BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode CN-Times font


KHO TÀNG PHÁP HỌC

BODHISĪLA BHIKKHU
(Tỳ Khưu GIÁC GIỚI)


Lưu ý: Cần có phông UnicodeViệt-Phạn CN-Times cài vào máy để đọc các chữ Pàli.

[03]

CHƯƠNG PHÁP BA CHI

 -ooOoo-

[68] Ba bất thiện căn (akusalamūla), cội rễ của điều ác xấu:

1. Tham (lobha), sự ham muốn, ưa thích.
2. Sân (dosa), sự phẫn nộ bất bình.
3. Si (moha), sự mê lầm ngu dốt.

D. III.275; It. 45.

[69] Ba bất thiện tầm (akusalavitakka), sự suy nghĩ không tốt, suy nghĩ quấy:

1. Dục tầm (kāmavitakka), sự suy nghĩ ham muốn hưởng dục lạc, khởi sanh phiền não dục.
2. Sân tầm (byāpādavitakka), sự suy nghĩ bực bội bất mãn, hướng tâm đến phẫn nộ.
3. Hại tầm (vihiṃsāvitakka), sự suy nghĩ ác độc, mưu hại chúng sanh.

A. III.446.

[70] Ba thứ lửa (aggi), lửa phiền não, lửa đốt nóng nội tâm; lửa phải dập tắt:

1. Lửa tham (rāgaggi), sự ái luyến cảnh trần, sự đắm nhiễm vật khả ái làm tâm nóng nảy.
2. Lửa sân (dosaggi), sự phẫn nộ, thù hận làm nóng nảy nội tâm.
3. Lửa si (mohaggi), sự ngu muội, không thông hiểu pháp cần hiểu, không thấu triệt bốn chân lý, không thấu triệt nhân quả, sự si mê ấy khiến sanh phiền não đốt nóng.

Ðây là 3 thứ lửa mà Ðức Phật dạy phải trừ khử.

D. III.21; It. 92.

[71] Ba thứ lửa (aggi), thứ lửa phải phụng sự (aggipāricariyā):

1. Lửa đáng cúng dường (āhuneyyaggi), tức là ám chỉ cha mẹ; cha mẹ là người đáng được con cái cung phụng nuôi dưỡng.

2. Lửa gia đình (gahapataggi), là ám chỉ người trong gia đình như vợ con, nhân công... là những người cần được đối đãi tử tế, chu cấp nuôi nấng.

3. Lửa đáng cúng dường (dakkhiṇeyyaggi) tức là ám chỉ các hạng Sa Môn, Bà La Môn, bậc giới hạnh xuất gia, đáng cho người tín ngưỡng cúng dư?ng.

D. III.217; A. IV.44.

[72] Ba sự lợi ích (attha), mục đích mong cầu:

1. Sự lợi ích hiện tại, lợi ích ngay trong đời này (diṭṭhadhammikattha).
2. Sự lợi ích tương lai, lợi ích đời sau (sampa-rāyikattha).
3. Sự lợi ích tối cao, lợi ích cứu cánh (para-mattha), tức Níp-bàn.

Nd2 26.

[73] Ba sự lợi ích (attha):

1. Lợi ích cho mình, tự lợi (attattha).
2. Lợi ích cho người khác, lợi tha (parattha).
3. Lợi ích cho cả hai, lưỡng lợi (ubhayattha).

Nd2 26.

[74] Ba trọng tâm (adhipateyya), ba điểm lấy làm trọng yếu, ba khía cạnh xem trọng:

1. Lấy mình làm trọng (attādhipateyya). Tức là làm việc gì cũng quyết định theo ý kiến riêng, lấy mình làm chuẩn cứ.

2. Lấy đời làm trọng (lokādhipateyya). Tức là làm việc gì cũng lấy biểu quyết chung, dựa vào ý kiến tập thể hay dựa vào dư luận công chúng mà làm, lấy ý kiến mọi người làm chuẩn cứ.

3. Lấy pháp làm trọng (dhammādhipateyya), nghĩa là làm việc gì cũng y cứ đúng pháp luật, lẽ phải mà làm; làm việc lấy sự nguyên tắc khuôn phép làm chuẩn.

Ðối với người thường lấy mình làm trọng thì nên có chánh niệm tự kiểm để hành động không sai lạc; với người thường lấy đời làm trọng thì nên biết cân nhắc, có trí tuệ phán đoán để không sai lạc; với người thường lấy pháp làm trọng thì nên am tường và biết áp dụng luật pháp đúng mức.

Ðối với vị lãnh đạo, người cai quản thì nên lấy pháp làm trọng (dhammādhipateyya).

D. III.220; A. I.147.

[75] Ba pháp vô thượng (anuttariya):

1. Sự thấy vô thượng (dassanānuttariya), tức là thấy bằng trí tuệ, chứng ngộ chân lý, chứng ngộ Níp-bàn.

2, Sự hành vô thượng, (paṭipadānuttariya), tức là thực hành pháp chân chánh, thực hành bát chánh đạo.

3. Sự giải thoát vô thượng (vimuttānuttariya); tức là sự giải thoát khỏi phiền não, thoát khỏi luân hồi sanh tử.

D. III.219; M. I.235

[76] Ba pháp hành bất vạy (apaṇṇakapaṭi-padā); sự thực hành thẳng tiến, không cong quẹo; sự thực hành căn bản để tiến đạt sự giải thoát.

1. Thu thúc lục căn (indriyasaṃvara) tức là sự phòng hộ sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ngăn ngừa không để tham ưu ác bất thiện pháp sanh khởi do duyên thấy, nghe...

2. Tiết độ ẩm thực (bhojane mattaññutā), tức là sự thọ dụng vật thực biết cách tiết chế, không tham đắm thức ăn... khi ăn biết tri túc và quán tưởng.

3. Luôn khi tỉnh thức (jāgariyānuyoga), tức là mọi lúc mọi nơi đều có sự nỗ lực tự kiểm soát, gội rửa tâm không để ngũ triền cái chi phối, ngày đêm cố gắng tu tập trong thiện pháp.

A. I.113.

[77] Ba pháp cần thắng tri (abhiññeyya-dhamma), pháp cần thông đạt, cần thấu rõ:

Tức là ba tính chất hay giới (dhātu):

1. Dục giới (kāmadhātu) là sắc pháp, tâm dục giới và sở hữu tâm tương ưng.
2. Sắc giới (rūpadhātu) là tâm thiền sắc giới và sở hữu tâm tương ưng.
3. Vô sắc giới (arūpadhātu) là tâm thiền vô sắc giới và sở hữu tâm tương ưng.

D. III.275

[78] Ba thắng hành (abhisaṅkhāra), pháp hành có Tư - cetanā - làm trưởng, Tư tạo ra quả dị thục:

1. Phúc hành (puññābhisaṅkhāra), tức là Tư thiện dục giới và sắc giới, thành thiện nghiệp tạo quả vui cõi hữu sắc.

2. Phi phúc hành (apuññābhisaṅkhāra), tức là tư bất thiện thành bất thiện nghiệp tạo ra quả khổ.

3. Bất động hành (āneñjābhisaṅkhāra), tức là tư thiện vô sắc giới, tâm thiền vô cùng tinh tế, thành thiện nghiệp tạo quả sanh vào cõi vô sắc.

Ba loại hành này thuộc về qui luật y tương sinh (paṭiccasamuppāda).

Ps. III.206; Vbh. 135.

[79] Ba vô vi tướng (asaṅkhatalakkhaṇa), hay trạng thái của Níp-bàn:

1. Không sanh (na uppādo paññāyati)
2. Không diệt (na vayo paññāyati)
3. Không đổi khác (na ṭhitassa aññathattaṃ paññāyati).

A. I.152.

[80] Ba lậu hoặc (āsava); phiền não ngâm tẩm chúng sanh, làm cho chúng sanh ẩm đọng cấu uế

1. Dục lậu (kāmāsava): tính ái tham cảnh dục.
2. Hữu lậu (bhāvāsava): tính ái tham thiền lạc và mong mỏi sự tái sanh trong tam giới.
3. Vô minh lậu (avijjāsava): tính si mê, lầm lạc, không hiểu biết chân lý.

D. II.81; S. IV.256

[81] Ba pháp cần sanh khởi (uppādetabba-dhamma):

Tức là 3 loại Trí (ñāṇa).

1. Trí tri quá khứ (atītaṃsañāṇa): trí thẩm xét về quá khứ, biết rõ nhân duyên liên quan quá khứ.

2. Trí tri vị lai (anāgataṃsañāna): trí thẩm xét về tương lai, biết rõ hậu quả sẽ phát sanh sau này.

3. Trí tri hiện tại (paccuppannaṃsañāṇa): trí thẩm xét hiện tại, xác định được thành phần nhân quả của pháp đang diễn ra.

D. III. 275

[82] Ba nghiệp (kamma), hành động gây quả:

1. Thân nghiệp (kāyakamma), nghiệp do thân tạo ra, hành động bằng thân có tốt có xấu.
2. Khẩu nghiệp (vacīkamma), nghiệp do khẩu tạo ra, hành động tốt xấu bằng lời nói.
3. Ý nghiệp (manokamma), nghiệp do ý tạo ra, tư duy tốt hoặc xấu.

M. I.373.

[83] Ba thiện căn (kusalamūla), nguồn cội của pháp tốt, cội rễ của đức lành:

1. Vô tham (alobha) tính không dính mắc, không ái cảnh, đồng nghĩa ly dục, trái nghĩa tham.

2. Vô sân (adosa), tính không nóng bực, không bất bình đối với cảnh, đồng nghĩa từ tâm, trái nghĩa sân hận.

3. Vô si (amoha), tính không mê muội, không mù mờ đối với cảnh, đồng nghĩa trí tuệ, trái nghĩa si mê hay vô minh.

D. III.275.

[84] Ba thiện tầm (kusalavitakka), sự suy nghĩ tốt, tư duy thiện:

1. Xuất ly tầm (nekkhammavitakka) sự suy nghĩ bỏ ái tham, suy nghĩ ly dục.
2. Vô sân tầm (abyāpādavitakka) sự suy nghĩ liên hệ lòng từ, mát mẻ, không sân hận.
3. Bất hại tầm (avihiṃsāvitakka) sự suy nghĩ liên hệ tâm bi, xót thương chúng sanh đau khổ, không có lòng mưu hại.

A. III.446.

[85] Ba thiện xảo (kosalla) , sự khéo léo, sự điêu luyện.

1. Thiện xảo sự tiến hóa (āyakosalla), biết rành rẽ đường hướng tiến hóa và nhân sanh tiến hóa.

2. Thiện xảo sự thối hóa (āpāyakosalla), biết rành rẽ đường hướng thối hóa và nhân sanh thối hóa.

3. Thiện xảo phương tiện (upāyakosalla), biết rành rẽ phương pháp hay cách thức để thành đạt.

D. III.220; Vbh. 325

[86] Ba loại trí (ñāṇa) trong tứ đế:

1. Sự thật trí (saccañāṇa), trí nhận hiểu bốn sự thật, như là biết: "Ðây là Khổ"; biết: " đây là Khổ tập"; biết: "Ðây là Khổ diệt"; biết "Ðây là Khổ diệt hành lộ".

2. Sở dụng trí (kiccañāṇa) , trí nhận hiểu tính ứng dụng trong bốn đế, như là biết "Khổ cần biến tri"; biết "Khổ tập cần đoạn trừ"; biết "Khổ diệt cần tác chứng"; biết "Khổ diệt hành lộ cần tu tập".

3. Sở tác trí (katañāṇa), trí rõ biết điều đã làm đối với tứ đế, như là biết rõ "Khổ cần biết đã biết", "Tập cần trừ đã trừ", "Diệt cần chứng đã chứng", "Ðạo cần tu tập đã tu tập".

Ba trí này liên quan trong bốn thánh đế. Tứ đế được Ðức Thế Tôn giác ngộ theo ba luân (parivaṭṭa) mười hai thể (ākāra), tức là ba trí này xoay vòng theo bốn đế thành ra mười hai. Sự giác ngộ ấy gọi là tri kiến như thật (yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ). Ðức Thế Tôn đã giác ngộ tứ đế với tri kiến như vậy nên Ngài được danh xưng là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác (sammāsambuddho).

[*] Ba loại trí [ñāṇa] . xem [81].

[87] Ba loại ái (taṇhā):

1. Dục ái (kāmataṇhā), sự khát vọng, sự mong muốn hưởng ngũ dục lạc, sự tham ái duyên theo mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.

2. Hữu ái (bhavataṇhā), sự khát vọng mong mỏi sự tái sanh cõi sống mới, sự ái luyến thiền lạc, và sự ước muốn liên hệ với hữu kiến hoặc thường kiến (sassatadiṭṭhi).

3. Phi hữu ái (vibhavataṇhā), sự khát vọng mong muốn bản thân hủy diệt, mong mỏi cho tiêu hoại, sự ước muốn liên hệ với phi hữu kiến hoặc đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi).

A. III.445; Vbh. 365

[88] Ba triết thuyết ngoại giáo (titthāyatana):

1Ṭhuyết tiền định (pubbekatahetuvāda hay pubbekatavāda). Một số người chấp rằng "tất cả cảm thọ mà chúng sanh lãnh lấy, vui hay khổ, đều do có sẵn vận mệnh đã an bày,"

2. Thuyết tạo hóa (issarakaraṇavāda), cung gọi là thuyết sáng tạo chủ. Một số người cho rằng: Ṁọi cảm thọ mà chúng sanh nhận lãnh, vui hay khổ đều là do một vị trời tối cao, thượng đế, tạo ra."

3. Thuyết vô nhân (ahetuvāda). Tức là có thuyết cho rằng: Ṁọi cảm thọ vui khổ phát sanh không do nhân duyên gì cả, tự sanh rồi tự diệt."

Cả ba triết thuyết này đều không đúng, Ðức Phật phủ nhận cả. Ðó là triết lý ngoại giáo sai lệch nhân quả.

A. I.173; Vbh. 367.

[89] Ba tạng kinh điển Phật giáo, Tam tạng (tipiṭaka):

1. Tạng Luật (vinayapiṭaka) gồm 21.000 pháp môn, phân thành 5 bộ, có 8 quyển.

2. Tạng Kinh (suttantapiṭaka) gồm 21.000 pháp môn, phân thành 5 bộ, có 25 quyển.

3. Tạng Vi diệu pháp (abhidhammapiṭaka) gồm 42.000 pháp môn, phân thành 7 bộ, có 12 quyển.

Tam tạng giáo lý bằng tiếng Pāli cả thảy 45 quyển, gồm có 84.000 pháp môn.

Tạng Luật 5 bộ, 8 quyển là:

1. Bộ Ðại phân tích (mahāvibhaṅga) còn gọi Tỳ-khưu phân tích luật (bhikkhuvibhaṅga). Bộ luật này giải rộng 227 giới tỳ-khưu, tức là các sik-khāpada trong pāṭimokkha của tỳ khưu tăng. Ðược 2 quyển.

2. Bộ Tỳ-khưu ni phân tích (bhikkhunīvi-bhaṅga). Bộ luật này giải rộng 311 giới của tỳ-khưu ni. Ðược 1 quyển.

3. Bộ Ðại phẩm (mahāvagga) . Bộ luật gồm mười chương -- khandhaka, nói đến các sự kiện tăng sự thông thường như lễ uposatha (phát lồ) pavāraṇā, (tự tứ) v.v... Ðược 2 quyển.

4. Bộ Tiểu phẩm (cūlavagga). Bộ luật gồm 12 chương, nói đến những nghi thức tăng sự đặc biệt như phạt cấm phòng tăng tàng (saṅghadisesa) v.v... Ðược 2 quyển.

5. Bộ Tạp sự (parivāra). Bộ luật hệ thống nội dung luật giới bổn và luật Tăng sự. Ðược 1 quyển.

Tạng kinh 5 bộ, 25 quyển là:

1. Trường bộ kinh (dīghanikāya), tập hợp những bài kinh dài; cả thảy 34 bài kinh; được 3 quyển.

2. Trung bộ kinh (majjhimānikāya), tập hợp những bài kinh lượng pháp trung bình; có cả thảy 152 bài kinh; được 3 quyển.

3. Tương ưng bộ kinh (saṃyuttanikāya), tập hợp những đoạn kinh có liên quan sự kiện với nhau; gồm 5 phẩm, có 56 phần tương ưng, cả thảy 7.762 bài kinh; được 5 quyển.

4. Tăng chi bộ kinh (aṅguttaranikāya), gồm những kinh được xếp theo nhóm pháp số, pháp có chi phần từ một đến nhiều chi (aṅga) , gồm có 11 phần, cả thảy 9557 bài kinh, phân ra được 5 quyển.

5. Tiểu bộ kinh (khuddakanikāya), tổng hợp những đoạn kinh, những lời dạy rời rạc, đúc kết thể loại từ các kinh điển trong bốn bộ trước. Tiểu bộ kinh Pāli có 9 quyển, gồm 15 tiểu tập: Tiểu tụng (khud-dakapāṭha) 1 quyển, Pháp cú (dhammapada), Cảm thán (udāna), Như thị thuyết (itivuttaka), Kinh tập (suttanipāta) 4 tiểu tập này gom lại 1 quyển, Thiên cung sự (vimānavatthu), ngạ quỉ sự (petavatthu), Trưởng lão tăng kệ (theragāthā), Trưởng lão ni kệ (therīgāthā) 4 tiểu tập này gom lại 1 quyển, Bổn sanh (jāṭaka) 2 quyển, lịch sử (niddesa), 2 quyển, Ðạt thông (paṭisambhidā) 1 quyển, Thinh văn sử (apa-dāna), Phật tông (buddhavaṃsa), Hạnh tạng (cariyā-piṭaka) 3 tiểu tập này gom thành 1 quyển.

Tạng vi diệu pháp gồm 7 bộ, 12 quyển là:

1. Pháp tụ luận (dhammasaṅginī), gom những pháp đề thành từng nhóm, định nghĩa từng loại. Có 1 quyển.

2. Phân tích luận (vibhaṅga), phân tích các đề tài trọng yếu và giải thích theo hai hệ khế kinh và Diệu pháp. Có 1 quyển.

3. Chất ngữ luận (dhātukathā), đúc kết chư pháp đối chiếu theo uẩn, xứ, giới, đế. Ðược ½ quyển.

4. Nhơn chế luận (puggalapaññatti) chủ yếu trình bày các pháp được chế định, nhất là giải thích các loại người. Ðược ½ quyển.

5. Ngữ tông luận (kathāvatthu) trình bày và nhận xét các quan điểm tranh luận giữa các bộ phái trong thời kỳ kết tập lần thứ ba. Ðược 1 quyển.

6. Song đối luận (yamaka) lập luận các vấn đề người cõi bằng hình thức vấn đáp, lý luận ngược xuôi. Ðược 2 quyển.

7. Vị trí luận (paṭṭhāna, cũng gọi mahākaraṇa) giải rộng hai mươi bốn duyên hệ, định lý nhân quả. Gồm 6 quyển.

Tam tạng giáo lý này chung quy chia ra hai hệ Pháp (dhamma) và Luật (vinaya) . Xem [43].

[90] Ba tướng, tam tướng (tilakkhaṇa), tướng trạng của pháp hữu vi:

1. Tướng vô thường (aniccatā)
2. Tướng khổ não (dukkhatā)
3. Tướng vô ngã (anattatā)

Tam tướng pháp hữu vi còn một tên gọi khác là "phổ thông tướng" -- sāmaññalakkhaṇa.

S. V.1; Dhp. 277-9.

[91] Ba y chỉ (Tisaraṇa), chỗ nương tựa, chỗ tưởng nhớ, đối tượng để chúng sanh qui y:

1. Ðức Phật (Buddha), vị Ðạo Sư đã tự giác ngộ, còn gọi là Phật Bảo.
2. Giáo Pháp (Dhamma), lời dạy của bậc Ðạo Sư hay Ðức Phật, còn gọi là Pháp Bảo.
3. Tăng chúng (Saṅgha), hàng đệ tử xuất gia của Ðức Phật, còn gọi là Tăng Bảo.

Chúng sanh nào hướng tâm niệm tưởng ân đức tam bảo, hiểu biết tam bảo đúng đắn, lấy đối tượng tam bảo làm hướng đạo, như thế gọi là qui y tam bảo. Xem [121]: Ratanattaya - Tam bảo.

Kh. 1.

[92] Ba kiến thức (diṭṭhi) thuộc tà kiến, sự quan niệm sai lệch:

1. Vô hành kiến (akiriyadiṭṭhi), sự thấy rằng không có hành động, không có quả báo của hành động.

2. Vô nhân kiến (ahetukadiṭṭhi) sự thấy rằng không có nhân của quả, hay cho rằng mọi sự kiện xảy ra chẳng phải do nghiệp.

3. Vô hữu kiến (natthikadiṭṭhi) sự thấy rằng mọi sự kiện đều không có: không có ân đức cha mẹ, không có thiện ác quả báo, không có tái sinh luân hồi v.v...

M. I.404.

[93] Ba trạng thái khổ (dukkhatā), khổ thực tính, tình trạng bất ổn của pháp hữu vi:

1. Khổ khổ (dukkhadukkhatā), trạng thái khổ do khổ thọ của thân và tâm, như là thân đau đớn, tâm buồn bực... sự khổ mà thông thường chúng sanh đều nhận biết.

2. Biến hoại khổ (vipariṇāmadukkhatā), sự bất ổn do biến diệt thay đổi, như là sự an lạc đang có bổng diệt mất.

3. Hành khổ (saṅkhāradukkhatā) sự bất ổn do tình trạng vận hành sanh diệt của pháp hữu vi khiến cho thân tâm luôn xáo trộn bất an.

D. III.216; S. IV.259, V.56.

[94] Ba ác hạnh, sở hành xấu (duccarita):

1. Thân ác hạnh (kāyaduccarita) , thân hành ác như sát sanh, trộm cắp, tà dâm.

2. Khẩu ác hạnh (vacīduccarita), miệng nói không tốt như nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói vô ích.

3. Ý ác hạnh (manoduccarita), ý suy nghĩ quấy như tham lam, sân hận, tà kiến.

D. III.214; Dhs. 1305.

[95] Ba pháp khó thể nhập (duppaṭivijjha-dhamma), pháp khó thông đạt:

1. Sự xuất ly các dục (kāmānaṃ nissaraṇaṃ) ám chỉ "thiền sắc giới", vì thiền sắc giới là trạng thái tâm định do ly dục ly các bất thiện pháp ngăn trừ 5 triền cái. Nên gọi thiền sắc giới là sự xuất ly các dục.

2. Sự xuất ly các sắc (rūpānaṃ nissaraṇaṃ), ám chỉ "thiền vô sắc" vì thiền vô sắc là trạng thái tâm định do vượt khỏi các sắc tưởng, chú tâm trên đề mục vô sắc, nên gọi thiền vô sắc là sự xuất ly các sắc.

3. Sự xuất ly hành (saṅkhatassa nissaraṇaṃ), ám chỉ "Níp-bàn", vì Níp-bàn là trạng thái tịch tịnh các hành, vắng lặng pháp hữu vi. Nên gọi Níp-bàn là sự xuất ly Hành.

Ba pháp này được gọi là xuất ly giới (nissāra-ṇīyadhātu).

D.III.257: Dasuttara sutta.

[96] Ba hạng chư thiên (deva):

1. Ðịnh danh thiên (samatideva), tức là chư thiên do định đặt danh gọi, như gọi Ðức vua, hoàng hậu và Thái tử là "bậc thiên tử" v.v...

2. Hóa sanh thiên (upapattideva), tức là chư thiên hóa sanh ở các cõi trời, đây là chúng sanh hữu phước hơn nhân loại.

3. Thanh tịnh thiên (visuddhideva), tức là các bậc thanh tịnh đại phước, như Ðức Phật Toàn giác, Ðộc giác và chư Thinh Văn giác.

Nd2 307; Kh. A. 123.

[97] Ba Thiên sứ, sứ giả cõi trời, hiện tượng báo tin (devadūta):

1. Sự già (jiṇṇa)
2. Sự bệnh (byādhita)
3. Sự chết (mata)

Các thiên sứ này báo tin cuộc sống, khiến cho bậc trí tuệ giác tỉnh tu hành. Có chỗ giải 4 hạng thiên sứ, và 5 hạng thiên sứ (xem chương 4 và 5 chi).

A I.138.

[98] Ba môn, ba cửa tạo nghiệp (dvāra)

1. Thân môn (kāyadvāra), cửa tạo nghiệp do thân hành động.
2. Khẩu môn (vacīdvāra), cửa tạo nghiệp do khẩu hành động.
3. Ý môn (manodvāra), cửa tạo nghiệp do ý hành động.

Dhp. 234

[99] Ba loại pháp thực tính (dhamma):

1. Pháp thiện (kusaladhamma), pháp có tính chất tốt, khéo, thành nhân cho quả vui, có căn thiện phối hợp. Pháp thiện gồm 37 tâm thiện và 38 sở hữu hợp tâm thiện.

2. Pháp bất thiện (akusaladhamma), pháp có tính chất xấu, cấu uế, là nhân cho quả khổ, có căn bất thiện phối hợp. Pháp bất thiện gồm 12 tâm bất thiện và 27 sở hữu hợp tâm bất thiện.

3. Pháp vô ký (abyākatadhamma), pháp có tính chất phi thiện phi bất thiện, không thành nhân tạo quả dị thục. Gồm có 52 tâm quả, 20 tâm tố, cùng 38 sở hữu hợp tâm vô ký, kể cả 28 sắc pháp và Níp-bàn.

Các pháp thuộc Tâm, xem [439]; pháp thuộc sở hữu tâm, xem [438]; pháp thuộc sắc pháp, xem [49], [208] và [433].

Dhs. 91, 180, 234.

[100] Ba pháp cố định, định luật (dhamma-niyāma):

1. Chư hành vô thường (sabbe saṅkhārā anic-cā), tức là mọi pháp hữu vi đều có biến đổi.

2. Chư hành khổ não (sabbe saṅkhārā duk-khā), tức là mọi pháp hữu vi đều có tính bất ổn.

3. Chư pháp vô ngã (sabbe dhammā anattā), tức là các pháp thực tính hữu vi và vô vi đều không có quyền kiểm soát điều khiển bởi linh hồn tự ngã.

Ba pháp này còn gọi là tam tướng phổ thông (sāmaññalakkhana) . Ðược gọi là định luật, nghĩa là cố nhiên có mặt, chắc chắn chi phối pháp thực tính dù Ðức Phật xuất hiện hay không cũng thế; Ðức Phật chỉ giác ngộ và tuyên thuyết các định luật ấy.

A. I.285.

[101] Ba ấn chứng, hiện tượng (nimitta), dấu hiệu để xác định trong việc tu tiến nghiệp xứ:

1. Biến tác tướng (parikammanimitta) hay cũng gọi là chuẩn bị tướng, tức là dấu hiệu sơ khởi; nghĩa là sau khi ấn định một thứ đề mục nghiệp xứ để tu tập như là hình dạng kasiṇa v.v... thì vị ấy chú tâm và cảm nhận được đề mục. Ðó gọi là Biến tác tướng.

2. Thủ trì tướng (uggahanimita) hay sơ tướng, tức là tướng phát sanh do nhập tâm vào đề mục, thậm chí nhắm mắt lại vẫn cảm nhận hình dáng của đề mục. Thủ trì tướng sanh khởi cho cả 40 đề mục-kammaṭṭhāna.

3. Tương tợ tướng (paṭibhāganimitta), tướng này tương tợ như uggahanimitta, nhưng phát sanh từ tưởng mạnh, có sự thanh khiết không cấu nhiễm đề mục, chỉ sanh khởi khi đến trạng thái cận định, và có thể tưởng rộng ra hoặc thu hẹp kích cỡ đề mục theo như ý. Tương tợ tướng này phát sanh đối với 22 đề mục là 10 kasiṇa, 10 asubha, 1 thân hành niệm, 1 niệm số tức quan. Khi paṭibhāganimitta phát sanh, tâm trú trong cận định, tương đồng sanh với cận định, và sau đó hành giả sẽ chứng đạt kiên cố định appanāsamādhi. Bởi thế, paṭibhāganimitta còn được gọi là upacārabhāvanā (cận hành tu tiến), hay appa-nābhāvanā (an chỉ tu tiến).

Comp. 203; Vism. 125.

[102] Ba loại tuệ (paññā):

1. Tuệ tư (cintāmayapaññā), tuệ phát sanh do suy nghĩ lý lẽ, quán sát nhân quả.

2. Tuệ văn (sutamayapaññā), tuệ phát sanh do nghe pháp, do đàm luận chánh pháp, học hỏi với người khác.

3. Tuệ tu (bhāvanāmayapaññā), tuệ phát sanh do tu tập thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipas-sanā); tức là tuệ sanh trong tâm thiền hiệp thế và thiền siêu thế.

D. III.219; Vbh. 324.

[103] Ba nghiệt chướng pháp (papañcadham-ma); pháp chướng ngại, khiến cho không thể nhập chân lý, làm cho lệch hướng chánh đạo:

1. Ái tham (taṇhā) sự mong muốn cảnh ưa thích, sự khao khát cảnh vừa lòng.

2. Tà kiến (diṭṭhi), quan niệm sai lầm, cố chấp tà thuyết; hiểu thấy không đúng chân lý.

3. Ngã mạn (māna), sự kiêu ngạo, tự đắc, tự cao, hoặc tự ti mặc cảm.

Trong bộ Vibhaṅga, nói đến ba pháp papañca như sau: dục vọng (chanda), ngã mạn (māna), và tà kiến (micchādiṭṭhi).

Nd1 280; Vbh. 393; Netti 37-38.

[104] Ba sự đạt tri (pariññā), sự biết rõ, sự hiểu thấu; sự liễu tri các pháp:

1. Trí đạt tri (ñātapariññā) , tức là sự rõ biết thật tướng riêng biệt của các pháp, như biết rõ śắc có đặc tính bị bức não, Thọ có đặc tính bị cảm nhận"..

2. Thẩm đạt tri (tīraṇapariññā), tức là sự nhận thức rõ tướng phổ thông của các pháp như là " sắc là vô thường, thọ là vô thường..."

3. Trừ đạt tri (pahānapariññā) tức là sự liễu tri pháp bằng cách đoạn trừ thường tưởng... do ý thức sự vô thường... không cho tham dục phát sanh.

Ba sự đạt tri này là trí hiệp thế, có 5 uẩn làm cảnh, có phận sự là biến tri khổ đế trong tứ thánh đế. Nếu nói theo pháp hành thì được xếp là kiến tịnh. Ðoạn nghi tịnh, Ðạo phi đạo tri kiến và Hành lộ tri kiến tịnh; gồm 13 tuệ minh sát. Trí đạt tri là lãnh vực gồm Tuệ phân định danh sắc và Tuệ hiểm duyên danh sắc; Thẩm đạt tri là lãnh vực gồm Tuệ phổ thông tướng và Tiến thối tuệ; Trừ đạt tri là lãnh vực gồm Diệt một tuệ, Họa hoạn tuệ, Tội quá tuệ, Phiền yểm tuệ, Dục thoát tuệ, Quyết ly tuệ, Hành xả tuệ, Thuận lưu tuệ và Chuyển cấp tuệ.

Xem thêm [157] ariyasaccesu kiccāni, [337] visuddhi, [378] vipassanāñāṇa.

Nd 53; Vism. 606.

[105] Ba pháp cần biến tri (pariññeyya-dhamma):

Tức là ba loại cảm thọ (vedanā):

1. Thọ lạc (sukhavedanā), sự cảm thọ dễ chịu của thân và tâm. Tức là thân lạc và tâm hỷ.

2. Thọ khổ (dukkhavedanā), sự cảm thọ khó chịu của thân và tâm, tức là thân khổ và tâm ưu.

3. Thọ phi khổ phi lạc (adukkhamasukha-vedanā), sự cảm thọ không khổ không vui, cảm giác bình thường, tức là thọ xả.

D. III.216, 275; S. IV.331

[106] Ba pháp cần đoạn trừ (pahātabba-dhamma):

Tức là 3 loại Ái (taṇhā). Xem [87].

[107] Ba sự đoạn trừ (pahāna):

1. Trấn phục đoạn trừ (vikkhambhanapa-hāna), tức là trừ phiền não bằng cách áp chế, đè nén. Trường hợp này như là hành giả an trú trong thiền, trong suốt thời gian nhập thiền phiền não được áp chế không sanh khởi.

2. Nhất thời đoạn trừ (tadaṅgapahāna), tức là trừ phiền não đối lập trong khoảnh khắc. Ví dụ như ngay khi tuệ sanh phân tích danh sắc thì phiền não thân kiến được khử trừ lúc ấy.

3. Tuyệt diệt đoạn trừ (samucchedapahāna), tức là đoạn tuyệt phiền não bằng tâm Ðạo, tuyệt nhiên không còn phát sanh trong tương lai.

Xem thêm [260] Nirodha.

Vism. 693.

[108] Ba cách thần biến (pāṭihāriya), sự hiển lộ thần oai, phát huy điều kỳ diệu để nhiếp chúng khiến họ qui phục:

1. Hóa thông thần biến (iddhipāṭihāriya), tức là sự hiển lộ uy lực thần thông để nhiếp chúng. Như Ðức Phật hiện song thông để nhiếp phục ngoại đạo.

2. Ký thuyết thần biến (ādesanāpāṭihāriya), tức là sự tiên tri những điều sẽ xảy ra, hay là sự nói ra đúng tư tưởng của người khác; như Ðức Phật thọ ký cho nhân vật nào đó, hoặc Ngài dùng tha tâm thông hiểu thấu tư tưởng của người đang tiếp xúc, khiến họ khởi tịnh tín nơi Ngài...

3. Giáo giới thần biến (anusāsanīpāṭihariya), tức là chỉ dạy, giáo dục, huấn dụ pháp âm, khiến kẻ khác thuần phục; như Ðức Phật thuyết pháp hóa độ chúng sanh.

Trong ba cách thần biến này, Ðức Phật chỉ trọng tâm và tán thành cách "giáo giới thần biến" thôi, Ngài cho đó là cách nhiếp phục thù thắng.

D. I.211; A. I.170; Ps. II.227.

[109] Ba pháp chủ thương (pāpaṇikadhamma)

Người chủ buôn bán phải có 3 pháp mới thành đạt trên thương trường:

1. Có mắt (cakkhumā), nghĩa là có cái nhìn tinh tế, biết xem hàng hóa tốt xấu, hàng nào tiêu thụ nhanh chậm trên thị trường.

2. Quán xuyến (vidhūro), nghĩa là biết cách mua vào bán ra, biết rõ nhu cầu của thị trường, biết rõ những biến động kinh tế để kịp thời đối phó.

3. Ðược tín nhiệm (nissayasampanno) , nghĩa là có được sự ủng hộ, tín nhiệm, tin cậy của khách hàng, nhất là được người thế lực tin cậy.

Ðức Phật ám dụ ba chi phần này trong đời sống thành đạt của vị tỳ kheo:

a. Tỳ khưu có mắt (cakkhumā) là có tuệ nhãn thấy rõ tứ thánh đế.

b. Tỳ khưu quán xuyến (vidhūro) là tinh cần chăm chỉ, không thối thất trong thiện pháp.

c. Tỳ khưu được tín nhiệm (nissayasampanno) là vị ấy luôn luôn được tăng chúng tín cẩn nương tựa về tinh thần pháp luật; các bạn đồng phạm hạnh biết vị ấy đa văn quảng kiến, trì pháp trì luật nên nhờ giải nghĩa chỉ giáo.

Ðó là yếu tố thành công của vị tỳ khưu.

A. I.116.

[110] Ba phước nghiệp sự, phúc hành tông (puññakiriyāvatthu), tức là cơ sở tạo phước, điều kiện làm phước:

1. Bố thí thành (dānamaya) tạo phước bằng cách bố thí; phước này là phước vật.

2. Trì giới thành (sīlamaya) tạo phước bằng cách trì giới; phước này là phước đức.

3. Tu tiến thành (bhāvanāmaya) tạo phước bằng cách tu luyện tâm hay tu thiền; phước này là phước trí.

D. III.218; A. IV.239; It. 51

[111] Ba hạng con (putta):

1. Con hơn cha mẹ (atijātaputta), tức là con giỏi hơn cha mẹ về tài năng, tốt hơn về đức hạnh.

2. Con bằng cha mẹ (anujātaputta), tức là con bằng như cha mẹ về tài đức.

3. Con thua cha mẹ (avajātaputta), tức là con dở hơn kém hơn cha mẹ về tài đức.

Hạng con thứ nhất còn gọi là (abhijātaputta).

It. 62.

[112] Ba pháp đa dụng (bahukāradhamma):

Tức là ba pháp tiến hóa (vuḍḍhi):

1. Thân cận chân nhân (sappurisasaṃseva), là thường giao thiệp, giao du với bậc hiền tri.

2. Nghe diệu pháp (saddhammassavana), là nghe được chánh pháp từ các bậc chân nhân.

3. Thực hành tuần tự pháp (dhammānudham-mapaṭipatti), là hành theo chánh pháp đã được biết, thực hành thứ lớp từ thấp đến cao.

Ba pháp này, trong kinh Pāli, còn gọi là pháp làm tăng trưởng trí tuệ (paññāvuḍḍhi).

A. II.245; D. III.275.

[113] Ba huấn từ của chư Phật (Buddha-ovāda):

1- Không làm mọi điều ác sabbapāpassaka-raṇaṃ), như là không sát sanh v.v...

2- Thực hiện các việc lành (kusalassūpa-sampadā) , như là bố thí, trì giới v.v...

3-Trau dồi tâm trong sạch (sacittapariyoda-panaṃ), như là có đức tin, tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác v.v...

Ba điều giáo huấn này được xếp trong bài kinh ovādapaṭimokkha mà Ðức Phật đã thuyết vào ngày trăng tròn tháng giêng. (māgha, puṇṇamī).

D. II.49; Dhp. 183

[114] Ba Phật ân (buddhaguṇa):

1. Tuệ đức (paññāguṇa), Ðức Phật có trí tuệ siêu phàm, vượt hơn chúng sanh trong tam giới.

2. Tịnh đức (visuddhiguṇa), Ðức Thế Tôn thanh tịnh tam nghiệp tuyệt đối, Ngài không có khuyết điểm về sở hành.

3. Bi đức (karuṇāguṇa), lòng bi mẫn của Phật đối với chúng sanh là vô lượng.

Trong ba ân đức này, nói căn bản chỉ có hai là tuệ đức và bi đức; Trong kinh điển ít khi nói đến Tịnh đức, vì là đức tính phát xuất từ tuệ giác ngộ, nên chỉ nói Tuệ đức là bao hàm.

Vism. Tīkā 1/1.

[115] Ba Phật hạnh (buddhacariyā):

1. Hạnh lợi ích cho đời (lokatthacariyā)

2. Hạnh lợi ích cho quyến thuộc (ñātatthacariyā).

3. Hạnh lợi ích giác ngộ (Buddhatthacariyā) . Ở hạnh thứ ba này cần được hiểu ý nghĩa như sau, nếu Ngài đã là vị Phật thì hạnh này nghĩa là Ngài hành lợi ích cho chúng sanh theo Phật sự; nếu nói khi Ngài còn là bồ tát thì điều này có nghĩa là ngài tạo thiện pháp vì mục đích giác ngộ cho bản thân.

Trong ba Phật hạnh, hạnh lợi ích cho đời, có trong Tam tạng. Khu. Cū 30/ 667/ 322; Khu. Pati. 31/ 449/ 329; 715/ 615.

A.A. I.98; Dh. A. III. 441.

[116] Ba tính pháp thoại của Ðức Phật (Buddhadhammadesanā):

1. Ngài thuyết pháp bằng sự chứng ngộ, trình bày giáo pháp đã được thắng tri (abhiññāyadham-madesanā).

2. Ngài thuyết pháp hợp theo nhân duyên (sanidānadhammadesanā), tức là thuyết pháp có nguyên nhân, có người hữu duyên.

3. Ngài thuyết pháp với sự kỳ diệu nhiệm mầu, (sappaṭihāriyadhammadesanā), tức là có tính nhiếp phục cao, thính chúng sẽ bị cuốn hút bởi tính huyền diệu của thời pháp.

Trong ba đặc tính trên, điều 1 là đặc tính nhất định trong thời pháp thoại của Ðức Phật.

M. II.9; A. I.276.

[117] Ba Hữu, ba cõi tái sanh (bhava)

1- Dục hữu (kāmabhava), tức là cõi dục, cõi tái sanh gồm 11 cõi là 4 cõi khổ, cõi nhân loại và 6 cõi chư thiên.

2- Sắc hữu (rūpabhava), tức là cõi sắc giới, gồm 16 cõi là 3 cõi sơ thiền, 3 cõi nhị thiền, 3 cõi tam thiền và 7 cõi ngũ thiền.

3- Vô sắc hữu (arūpabhava), gồm 4 cõi, thiền vô sắc: không vô biên xứ v.v...

D. III. 215; M. I.294.

[118] Ba sự tu tiến (bhāvanā), sự tu tập theo đề mục thiền hay nghiệp xứ:

1. Tu tiến sơ khởi (parikammabhāvanā), tức là sự tu tiến bước đầu ghi nhận đề mục như vòng kasiṇa, hoặc suy niệm về ân đức Phật... Tóm lại là sự xác định sơ tướng.

2. Tu tiến cận hành (upacārabhāvanā), tức là tiếp tục tu tập đề mục đó cho đến khi Tợ tướng sanh khởi; đồng thời năm triền cái cũng lắng xuống. Cấp tu tiến này thuộc định dục giới, sanh khởi theo được cả 40 đề mục; cận hành tu tiến này sẽ chấm dứt ở sát na gotrabhū trong lộ tâm đắc thiền.

3. Tu tiến kiên định (appanābhāvanā), tức là đạt đến tâm định kiên cố; phát triển tợ tướng cận định cho đến khi chứng đạt tâm thiền, tức là tâm sanh tiếp nối gotrabhū . Tầng định này sanh khởi trong 30 đề mục: định sơ thiền sanh khởi bằng 26 đề mục là 10 kasiṇa, 10 đề mục bất mỹ: 4 đề mục vô lượng tâm, 1 đ? mục thân hành niệm, 1 đề mục số tức quan. Ðịnh nhị thiền sanh khởi bằng 15 đề mục là 10 kasina, 4 vô lượng tâm, 1 số tức quan. Ðịnh tam thiền và định tứ thiền cũng vậy. Ðịnh ngũ thiền sanh khởi bằng 12 đề mục là 10 kasina, xả vô lượng tâm, số tức quan. Ðịnh vô sắc thiền sanh khởi bằng 4 đề mục vô sắc, mỗi thứ một bậc định.

Comp. 203

[119] Ba pháp cần tu tập (bhāvetabbadham-ma):

Tức là ba loại định (samādhi)

1. Ðịnh hữu tầm hữu tứ (savitakkasavicāro sa-mādhi) , nghĩa là loại định vừa có tầm vừa có tứ. Tức Ðịnh trong sơ thiền.

2. Ðịnh vô tầm hữu tứ (avitakkavicāramatto samādhi) , là loại định không có tầm nhưng còn tứ. Tức là định trong nhị thiền.

3. Ðịnh vô tầm vô tứ (avitakkāvicāro samā-dhi), loại định không còn tầm cũng không còn tứ. Tức là định trong tam thiền trở lên.

D. III.275: Dasuttara sutta

[120] Ba sự phân bố tài sản (bhogavibhāga)

1. Ekena bhoge bhuñjeyya, một phần dùng để nuôi sống bản thân và gia đình quyến thuộc.

2. Dvīhi kammaṃ payojage, hai phần dùng để đầu tư công việc nghề nghiệp...

3. Catutthañca nidhāpeyya, một phần tư dùng để dự phòng hoặc làm phước.

D. III.188.

[121] Ba ngôi báu, tam bảo (ratanattaya):

1. Phật bảo (buddharatana, Ðức Phật như báu vật của nhân thiên, Ngài đã tự giác ngộ chân lý và dạy người khác tu tập để giác ngộ như Ngài.

2. Pháp bảo (dhammaratana), Giáo pháp như báu vật của nhân thiên, giáo pháp của Ðức Phật toàn hảo và hướng thượng.

3. Tăng bảo (saṅgharatana), Tăng chúng như báu vật của nhân thiên, Tăng như phước điền, Tăng là đệ tử xuất gia trong giáo pháp Ðức Phật.

Tam bảo, còn được gọi là tam y chỉ, là chỗ nương tựa cao quí, đối tượng qui y của chư tín đồ Phật giáo.

Kh. 1.

[122] Ba thế giới hữu tình (loka):

1. Nhân giới (manussaloka) thế giới loài người.
2. Thiên giới (devaloka) , thế giới các vị trời cõi dục.
3. Phạm thiên giới (brahmaloka), thế giới các vị phạm thiên cõi sắc và vô sắc.

Ba thế giới hữu tình này chỉ nói đến các cõi mà có chúng sanh hữu trí nương trú.

D.A. I.173; M.A. I.397

[123] Ba thế giới vũ trụ (loka):

1. Hữu vi thế giới (saṅkhāraloka), tức là chỉ tất cả pháp thực tính bị tạo tác theo duyên.

2. Chúng sanh thế giới (sattaloka), tức là chỉ tất cả các loài chúng sanh noãn, thai, thấp, hóa, đa dạng chúng sanh hữu mạng quyền.

3. Không gian thế giới (okāsaloka), tức là nói đến phạm vi v?n hành của thái dương hệ, các hành tinh, địa phận quốc độ v.v...

Vism . 204; D.A. I.173; M.A. I.397.

[124] Ba thế giới không gian (loka):

1. Dục giới (kāmaloka) , gồm 11 cõi dục.
2. Sắc giới (rūpaloka), gồm 16 cõi hữu sắc.
3. Vô sắc giới, (arūpaloka), g?m 4 cõi vô sắc.

Ba thế giới này có sách gọi là hữu (bhava), nhưng không nhất định. Xem [117] Bhava.

[125] Ba luân của duyên sinh (vaṭṭa):

1. Phiền não luân (kilesavaṭṭa), gồm có các chi là Vô minh, ái và thủ.
2. Nghiệp luân (kammavaṭṭa), gồm có các chi: Hành và nghiệp hữu.
3. Quả luân (vipākavaṭṭa) , gồm có các chi là Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử.

[126] Ba minh (vijjā), sự thông suốt, sự thấu đạt:

1. Túc mạng minh (pubbenivāsānussatiñāṇa) trí nhớ biết các đời sống quá khứ của mình.

2. Sanh tử minh (cutūpapātañāṇa) trí biết rõ sự sanh tử của chúng sanh theo duyên nghiệp. Còn có một tên gọi khác là thiên nhãn trí -- dibbacakkhu-ñāṇa.

3. Lậu tận minh (āsavakkhayañāṇa) trí thấu rõ sự đoạn tận lậu hoặc, liễu tri đạo lộ đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc; đây là trí giác ngộ cao tột.

Ba minh này còn gọi là ba trí; xem [356] Tám Minh -- vijjā.

D. III.220, 275; A. V.211.

[127] Ba giải thoát (vimokkha): sự giải thoát dựa theo cách tỏ ngộ tam tướng:

1. Không tánh giải thoát (suññatavimokkha), tức là sự giải thoát do nương đề mục vô ngã tùy quán -- anatta -- mà nhổ lên ngã chấp thủ; nghĩa là tuệ quán thấy danh sắc rỗng không rồi chứng ngộ Níp-bàn.

2. Vô tướng giải thoát (animittavimokkha), tức là sự giải thoát do nương đề mục vô thường tùy quán-anicca- mà nhổ lên đảo nghịch tướng; nghĩa là tuệ quán thấy danh sắc vô thường rồi chứng ngộ Níp-bàn.

3. Vô nguyện giải thoát (appaṇihitavimokkha) tức là sự giải thoát do nương đề mục khổ não tùy quán - dukkha - mà nhổ lên khát vọng ái chấp; nghĩa là tuệ quán thấy danh sắc là phiền toái rồi chứng ngộ Níp-bàn.

Xem [140]: Ba định -- samādhi.

Ps. II.35; Vism. 657; Comp. 211.

[128] Ba sự kiêng tránh (virati) , sự kiêng ngăn ác hạnh, kiêng trừ điều xấu:

1. Kiêng tránh do đối đầu (sampattavirati) tức là do hoàn cảnh hiện tại không thể làm điều xấu; hoặc khi gặp cảnh ngộ bèn suy xét đến danh dự bản thân hay danh tự gia tộc mới không làm điều quấy. Sự kiêng tránh này không phải do thọ trì học giới, không do tác ý trước.

2. Kiêng tránh do thọ trì (samādānavirati) t?c là do thọ trì học giới, do tác ý trước nên ngăn không làm điều ác quấy.

3. Kiêng tránh do đoạn trừ (samucchedavirati), cũng gọi là sự kiêng tránh do nhổ bỏ (setughāta-virati), tức sự ngăn trừ ác hạnh của bậc đã chứng thánh đạo, các vị ấy đã đoạn tuyệt điều ác, bứng gốc phiền não nên không còn các điều quấy nữa.

Hai điều đầu là sự kiêng trừ không chắc chắn, chỉ có điều thứ ba là sự kiêng trừ tuyệt đối chắc chắn.

D.A. I.305; Kh.A. 142; Dhs A.103.

[129] Ba sự viễn ly (viveka) , sự lìa xa, sự cách ly:

1. Thân viễn ly (kāyaviveka), tức là sự ẩn cư nơi thanh vắng, sống một mình, tách biệt hội chúng, sống xa lìa sự ồn ào.

2. Tâm viễn ly (cittaviveka), tức là tâm trú an tịnh, tách biệt triền cái ách phược và tiềm miên phiền não. Tâm thiền chứng, tâm thánh đạo thánh quả được gọi là tâm viễn ly.

3. Sanh y viễn ly (upadhiviveka), tức là sự tách biệt các hành, đoạn trừ sự tái sanh, ám chỉ Níp-bàn.

Nd1 26, 140, 157, 314.

[130] Ba pháp thuộc phần thù thắng (vise-sabhāgiyadhamma).

Tức là ba thiện căn (kusalamūla). Xem [83].

D. III: Dasuttara sutta.

[131] Ba cảm thọ (vedanā).

xem [105] pháp cần biến tri.

[132] Ba hữu vi tướng (saṅkhatalakkhaṇa):

1. Sanh hiển hiện (uppādo paññāyati)
2. Diệt hiển hiện (vayo paññāyati)
3. Trụ biến đổi hiển hiện (ṭhitassa aññathat-taṃ paññāyati).

A. I.152.

[133] Ba Hành (saṅkhāra), nói theo thực tính pháp tạo tác:

1. Thân hành (kāyasaṅkhāra), tức là hơi thở ra vô, sở hành của thân.
2. Khẩu hành (vacīsaṅkhāra), tức là Tầm và Tứ, sở hành của khẩu.
3. Tâm hành (cittasaṅkhāra), tức là thọ và tưởng, sở hành của ý.

Ba loại hành đây liên hệ với thiền diệt, tức là khi nhập thiền diệt, các thực tính pháp tạo tác này sẽ tuần tự diệt mất, trước là khẩu hành (tầm tứ) diệt, kế là thân hành (hơi thở) diệt, sau cùng là tâm hành (thọ tưởng) diệt.

M. I.301; S. IV.293

[134] Ba Hành (saṅkhāra) loại khác, nói theo pháp tác thành nghiệp:

1. Thân hành (kāyasaṅkhāra), sự cố ý hành động bằng thân, còn gọi là thân tư niệm-Kāyasañcetanā.

1. Khẩu hành (vacīsaṅkhāra), sự cố ý hành động bằng lời nói, còn gọi là khẩu tư niệm-vacīsañcetanā.

2. Tâm hành (cittasaṅkhāra) hay ý hành (ma-nosaṅkhāra) , sự cố ý hành động bằng tư tưởng, còn gọi là ý tư niệm -- manosañcetanā.

Ba loại hành này ý nghĩa liên quan đến y tương sinh -- paṭiccasamuppāda.

M. I.54, 390; S. Ī; Vbh. 135.

[135] Ba pháp cần tác chứng (sacchikātab-badhamma):

1. Túc mạng minh (pubbenivāsānussatiñā-ṇaṃ).
2. Sanh tử minh (catūpapātañāṇaṃ)
3. Lậu tận minh (āsavakkhayañāṇaṃ)

Còn gọi là tam minh (vijjā). Xem [126].

D. III.257: Dasuttara sutta.

[136] Ba diệu pháp hay chánh pháp (sad-dhamma):

1. Chánh pháp học (pariyattisaddhamma) tức là những Phật ngôn cần phải học hiểu,

2. Chánh pháp hành (paṭipattisaddhamma) tức là con đường Bát chánh cần phải tu tập.

3. Chánh pháp thành (paṭivedhasaddhamma) tức là đạo quả, là pháp cần đắc chứng giác ngộ. Ðây còn được gọi là adhigamasaddhamma;

Vin A. 225; A.A. V.33.

[137] Ba sự tri túc (santosa), sự bằng lòng, sự biết đủ trong bốn món vật dụng:

1. Tri túc với thứ có được (yathālābhasantosa), tức là khi phát sanh vật gì đến ta, dù thô tế tốt xấu, ta cũng bằng lòng, không bất mãn, không mong cầu vật khác nữa.

2. Tri túc theo sức mình (yathābalasantosa) tức là chỉ chấp nhận thọ dụng vừa theo sức lực khả năng hưởng thụ thôi, không muốn nhận lãnh quá tải của cơ thể dung chứa...

3. Tri túc theo sự thích hợp (yathāsāruppa-santosa) tức là chỉ chấp nhận thứ gì phù hợp với tướng mạo, địa vị, sinh mạng và sở hành của mình thôi. Thí dụ: một vị Tỳ kheo không hoan hỷ nhận vàng, bạc, ruộng đất... vì đó không thích hợp với phạm hạnh sa môn.

Ba sự tri túc này áp dụng với 4 món vật dụng, nên thành có 12 sự tri túc, nếu kể rộng.

Cũng nên hiểu rằng ba sự tri túc vừa nêu trên chỉ có xuất xứ trong sớ giải atthakathā và ṭīkā , do các bậc Luận giải trình bày để giảng dạy cho tăng chúng tu tập.

A.A. I.45; Kh. A. 145; Ud. A. 229, v.v...

[138] Ba ước lệ của bậc chân nhân (sappu-risapaññatti) , hạnh kiểm mà bậc thiện nhân tán thành:

1. Bố thí (dāna), tức là sự xả tài giúp ích cho người khác.

2. Xuất gia (pabbajjā), tức là sự thoát ly điều bận rộn phiền não, thọ trì pháp không não hại, sống chế ngự, điều phục và hòa hợp.

3. Phụng dưỡng mẹ cha (mātāpitūpaṭṭhāna), tức là sự cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ khiến cho mẹ cha được sống an lạc.

A. I.151

[139] Ba loại định (samādhi) , sự an trú tâm vào cảnh:

1. Sát na định (khaṇikasamādhi), là tâm định thoáng chốc; nói về định của sát na tâm thiện dục giới suy tư trên đối tượng.

2. Cận hành định (upacārasamādhi), là tâm an trú trong đề mục gần như vững vàng; cũng là định của tâm thiện dục giới, nhưng sự an trụ này có trạng thái khắn khít hơn chuyên chú hơn sát na định.

3. An chỉ định (Appanāsamādhi), là tâm định kiên cố trong đề mục, đến mức kiên cố bất động; Ðây là định của tâm thiền đáo đại.

Dhs A. 117; Vism. 144.

[140] Ba loại định (samādhi), trạng thái tâm định trong sự giải thoát:

1. Không tánh định (suññatāsamādhi), tức là định tâm trong đề mục vô ngã tướng minh sát cho đến khi giác ngộ.

2. Vô tướng định (animittasamādhi) , tức là định tâm trong đề mục vô thường tướng minh sát cho đến khi giác ngộ.

3. Vô nguyện định (appaṇihitasamādhi), tức là định tâm trong đề mục khổ não tướng minh sát cho đến khi giác ngộ.

Xem [127] ba sự giải thoát (vimokkha).

D. III.219; A. I.299; Ps. I.119.

[141] Ba sự thành đạt (sampatti)1, hay tài sản, điều thành tựu mong mỏi:

1. Sự thành đạt thân người (manussasampatti); cũng có nghĩa là tài sản nhân loại.
2. Sự thành đạt thân chư thiên (devasampatti); cũng có nghĩa là tài sản chư thiên.
3. Sự thành đạt Níp-bàn (nibbānasampati); cũng có nghĩa là tài sản Níp-bàn hay tài sản thánh nhân.

Kh. 7; Dh. A. III.183.

[142] Ba sự thành tựu (sampatti) 2, điều kiện thành tựu quả thí lớn:

1 . Thành tựu ruộng phước (khettasampatti), tức là nói đến đối tượng thí, người thọ thí là bậc chánh hạnh, bậc hội đủ các ân đức đặc biệt.

2. Thành tựu vật thí (deyyadhammasampatti), tức là có vật thí đầy đủ, hợp pháp, thanh tịnh và thích hợp lợi ích cho người nhận.

3. Thành tựu tâm lý (cittasampatti), tức là tác ý bố thí có đầy đủ, có tâm tịnh tín, có tâm hoan hỷ trong ba thời: trước khi làm, đang khi làm và sau khi làm.

Ud. A. 199.

[143] Ba học pháp (sikkhā), thường gọi là tam học (tisikkhā), là điều tu tập căn bản để rèn luyện trau dồi thân khẩu ý và tuệ tăng tiến đến sự chứng đạt mục đích Níp-bàn:

1. Tăng thượng giới học (adhisīlasikkhā), sự học tập trau dồi giới hạnh đầy đủ đến mức thanh tịnh thân và khẩu.

2. Tăng thượng tâm học (adhicittasikkhā), sự học tập trau dồi thanh tịnh đến mức tâm định kiên cố.

3, Tăng thượng tuệ học (adhipaññāsikkhā), sự học tập trau dồi trí tuệ minh mẫn đạt đến mức phát sanh các tuệ minh sát.

Tóm lại, tam học là Giới, Ðịnh và tuệ.

D. III.220; A. I.229.

[144] Ba thiện hạnh (sucarita), sở hành tốt đẹp, hành vi chơn chánh:

1. Thân thiện hạnh (kāyasucarita), sở hành tốt đẹp về thân, tức là thực hành giới, ngăn trừ sự sát sanh, trộm cắp và tà dâm.

2. Khẩu thiện hạnh (vacīsucarita) , sở hành tốt đẹp về khẩu, tức là thực hành giới, ngăn trừ sự nói dối, nói đâm thọc, nói độc ác, nói vô ích.

3. Ý thiện hạnh (manosucarita), sở hành ý tốt đẹp, nghĩa là tư duy không tham ác, không sân ác và có chánh kiến.

Xem giải chi tiết ở phần Thập thiện nghiệp [397].

D. III.215; Dhs. 1306.

[145] Ba bậc nhập lưu (sotāpanna), bậc Thánh Tu đà huờn:

1. Nhất chủng sanh (ekabījī), bậc nhập lưu mà chỉ sanh lại cõi dục giới một lần nữa rồi viên tịch.

2 . Lục chủng sanh (kolaṅkola), bậc nhập lưu mà còn sanh lại cõi dục từ hai đến sáu lần nữa mới đắc A-la-hán và viên tịch.

3. Thất chủng sanh (sattakkhattuparama), bậc nhập lưu mà phải sanh lại cõi dục cho đến bảy lần, nhưng đó là mức tối đa, vị ấy chắc chắn sẽ chứng A-la-hán và viên tịch. Sở dĩ được phân ra như thế là do tuệ minh sát các quyền (indriya) mạnh, trung và yếu theo tuần tự.

A. I.233, IV. 380, V.120; Pug. 3, 16, 74.

[146] Ba pháp thuộc phần hạ liệt (hāna-bhāgiyadhamma):

Tức là Ba bất thiện căn. Xem [68].

D. III.275


Ðầu trang | Mục lục |
Một Pháp: 1-11 | Hai Pháp: 12-67 | Ba Pháp: 68-146 | Bốn Pháp: 147-232 | Năm Pháp: 233-284 |
Sáu Pháp: 285-315 | Bảy Pháp: 316-342 | Tám Pháp: 343-364 | Chín Pháp: 365-383 | Mười Pháp: 384-421 |
Trên Mười Pháp: 422-440 | Phụ Lục: 441-442

Chân thành cám ơn Tỳ kheo Giác Giới và Tỳ kheo Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, 06-2002)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 03-06-2002