoại
này từ họ, vị ấy với lòng mộ đạo, nói rằng "Các
ngươi đã hoàn toàn tu tập pháp niệm về sự chết. Từ
ngày hôm nay trở đi, sẽ không cần thiết để các ngươi phải
lao động với công việc cày cấy nữa". Vị ấy bỏ vào
đầy nhà của họ bảy loại châu báu và khích lệ họ rằng,
"Ðừng dễ duôi trong việc bố thí. Hãy thọ trì ngũ giới
và Bát Quan Trai giới", và, sau khi lộ diện chân tướng của
vị ấy cho họ trông thấy, vị ấy trở về lại chỗ ngụ
riêng của mình. Và vị Bà la môn ấy cùng những người khác
làm những việc phước về Bố thí v.v.. Và sau khi sống hết
thọ mạng của họ, được tái sanh trong cõi Devaloka (Cõi chư
Thiên).
Khi Bậc Ðạo sư đã kể
lại bổn sanh này và đã rút ra cây tên sầu muộn từ người
Thiện nam ấy, sau đó Ngài thuyết giảng Tứ đế. Vào lúc kết
thúc thời pháp, vị Thiện nam được an trú trong quả thánh
Tu-đà-hườn.
Xà quỉ sự đã kết
thúc. Như vậy sự trình bày ý nghĩa của phẩm đầu, Xà phẩm,
được tô điểm bằng mười hai câu chuyện trong những câu
chuyện Ngạ quỉ này của bộ Khuddaka Nikaaya (Tiểu Bộ) đã kết
thúc.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.1
| 1.2 | 1.3 | 1.4
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4 | 2.5 | 3.1
| 3.2 | 3.3 | 4.1|
4.2 | 4.3 | 4.4
| Mục lục |