hi Ðức Phật rời bỏ gia đình để đi tìm sự giải thoát cho
chúng sanh khỏi những khổ đau, Ngài đã tìm đến tu học với hai vị
Thiền sư nổi tiếng.
Ngài Alara Kalama, vị thầy đầu tiên, dạy Ðức Phật về Tứ
Thiền, các tầng thiền-na trong sắc giới. Ðức Phật là người học
trò rất thông minh, Ngài học rất nhanh. Chẳng lâu sau, vị thầy nhờ Ngài ở
lại dạy vì sự hiểu biết của Ngài đã ngang bằng với thầy. Nhưng Ðức
Phật, lúc đó hãy còn là Thái tử Siddhartha Gotama (Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm), từ
chối và nói rằng Ngài chưa đạt được mục đích của mình, và từ giã vị
thầy nầy để đến với vị thầy thứ hai, ngài Uddaka Ramaputta. Người
thầy thứ hai dạy Ðức Phật về bốn tầng thiền vô sắc, là các tầng
Thiền-na vi tế hơn, khó đạt được hơn tầng Thiền trước
đó. Lần nữa, Ðức Phật lại chứng tỏ mình là một người học trò xuất
sắc, và vị thầy của Ngài lại yêu cầu Ngài hãy ở lại hướng dẫn các
đệ tử khác. Lần nữa, Thái tử lại từ chối vì Ngài nhận thấy rằng dù
Ngài đã đạt được tầng Thiền cao nhất, nhưng khi xả định, Ngài vẫn
thấy khổ đau, phiền não như trước. Không có gì thay đổi nhiều. Vì
thầy Uddaka Ramaputta nói không còn gì nữa để dạy, Thái tử biết rằng
Ngài phải tự mình đi tìm chân lý. Ngài từ giã năm người bạn đồng tu
với mình. Họ không muốn theo Ngài, mà chọn lựa ở lại, với sự an ổn,
bảo đảm của một người thầy danh tiếng.
Khi Thái tử đi đến gốc cây Bồ đề ở ở một vùng ngày
nay có tên là Bodhgaya (Bồ đề Ðạo tràng), bắc Ấn Ðộ, Ngài có
quyết tâm lớn. Ngài thề nguyện sẽ ngồi đó không nhúc nhích,
không đứng dậy cho đến khi tìm được sự giải thoát, dầu cho thịt xương
của Ngài có vữa ra. Thế là Ngài ngồi và dùng các khả năng Thiền
định đã học để đi sâu vào Ðịnh, từ Sơ Thiền đến Bát
Thiền và trở lại từ đầu. Trong lúc ngồi, Ma vương đến cám dỗ,
nhưng Ngài đã chiến thắng nó. Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, an định,
không mảy may lay động, Ngài đã đạt được sự Giác Ngộ sâu xa nhất. Khi xả
định, Ngài nhận ra rằng Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo là một thực
tại nội tâm thông suốt. Sau những việc đó, Ngài nhận ra mình đã chứng
đắc, trở thành Ðức Phật, bậc Ðại Giác Ngộ.
Ðức Phật sau đó trong niềm hân hoan của sự giải thoát, cảm
nhận ơn cây Bồ đề đã chở che cho Ngài. Ðức Phật ở đó một tháng, rồi
theo lời khẩn cầu của Phạm Thiên (Brahma Sahampati), Ðức Phật quyết định
đi truyền bá giáo lý của mình. Lúc đầu nghĩ rằng giáo lý của
Ngài quá cao siêu, quá khó hiểu. Sợ rằng khi truyền đạt lại cho chúng
sanh, Ngài sẽ thất vọng vì sự không thông suốt của họ. Nhưng cuối
cùng Ðức Phật xuôi lòng, và đồng ý dạy vì lợi ích của người và
trời.
Trước hết Ðức Phật nghĩ đến những vị thầy của mình.
Nhưng khi dùng nhãn thông để tìm kiếm họ, Ðức Phật khám phá ra
họ đã qua đời. Sau đó Ðức Phật quyết định dạy cho năm người bạn
đạo cũ của mình. Ðức Phật tìm ra họ đang ở gần Benares. Ðức Phật
quyết định đi đến đó để gặp họ.
Ðức Phật đi bộ suốt cả chặng đường. Trong bốn mươi lăm năm
truyền giáo, Ngài đi như thế đến khắp mọi nơi. Ðức Phật
chẳng bao giờ dùng xe, vì trong những ngày ấy xe đều do súc vật kéo, và
Ðức Phật không bao giờ muốn phải làm khổ con vật nào. Do đó, một trong
những giới luật cho tăng ni là không được dùng xe do súc vật kéo. Ngày nay
chúng ta may mắn hơn, có những loại xe khác. Ðức Phật lúc nào cũng đi bộ.
Hằng ngày, Ðức Phật đều thuyết giảng. Nhờ thế ngày
nay ta có thể thừa hưởng được gia tài đồ sộ của Ngài. Trong các kinh
điển có hơn 17.500 bài giảng.
Khi Ðức Phật đi đến gần Benares, năm nhà sư đạo hạnh
trông thấy Ðức Phật đang đi đến gần. Họ nói với nhau, "Nhìn
kìa, ông Gotama đang đi đến. Ông ấy đã từ bỏ cuộc sống đạo hạnh. Ông
ấy không còn là một tu sĩ nữa. Trông ông ấy khỏe mạnh, sạch sẽ quá. Chúng
ta nhất quyết không chào hỏi khi ông ấy đến gần". Nhưng khi Ðức
Phật đến gần hơn, họ không thực hiện được dự định vì dáng vẻ
oai nghi và khuôn mặt rạng ngời của Phật. Họ chào hỏi Ðức Phật rất lễ
phép.
Lúc đó Ðức Phật bảo với họ rằng, "Ta đã thành Phật
và ta sẽ truyền dạy cho các người giáo lý của ta". Ngạc nhiên,
họ hỏi: "Nhưng làm sao chúng tôi biết đó là sự thật? Làm cách
nào để chứng minh?" Ðức Phật nói: "Các người đã biết ta
hơn sáu năm. Có bao giờ ta dối gạt các người điều gì không?"
Họ nói: "Không". Rồi Ðức Phật nói "Hãy nghe một thời pháp
của ta". Các vị đạo sĩ bằng lòng. Nói cách khác là họ đồng ý
cho Ðức Phật một cơ hội. Họ sửa soạn chỗ ngồi cho Ðức Phật trong
vườn nai Isipatanna, ngoại ô Benares và ở đó với Ðức Phật một tuần. Mỗi
ngày họ thay nhau đi khất thực.
Lúc đó Ðức Phật bắt đầu thuyết giảng bài kinh đầu tiên
sau khi Giác Ngộ - Kinh Chuyển Pháp Luân. Ðức Phật bắt đầu chuyển
bánh xe Pháp với bài giảng đầu tiên và may mắn làm sao, cho tới ngày nay
bánh xe Pháp vẫn còn luân chuyển. Cũng có nhiều thời mạt Pháp xảy ra,
lúc đó thật là khó khăn. Thí dụ đã có những lúc ở Sri Lanka người ta
không thấy bóng dáng một nhà tu. Phật Pháp thường bị đe dọa, chống đối
vì nó đi ngược lại với bản năng con người. Ngược với dòng chảy, ngược
triều lưu.
Khi Ðức Phật kết thúc bài Pháp, một trong năm vị đạo sĩ
đã chứng đắc. Ðức Phật nói: "Anna Kondanno thấy, Anna Kondanno
biết". Thấy và biết. Biết thôi chưa đủ. Thấy là cái thấy
của nội tâm, bản tánh của tâm, làm thay đổi hoàn toàn cái nhìn và quan
điểm của con người. Anna Kondanno (A-nhã Kiều-trần-như) là vị A-la-hán
đầu tiên và cũng là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên.
Ðức Phật cũng được gọi là một vị A-la-hán: "Namo
tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa". Ngài là A-la-hán mà cũng là Phật.
Ðiều khác biệt là Ðức Phật tự tìm ra Tứ Thánh đế và Bát chánh
đạo, không có thầy dẫn dắt, trong khi một vị A-la-hán giác ngộ nhờ nương
theo Ðức Phật. Khi Phật Pháp không còn hiện hữu, sau nhiều a tăng kỳ
kiếp một Ðức Phật khác sẽ xuất hiện, để tìm ra được đúng
những giáo lý về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Ðức Phật là
người có khả năng thuyết Pháp. Ðó là một khả năng hiếm có. Có các
Ðức Phật được gọi là Paccekabuddha (Ðộc Giác Phật, Bích Chi Phật, Duyên
Giác Phật). Họ đạt Giác Ngộ nhưng họ không có tài giảng Pháp.
Khi chúng ta đọc tụng kinh pháp, ta thường ngỡ ngàng trước
việc Ðức Phật nhiều lần lập lại cùng những từ ngữ. Dầu trong
tiếng Pali ta nghe du dương, nhưng được lập đi, lập lại nhiều lần, ta
không hỏi tự hỏi tại sao. Nhưng không có gì đáng ngạc nhiên cả. Khi nói, ai
cũng thường lập đi, lập lại. Hơn nữa, Ðức Phật nhận ra rằng rất khó suy
nghĩ sâu xa về một sự thật thậm sâu bằng thính giác, vì lẽ đó Ðức
Phật đã nhấn mạnh bằng cách lập đi, lập lại.
Tứ Diệu Ðế
Tứ Diệu Ðế bắt đầu bằng sự thật của khổ đau. Năm
người bạn mà Ðức Phật giảng bài Pháp đầu tiên là năm đạo sư đã tu khổ
hạnh trong sáu năm. Ðức Phật cũng đã làm như thế, nhưng sau đó Ðức
Phật nhận thấy rằng sự hành xác không đem lại Giác Ngộ. Trái lại, cách
sống buông trôi hưởng lạc như Ðức Phật đã từng sống khi còn là Thái tử
trong cung điện, cũng không mang lại hạnh phúc. Ðức Phật nhận ra rằng chỉ
có con đường duy nhất - con đường Trung Ðạo. Không có sự cực đoan nào là
tốt cả. Các vị đạo sư này đã tu ép xác. Họ hiểu về những đau
khổ của thân. Ðức Phật không cần phải nhấn mạnh về điều đó.
Họ có thể hiểu dễ dàng.
Nhưng đối với chúng ta không dễ. Dầu khi ngồi Thiền ta có
kinh nghiệm về những đau đớn, khó chịu ở thân, nhưng sau khi xả
Thiền, về nhà, đau đớn cũng không còn nữa. Như thế đó chỉ là
những đau đớn tạm thời, ta có thể chịu đựng được. Ðiều chúng ta
có thể không biết là thân không chỉ có những đau đớn, mà chính
thân là một cái khổ. Nói một cách là có thân là có khổ. Phải lo cho thân
là khổ. Ở đây không chỉ nói về cái khổ khi ta phải hứng chịu một
tai họa nào đó. Tai họa là một chuyện, sự thật khổ đau là một
chuyện khác nữa. Ðức Phật nói:
- Sanh khổ
- Tử khổ
- Hoại diệt khổ
- Không được cái mình muốn thì khổ
Ðây là những nỗi khổ lớn cho cả chúng sanh, còn bao nhiêu
cái khổ nữa bên cạnh sinh, già, bệnh, chết. Rõ ràng là lúc vui vẻ an
ổn, ta không biết đến cái khổ trong ta. Ta có thể thương hại ai
đó, vui mừng vì mình không ở trong cùng cảnh khổ, quên rằng cái khổ luôn
có mặt trong ta. Ngay chính trong lúc vui, ta cũng khổ vì không thể kéo dài
niềm vui. Dục lạc biến mất khi ta muốn duy trì nó mãi. Mỗi khi ta
muốn bám viú vào chúng, chúng lại qua đi , và ta lại phải bỏ công đi tìm.
Ngay chính thân ta cũng không thể duy trì được sự sống
nếu như nó không luôn được bồi dưỡng , tắm rửa, vận động và chữa
trị. Ðủ loại chữa trị: kính, răng, máy trợ thính, thuốc bổ, thuốc ho, dầu
gội, v.v... Bao nhiêu tiền đã phải đổ ra để giữ thân thể
tiếp tục hoạt động, chứ chưa nói đến việc làm cho nó tốt hơn.
Ta không thể làm cho nó trẻ ra, dầu có bao nhiêu người đã cố gắng làm
việc đó. Bao công sức, năng lực, tiền tài đã đổ ra chỉ để giữ
cho thân thể hoạt động. Nếu không thân thể sẽ hoại diệt. Ta
sẽ không thể sử dụng được nó nữa. Việc nó không nghe lời ta van cầu
được trẻ mãi , có sức khỏe, đẹp đẽ, sống lâu, mà chỉ làm trái ngược,
cũng có thể coi là một cái khổ.
Cái khổ nhất của thân là nó luôn đòi hỏi nọ kia, mà đôi
khi ta phải bỏ hết cả đời chỉ mong thỏa mãn nó. Tất cả những tiền
của người ta tạo ra, bao nhiêu công sức người ta phải tổn hao, là chỉ
để giữ cho thân được an toàn sung sướng. Ta phải làm việc cực
nhọc để có ăn, có nhà cửa, quần áo, thuốc men. Nếu không có
thân ta đâu phải vất vả như thế. Vậy mà nhiều người còn bỏ ra bao
nhiêu thì giờ, tiền bạc để làm cho thân thoải mái, sung sướng hơn
thế nữa. Ðó có lẽ là nỗi khổ nhất - phải hoang phí cuộc đời cho
những mục tiêu như thế.
Nhưng không chỉ có thân là khổ. Tâm cũng thế. Tâm đâu có
nghe theo ta. Nó chỉ làm theo ý nó, thay vì ở yên theo ý ta. Nó luôn
nghĩ về những điều làm ta thêm đau khổ. Nếu đó không gọi là
đau khổ, thì gì mới là đau khổ? Nó còn u mê nữa. Và đó cũng là một cái
khổ.
Tâm nhảy từ việc này qua việc khác. Chính quá trình tư
duy cũng là một cái khổ, ngay cả những tư tưởng khôn ngoan, khéo léo cũng
có mầm bất tịnh trong đó. Khi còn phải suy tư về bất cứ điều gì
thì không thể thực sự có an tĩnh.
Cả thân và tâm đều là khổ. Ðức Phật nói chỉ có một
lý do, một nguyên nhân chính ta đau khổ đó là ái dục, lòng ham muốn. Có
ba loại ái dục chính mà những ham muốn khác đều từ đó mà ra. Ðó là
ham sống, ham muốn được thỏa mãn dục lạc và ham muốn bỏ thân này. Vì ba
điều ham muốn đó, ta trầm luân trong khổ đau bởi chúng ở ngoài tầm tay
ta. Khó thể đạt được, khó thể làm ta thoả mãn. Chúng ta ở trong một
cuộc chiến không có hy vọng thắng, và đó là cái khổ.
Ta chiến đấu để được trường tồn, nhưng không có ai
còn hiện hữu khi cuộc sống của người ấy đã chấm dứt. Muốn được có
dục lạc, ta cũng phải tranh đấu vật vã không kém, nhưng điều đó cũng
vô vọng vì dục lạc thế gian chỉ tạm thời, chóng qua. Chúng không
thể kéo dài. Ðiều ham muốn thứ ba, muốn bỏ thân này, là cái đối
nghịch với lòng ham muốn được sống. Lòng ham muốn này phát sinh khi trong mắt
ta cuộc đời trở nên quá đen tối. Nhưng điều này cũng khó thể thực
hiện vì trừ đấng Giác Ngộ, không ai có thể hiện hữu mà không có
thân.
Hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế cho thấy ta đang
sống một cuộc đời thiếu ý nghĩa. Không cần biết tư tưởng ta tốt
đẹp thế nào, chúng đều sẽ bị hoại diệt. Nếu ta thấy rõ ràng
rằng lòng ham muốn của ta khó thể được thỏa mãn, thì ta phải tìm
phương cách để thoát ra những cảnh khổ mà ai cũng phải chịu. Không
ngoại trừ một ai. Hiểu như thế, ta sẽ thấy thương cảm mọi người,
dầu họ là người xấu xa, đáng ghét hay ngu si. Không có kẽ hở nào nhưng
có con đường để thoát ra.
Con đường thoát ra hướng vào bên trong chúng ta. Nếu suy
gẫm, ta sẽ thấy ta không thể tìm được gì ở bên ngoài ta. Số đông đi
tìm giải pháp ở bên ngoài, qua những điều kiện tốt hơn, người tốt
hơn, ít việc hơn, ít khổ hơn. Nếu ta có thể nhìn thấy được
những điều ấy vô vọng làm sao, ta sẽ không còn đi tìm kiếm ở
bên ngoài nữa. Thay vào đó, ta sẽ quay nhìn vào bên trong, để dần dần
đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau, gọi là giải thoát.
Ðức Phật không thực sự giải thích Giải thoát là gì. Nhưng
Ðức Phật đã nói những gì không phải là Giải thoát. Ðức Phật biết
rằng có giải thích cũng vô ích vì khi người ta chưa kinh qua Giải thoát,
người ta không thể hiểu được điều đó. Nhưng có thể nói
được thế nào là không phải Giải thoát, như thế ít nhất con người
cũng không tìm kiếm ở một chỗ khác.
Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho ý tưởng trên.
Xưa có một con cá và một con rùa kết bạn với nhau. Chúng đã sống trong
cùng một ao hồ một thời gian dài. Một ngày kia, rùa quyết định đi thăm
quang cảnh quanh hồ. Rùa đã nhìn được bao nhiêu cảnh đẹp, lạ để
về kể cho bạn mình là cá nghe. Cá rất thú vị và hỏi rùa về quang
cảnh trên mặt đất thế nào. Rùa trả lời rằng rất đẹp. Cá muốn biết
là mọi thứ trên mặt đất có trong suốt, mát, bóng bẩy, mịn màng, trơn
láng, dễ tuột, ướt át không? Khi rùa trả lời rằng trên mặt đất không có
những gì giống như thế cả, cá liền nói: "Vậy thì mặt đất có
gì tốt đẹp đâu?"
Bát Chánh Ðạo
Con đường dẫn đến sự đọan diệt khổ đau, để
được tự do, giải thoát, là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Giống
như các lời dạy khác của Ðức Phật, Bát chánh đạo cũng dựa vào ba phần:
cư xử có đạo đức (Giới), sự chú tâm (Ðịnh) và trí tuệ (Tuệ).
Bát chánh đạo cần được xem như con đường có tám ngành, tám
phần ngang nhau, mà ta cần thực hành tất cả tám phần đồng đều, chứ
không phải như một cái thang mà ta cần phải tuần tự leo xong cấp bực này mới
bước lên bậc thang khác. Bát chánh đạo cũng có thể được xem như là
một chuyển động vòng tròn vì nó bắt đầu bằng Chánh kiến và cuối
cùng kết thúc bằng Chánh kiến. Dầu Chánh kiến chỉ được nhắc ở
lúc ban đầu, nhưng kết quả của việc đi qua Bát chánh đạo phải là
Chánh kiến.
Chánh Kiến
Chánh kiến là bước đầu tiên vì trước hết ta phải
thấy rõ ràng chẳng có thể làm gì khác trong cuộc đời này hơn là đi
tìm con đường giải thoát khổ đau qua những giới luật tâm linh. Như thế
chắc chắn là ta phải tìm cho được những giới luật đúng để giúp ta
biết được mình đã làm gì sai. Những chướng ngại của chúng ta là khổ
đau, thất vọng, áy náy, cảm giác không trọn vẹn. Có một khoảng trống
trong trái tim ta cần được phủ lấp bằng một hay nhiều người, bằng tư
tưởng, bằng công việc, hay một niềm hy vọng. Rút cuộc không có gì
lấp nó đầy.
Khi một điều luật có thể giải thích được tại sao ta
phiền não và chỉ cho ta phương cách đoạn trừ phiền não, tiến tới
sự an vui, thì các điều luật đó phải rất đáng tin cậy. Hơn nữa, các
lời thuyết giảng cũng phải gần gũi với các kinh nghiệm của chúng sanh.
Pháp của Ðức Phật có thể làm được những điều đó.
Chánh kiến bao gồm việc nhận thức được rằng tất cả
chúng ta đều có thể thực sự tu sửa để tiến tới giải thoát.
Chánh kiến cũng có nghĩa là hiểu biết về nghiệp, biết
rằng chỉ có ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra cho ta,
không đổ thừa hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác hay bất cứ thứ gì ở
bên ngoài ta. Có nghĩa là ta làm chủ nghiệp của ta. Rằng ta có thể
thay đổi.
Biết rằng ta có thể thay đổi không chưa đủ, cần phải
có quyết tâm thay đổi. Ðó là hai cách nhìn đúng: hiểu biết
về nghiệp và ước muốn thay đổi để thoát ra khỏi những khổ đau.
Không phải là thay đổi thế giới ta đang sống , hay người chung quanh ta mà
là thay đổi chính chúng ta. Ta không thể thay đổi được vấn đề,
nhưng ta có thể thay đổi phản ứng của mình trước một vấn đề. Ngoài
ra ta còn có thể dần dần đi hết con đường Bát chánh đạo để
đạt được một chánh kiến về tự ngã, đó là vô ngã.
Ta cần có trí tuệ để thực hành các giới luật tâm linh.
Không có trí tuệ để biết mình cần phải làm gì, ta sẽ không
thể tu Thiền.
Vì có khổ đau con người mới có cơ hội để thực hành. Thay
vì lúc nào cũng trốn tránh mọi phiền não, cố gạt chúng ra khỏi mắt
ta hay than khóc, đau đớn vì chúng, ta nên mang ơn chúng. Ðó là người thầy
tốt của ta. Vị Thầy duy nhất của ta, nhưng tiếc thay không phải ai cũng
biết học hỏi từ thầy mình.
Có nhiều cách để đối phó với khổ đau. Cách đầu tiên
và cũng là thông dụng nhất là đổ lỗi cho người khác. Ðiều đó thì
dễ rồi. Mọi người không ít thì nhiều, đều hành động như
thế, nhưng cách đó hơi trẻ con. Cách thứ hai để đối phó với khổ
đau, thất vọng là trở nên chán nản, đắm chìm trong khổ đau. Cách thứ ba
là tự thương hại mình, cảm thấy như mình là người đang mang những nỗi
khổ đau của cả thế giới. Không có ai đau khổ bằng mình, việc đó rõ
ràng không đúng sự thật. Khi ta tự thương thân trách phận, ta cũng muốn cho
người khác phải khổ đau như ta. Nhưng hoài công. Hành động như thế ta
chỉ làm cho người khác khó chịu bực mình. Một cách đối phó nữa với đau
khổ là nghiến răng, đè nén tình cảm và làm như nó không có mặt. Cách
đó cũng không giải quyết được gì vì làm ngơ thì chẳng giải quyết
được gì cả.
Cách thứ năm là nhìn thẳng vào khổ đau, và nói rằng:
"Ồ, bạn cũ của tôi lại đến rồi. Lần này tôi sẽ học được
gì đây?". Ðó là chánh kiến. Lúc đó ta mới thật sự hiểu rằng
cõi người là cõi tốt nhất cho sự Giác ngộ. Khổ đau là người thầy tốt
nhất của ta vì nó sẽ nắm chặt lấy ta, nhấn chìm ta trong đau khổ, cho
đến khi ta học được điều gì từ đó. Lúc ấy, sự đau khổ mới
buông thả ta. Nếu ta không học được gì trong sự đau khổ đó, chắc
chắn là lần sau nó lại đến với ta nữa, vì cuộc đời có gì khác hơn là
một lớp học cho người lớn. Nếu ta không qua được một môn gì đó,
chắc chắn ta phải ngồi lại đó mãi. Bài học nào ta vắng mặt, ta sẽ gặp
lại nó. Ðó là lý do tại sao ta bắt gặp mình nhiều lần phản ứng cùng
một cách trong những hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên rồi cũng có lúc ta nhận
ra điều đó, và chánh kiến phát sinh: "Tôi phải làm cái gì đó
để tự thay đổi. Tôi cứ gặp phải vấn đề này mãi "
Chánh kiến là nền móng căn bản ta phải có để bước
vào con đường đạo. Chánh kiến lúc mới đầu chưa giúp ta có cái nhìn
đúng về tự ngã. Phải đợi đến một lúc sau. Căn bản, chánh kiến
liên quan đến hai sự thật, đầu tiên trong Tứ diệu đế. Khi ta thấy
đúng sự thật là ta đang ở trong một cuộc chiến vô vọng nếu ta cứ
tiếp tục đòi hỏi dục lạc, và bảo vệ cho cái tôi của mình, đó là
ta đang đi trên con đường đạo. Ðó là lúc ta bước vào đạo, và đó là
giây phút tuyệt vời. Lúc đó ta cảm thấy chắc chắn rằng ta đã tìm ra con
đường đạo, và chắc chắn là ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng. Chỉ
còn vấn đề thời gian. Cảm giác vui mừng đó cần thiết cho việc tu
Thiền, và tu Thiền là điều kiện tiên quyết để đi
trọn con đường.
Mỗi chúng ta là một minh chứng cho lời Phật dạy. Chúng ta có
đau khổ, có tham muốn, nhưng chúng ta cũng có chánh kiến và có thể
nhận biết nghiệp quả của mình. Chúng ta có thể thay đổi và
biết học hỏi từ những kinh nghiệm khổ đau trong quá khứ. Có rất
nhiều cách để ta chứng minh lời Ðức Phật dạy, nếu chúng ta
để ý quan sát đủ. Ðiều đó tạo cho chúng ta niềm tin rằng ta
có thể đi đến cuối con đường của Bát chánh đạo. Lòng tự tin này
rất cần thiết cho sự tu tập của ta. Tự tin không có nghĩa là cao ngạo, mà
là độc lập. Mỗi người chúng ta phải tự tìm sự giải thoát cho chính
mình.
Ðức Phật dạy rằng ta không nên nghe theo lời Phật dạy một cách
mù quáng mà phải tự tìm hiểu và chứng nghiệm được những điều
Phật dạy. Trong bài thuyết giảng nổi tiếng Kalama, Ðức Phật đã nói
về mười lý do ngăn trở ta đi theo con đường tâm linh. Những điều
này cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay cũng như cho dân tộc Kalama
trước đây. Chúng mang đầy ý nghĩa đối với ta bây giờ cũng như trước
đó.
Người Kalama đã đến gặp Phật khi Ngài đến viếng
thủ đô của Kesaputta và họ thưa với Ðức Phật: "Bạch Thế Tôn,
đã có rất nhiều vị giáo chủ đến thành phố của chúng con, mỗi
vị đều có những giáo lý làm chúng con tin tưởng được. Tuy nhiên
các vị giáo chủ lại bác bỏ, thoá mạ lẫn nhau. Giờ thì chúng con hoàn toàn
không biết tin vào ai nữa. Chúng con rất hoang mang ". Ðức Phật nói:
"Hỡi người Kalama, các người có nghi ngờ, thắc mắc là đúng". Rồi
Ðức Phật giảng cho họ về năm giới luật, và hỏi họ rằng có phải
họ sẽ được hạnh phúc nếu họ giữ theo năm giới luật này và đau
khổ nếu họ phạm giới. Người Kalama đồng ý với Ðức Phật như
thế. Lúc đó Ðức Phật thuyết, "Ðừng bao giờ tin vào kinh
điển, chỉ vì chúng đã được đọc tụng; biên chép hay được các
Thầy truyền trao xuống , hay vì mọi người chung quanh chúng ta đều
tin ; cũng không nên tin vì chúng có tính cách huyền bí hay chúng giống
như những điều mình vẫn tin tưởng, hay vì chúng hợp lý. Cũng đừng
tin vì đó là những quan điểm mình cần bênh vực; hay vì người nói là
một vị thầy nổi tiếng hay chỉ bởi vì vị Thầy mình đã nói như
thế".
Sau khi nghe lời giảng của Phật , người Kalama trở nên đệ
tử của Ðức Phật. Những lời hướng dẫn đó vẫn còn đúng cho đến ngày
nay. Ðừng tin tưởng vào điều gì đó vì nó là truyền thống, hay vì
mọi người quanh ta tin, hay vì chúng đã được viết trong sách vở,
nhưng Ðức Phật nói chỉ nên tin sau khi ta đã tìm hiểu và nhận biết
rằng điều đó có ích và đúng.
Rõ ràng là ta đã tìm thấy đau khổ nơi chính bản thân ta và
càng hướng vào bên trong để suy gẫm, ta càng thấy có nhiều bất như
ý. Nhưng khi chúng ta không còn muốn biến sự đau khổ của cá nhân
mình thành niềm vui cho chỉ riêng mình, thì sự xung đột sẽ biến mất,
khổ đau sẽ qua đi. Chấp nhận mọi việc như chúng xảy ra cũng là chánh
kiến.
Những người Bà la môn , các thầy cúng ở Ấn Ðộ thời đó,
không thích Phật vì Ngài đe dọa cách kiếm sống của họ. Ngài dạy
rằng con người không cần phải có người làm trung gian giữa họ với đấng
thần linh, mới có được hạnh phúc, và việc đổ hương lên các thần đá,
hay dâng cúng hương hoa đều vô ích. Vì đó là cách kiếm sống của
người Bà la môn, nên dù cũng có nhiều người Bà la môn sau trở thành
đệ tử Phật, số khác không khỏi có lòng thù hằn Ðức Phật.
Một hôm, một trong những người Bà la môn thù Phật đã đến
chỗ đức Phật đang thuyết giảng, đi qua đi lại trước mặt đức Phật.
Rồi ông ta dùng lời lẽ thô tục để chửi mắng Phật. Ông ta cho rằng Phật
đã truyền dạy những giáo lý sai lầm, Phật đáng bị đuổi ra khỏi
nước, rằng Phật đã phá vỡ nền tảng gia đình vì những người trai trẻ
đi theo Ðức Phật trở thành các vị tu sĩ, rằng dân chúng không nên ủng hộ
Phật; nghĩa là ông ta mạ lị Phật bằng đủ mọi lời lẽ.
Khi người Bà la môn đã hết lời chửi bới, Ðức Phật,
người từ nãy giờ đã ngồi im lặng nói: "Nầy, ông Bà la môn, ông
thường có khách đến nhà không?" người Bà la môn trả lời: "Dĩ
nhiên tôi luôn có khách đến nhà". Ðức Phật lại nói: "Khi có
khách trong nhà ông có tiếp đãi họ không? Có cho họ đồ ăn, uống
không?" Người Bà la môn trả lời: "Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên là tôi
cho họ đồ ăn, thức uống". Ðức Phật lại tiếp: "Vậy nếu
họ không nhận sự tử tế ấy, họ từ chối những đồ ông cho, thì
những món đồ đó thuộc về ai?" Người Bà la môn nói: "Của tôi ,
của tôi" Ðức Phật nói: "Ðúng vậy ông Bà la môn, khi ta không nhận
những món đồ của ông. Chúng thuộc về ông".
Ðây là một câu chuyện đáng cho chúng ta nhớ. Bất cứ sự
công kích , sân hận đe dọa nào, đều thuộc về người nói ra những
lời ấy. Chúng ta không phải nhận chúng là của ta.
Chánh Tư duy
Phần thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh Tư duy. Chánh tư duy
là kết quả của chánh kiến. Nếu có tà kiến, thì không thể
nào có tư duy đúng. Do đó ta phải cẩn thận với những suy nghĩ của mình.
Tất cả mọi tư duy đều bị ảnh hưởng của ngã chấp. Ta nhìn mọi
sự theo quan điểm của "theo tôi thấy", vì vậy dầu quan điểm
của ta đúng trong đời thường, trong đời sống tâm linh hành xử như thế
cũng là không đúng. Tuy nhiên ta phải bắt đầu từ cái mình có. Không
thể ngồi chờ đến ngày sự hiểu biết của ta tiến bộ hơn.
Ngày đó sẽ chẳng bao giờ đến, nếu ta không bắt đầu tu sửa ngay từ
bây giờ.
Hạnh phúc, an lạc không phải sinh ra là ta đã có được. Phải
qua bao kiên trì cố gắng tu tập, ta mới có được. Cố gắng để làm sao ta
luôn có chánh kiến, từ đó đưa đến sự suy nghĩ đúng. Chánh
kiến và chánh tư duy là phần trí tuệ của Bát chánh đạo.
Trước khi Ðức Phật Giác ngộ, khi Ngài còn là một vị Bồ Tát,
Ngài luôn theo dõi tất cả những hoạt động của tâm, và Ngài nhận ra rằng khi
các ác kiến, sân hận, ái dục phát khởi trong tâm, thì chính Ngài là
người đau khổ. Nhưng khi Ngài có những tư tưởng xả bỏ từ bi, vô nhiễm thì
chính Ngài là người được lợi ích. Từ đó Ðức Phật đã rèn luyện tâm
đến chỗ Ngài có thể đoạn diệt hết mọi tà kiến.
Chánh tư duy có ba đặc tính: xả, từ và vô nhiễm. Ta không
thể có tâm xả bỏ chỉ bằng ao ứơc hay tự đè nén. Mà phải dùng chánh
kiến suy nghĩ rằng ái dục chỉ đem lại khổ đau. Nếu ta có thể
thực chứng điều đó ngay nơi ta thì tự nhiên ta sẽ buông bỏ mọi tham
muốn dấy khởi. Và ta sẽ làm điều đó một cách vui vẻ, cảm thấy nhẹ
nhàng thoải mái khi buông bỏ mọi phiền não, khổ đau.
Lòng tham muốn bao giờ cũng mang lại khổ đau, vì nó chỉ dấy
khởi khi ta không có được cái mà ta muốn có. Có thể là vật chất hay
tinh thần, không quan trọng. Nhưng đó là điều ta không có, nên ta ao
ước, do đó ta coi sự thiếu sót đó là một khổ đau. Ðến khi không
được toại nguyện, thì ta buồn bực, tuyệt vọng, đau đớn, khổ sở.
Rõ ràng là ta khổ vì ta không được cái ta muốn.
Tuy nhiên khi đạt được điều mình mong ước, ta cũng bị
phiền não vì theo kinh nghiệm quá khứ, ta biết là sự thỏa mãn,
toại nguyện không thể kéo dài. Có rồi, ta lo lắng tìm cách để
giữ lại bên mình, để duy trì nó. Lo lắng là khổ, mà khi cái ta được
mất đi thì ta cũng khổ.
Khi cố gắng để duy trì một cái gì đó đều đem
đến cho ta sự căng thẳng, sợ hãi. Thí dụ như ta lo sợ phải đánh mất
người thân, của cải, tình cảm hay hoàn cảnh thuận lợi. Lo lắng sợ không có
được điều ta mong muốn. Khi đã thực chứng cái khổ này trong ta, ta sẽ
có thể buông bỏ chúng. Sự bám viú vào người, vào vật ta không muốn xa
lià, làm ta đau khổ. Không có gì hơn là đau khổ phiền não cho đến
ngày chính ta cũng phải ra đi. Nếu không nhìn ra được sự thật đó, ta
sẽ không thể thay đổi.
Khi ta có thể cho người khác vật mà ta đang quý
trọng, lúc đó ta mới thật sự thực hành tâm buông xả. Nếu ta có
thể cho một cách vui vẻ, chứ không phải nghiến răng, nhắm mắt vì
không muốn thấy nó mất đi, thì quả rằng ta đã biết sự bám viú, chấp
chặt vào gì đó là đau khổ.
Nhưng buông bỏ vật chất không quan trọng bằng buông bỏ
những cái nhìn định kiến của ta về tự ngã, về thế giới và
về cách những người ở chung quanh ta phải sống, cư xử như thế nào,
nhất là những người thân của ta. Bám viú vào ham mốn sở hữu, làm chủ, tất
cả đều là khổ đau.
Ngoài ra còn có lòng ham muốn về tinh thần, thí dụ được
yêu. Ðược làm vợ, làm mẹ, được nổi tiếng, được biết ơn. Bất cứ
ham muốn nào cũng là đau khổ, cản trở ta được sống hạnh phúc , an nhiên tự
tại. Không chấp nhận chính mình cũng là khổ đau. Ðiều này khác với
việc ta tu tập , cố gắng tự sửa đổi mình dần dần. Vì sự ao ước trong
tâm tưởng là kết quả của một cảm giác thiếu hụt, không vẹn toàn,
gây ra khổ. Chỉ là buông xả mới có thể dứt khỏi khổ đau. Khi còn ham
muốn, ta còn đau khổ. Trong chánh tư duy đã tiềm ẩn sự buông xả. từ bi,
vô nhiễm đối với đồng loại cộng với sự hiểu biết về sự thật
khổ đau hướng ta đến những tư duy đúng. Tất cả bốn sự thật (Tứ
Diệu Ðế) đan kết vào nhau vì chúng đi vào tận trong tư duy sâu
thẳm của ta. Nếu ta hiểu đúng, thì ta sẽ hành động đúng. Những khổ
đau của chúng ta cũng là khổ đau của chúng sanh được lập đi lập lại qua
không biết bao nhiêu lâu.
Thí dụ nếu ta ngắm một con chim. Thay vì để ý bộ
lông nó đẹp biết bao nhiêu, giọng hót nó líu lo làm sao, nó có
thể bay dễ dàng trên không trung, đi đến bất cứ nơi nào nó muốn,
hãy nhìn kỹ hơn nữa. Chú chim luôn ngó qua ngó lại, quay đầu qua phải, qua
trái, lo sợ con thú khác có thể tấn công nó, phá hoại ổ của nó. Lúc
khác thì vì vấn đề sinh tồn, nó luôn phải đi kiếm thức ăn. Và đó
chỉ là một động vật trong bao nhiêu động vật khác.
Hãy quan sát người chung quanh ta, nhìn nét mặt họ. Ðức
Phật khuyên chúng ta cần phải biết thế giới bên trong và bên ngoài ta.
Ðó là chánh niệm, tỉnh thức và biết. Nếu chúng ta có thể
thấy rằng tất cả những người ta tiếp xúc đều có khổ đau, ta có
thể suy ra, không nghi ngờ gì, đó cũng là sự thật đối với tất cả chúng
sanh ở khắp mọi nơi. Nhưng nếu tâm ta không hoàn toàn tin phục vào
điều đó, ta sẽ khó khởi tâm đại bi. Lúc nào cũng có những lời bài
bác nổi lên trong đầu: "Tôi cũng thương cô ấy chứ, nếu cô ấy
không nói năng như thế hay hành động như thế". Hay "Tôi
thương hại cô ấy chứ, nhưng cũng là do cô ấy tự mang hoạ đến cho mình
thôi". Những cách suy nghĩ như thế không cần thiết. Tất cả chúng
ta đều khổ đau, nhưng nếu ta không nhận ra điều ấy, thì lòng từ
bi bác ái của ta sẽ trở thành một thứ lúc có lúc không. Khi mọi
chuyện ổn thỏa , ta có thể chịu đựng được. Nhưng khi có khó khăn,
ta chịu thua. Chánh tư duy có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải cẩn
trọng trong hành động và ứng xử khéo léo. Không thể tuỳ thuộc vào
trạng thái tâm hồn của ta hay hành động của người khác.
Chánh tư duy là quá trình tạo nghiệp của chúng ta, khi tâm
thức ta đang tạo ra tư duy. Chánh kiến có thể có được nhờ vào trí
tuệ và tánh giác. Ðó là nền tảng tư duy của chúng ta. Tư duy luôn
phát khởi với mỗi hành động hay phản ứng của chúng ta. "Nghiệp,
này các Tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm", đó là những lời Phật dạy.
Ðó là cách chúng ta tạo nghiệp, và nếu ta thật sự tin tưởng rằng
nghiệp thiện cần thiết cho một đời sống lành mạnh, thì ta cần
phải cẩn thận với tư duy của mình.
Một đặc điểm thú vị của tư duy là nó giống như một tảng
băng: một phần ba nổi trên mặt nước, nhưng hai phần còn lại ở dưới nước.
Ta chỉ có thể thấy được phần nổi ở trên. Như chúng ta bố thí vật gì
đó, ta nghĩ đó là lòng rộng lượng , nhưng ta có thực sự quán sát cái chủ
tâm ở đằng sau lòng rộng lượng đó không? Ðể tự hiểu mình, ta phải
tìm hiểu nội tâm mình thấu đáo. Có rất nhiều ngõ ngách trong tâm
hồn con người ta. Chúng ta không muốn nhìn sự thật vì có những điều
không tốt đẹp ở nơi đó. Nhưng đó là vì chúng ta chỉ là con người,
nếu không ta đã ở cõi trời rồi. Tốt hơn hết là ta nên nhìn nhận
khuyết điểm của mình. Chỉ có những gì được mang ra ánh sáng, mới
có thể được lau chùi, làm cho tốt đẹp. Bụi bặm ở dưới chiếu sẽ
không được quét sạch, nếu không ta dở tấm chiếu lên. Ðức Phật đã
so sánh những nhiễm ô của ta giống như rơm ướt. Nếu ta cất chúng trong
những chỗ kín, chúng sẽ rũ mục. Nhưng nếu ta đem ra phơi nắng, thì
chúng sẽ khô và có thể sử dụng được. Hãy nhìn vào góc tối của tâm
hồn ta và quán sát kỹ chủ tâm của ta.
Ba phần kế trên con đường Bát chánh đạo nói về hành
động đạo đức: chánh ngữ, chánh mạng và chánh nghiệp.
Chánh Ngữ
Lời nói rất quan trọng , ta cần phải giữ ý tứ hơn trong
lời nói. Không phải vì ta có khả năng sử dụng ngôn ngữ, là ta biết
nghệ thuật nói chuyện.
Ðức Phật đã có lời khuyên rất sâu sắc về ngôn ngữ, rất
đáng để ta ghi nhớ: "Nếu bạn biết chuyện có hại và không
đúng, đừng nói ra. Nếu bạn biết chuyện có ích, nhưng không
đúng, đừng nói ra. Nếu bạn biết chuyện có ích, và đúng sự
thật, hãy đợi đúng thời điểm để nói ra".
Chúng ta phải tập bỏ nói những lời giả dối. Trước hết ta
cần phải suy nghĩ những lời mình nói, để biết chắc rằng chúng hữu
ích, chân thật và đúng thời, đúng lúc để nói. Khi người khác chịu
lắng nghe trong một trạng thái bình tâm, tỉnh trí, thì đó là đúng lúc.
Nhưng quan trọng hơn cả, những lời nói đó phải phát xuất từ lòng
thương yêu của ta. Chỉ những lúc ấy ta mới nên nói điều gì. Nếu
trong ta có lòng giận ghét, kình chống người nghe dù chỉ là chút ít,
điều đó cũng sẽ hiện ra trong lời nói của ta, như thế lời nói
của ta cũng vô ích. Ai cũng có lúc cảm thấy cần bảo người khác không nên
làm điều này, điều nọ. Khi phát ngôn, hãy nhớ những lời khuyên
trên để lời nói của ta có hiệu quả hơn.
Chánh ngữ thường được hiểu là không nói lời điêu ngoa,
không nói chuyện người, nói hai lưỡi, nói đâm thọc, nói lời dữ ác
hay chửi rủa người khác. Ðức Phật dạy rằng lời nói có thể gây thù hay
kết bạn, đem lại hạnh phúc gia đình hay đổ vỡ. Nó là cội rễ của tình
bạn đậm đà hay gây nên oán thù. Ðức Phật cũng nói rằng chánh ngữ cũng
có nghĩa là không đi đến cực đoan, nghĩa là lúc quá nhiều lời, lúc
cạy miệng không ra. Làm thế nào cũng bằng nói dối. Nó bắt nguồn từ
ý muốn làm mình thêm quan trọng.
Khi La Hầu La, con của Ðức Phật, được 7 tuổi, Ðức Phật đã
dạy con về việc không nói dối, là điều quan trọng cho trẻ con
cũng như người lớn. Nếu điều đó không quan trọng đến
việc dạy dỗ cho La Hầu La, Ðức Phật đã không nói đến. Ðức Phật
cho con coi một cái bình có ít nước trong đó và nói với La Hầu La: "La
Hầu La thấy gì trong đây?" Ðứa trẻ trả lời: "Con thấy một ít
nước". Ðức Phật nói: "Lòng tin cậy của người khác đối với kẻ
nói dối cũng ít như thế". Rồi Ngài đổ nước ra khỏi bình nói:
"Giờ thì con thấy gì?" La Hầu La trả lời: "Cái bình giờ trống
rỗng". Ðức Phật nói: "Ðúng vậy, người nói dối cũng trống
rỗng giống như thế". Rồi Ngài lật ngược cái bình lại , nói:
"La Hầu La giờ con thấy gì?" La Hầu La đáp: "Cái bình bị úp
xuống ". Ðức Phật nói: "Ðúng vậy, người mà nói dối thì cuộc đời
của họ sẽ bị đảo lộn như thế".
Nói dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật
khác. Người ta nói dối để tự bảo vệ mình, vì tham lam, để
được nhiều hơn phần mình đáng được, đôi khi vì lòng sân hận, người
ta nói dối để hãm hại người khác.
Lời nói dựa vào tư tưởng, vì thế nếu ta có thể
chế ngự tư tưởng của mình, ta mới có thể chế ngự được lời
nói. Chúng ta sẽ chánh niệm những gì chúng ta suy nghĩ, để đổi nó
từ xấu xa đến thanh tịnh. Nếu ta không thể học kềm chế
lời nói của mình, ta sẽ không có nhiều bạn.
Mặt khác ta phải nói lời có ý nghĩa. Tán gẫu cũng là tà
ngữ. Thí dụ chỉ nói để mà nói, như là nói chuyện gia đình, đồ ăn
uống, thời tiết , thăm hỏi xã giao. Nói để giải khuây , giết thời
giờ. Trừ khi ta có chánh niệm, biết rõ điều mình nói, bằng không
ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của mình.
Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Kinh Ðại
Hạnh Phúc (Great Blessings Discourse). Thật là may mắn, nếu ta biết nói
lời tử tế, lịch sự đầy ý nghĩa, đầy chân thật. Hai người có
thể nói cùng một điều, với hai chủ đích khác nhau, vì thế
nghiệp quả của họ cũng khác đi. Nếu ta thực sự bằng cách quán
tâm của mình thì dần dần ta có thể biết được sự chủ tâm của mình,
nhưng ta không thể làm thế trong khi nói.
Giới luật thứ tư trong năm giới, kềm giữ, không nói dối,
nói lời không thật, cần phải được xét lại xem nó có ý nghĩa gì trong
cuộc đời ta. Nếu ta thực sự chọn hành động theo lời Phật dạy, thì
giới luật đó phải được đưa lên hàng đầu, vì ai cũng nói suốt cả ngày.
Khi ta nói những lời thật có ý nghĩa, mọi người sẽ lắng nghe. Khi ta
nói lời tử tế, người khác sẽ vui mừng. Khi ta nói lời lịch sự ta sẽ có
thêm bạn. Lời chân thật, ta sẽ được uy tín. Không có lời xiên xỏ, đâm
thọc ta sẽ được tin cậy. Ta có thể tâm sự, chia sẻ với người khác
về những khó khăn hay bí mật của mình. Nếu ta có thể trở nên một
người như thế, ta sẽ có nhiều bạn bè và một cuộc sống bình an, vì
trong tâm ta không có gì cần phải được che dấu. Ta không cần phải lo lắng
về những điều mình nói, nói như thế nào, hay không biết
điều mình nói có đúng không. Lời nói của ta sẽ thành dễ dàng vì đằng
sau chúng là những chủ đích tốt đẹp.
Ðức Phật cũng nói về việc giảng Pháp. Cần phải chính
xác, nghĩa là ta phải biết mình đang nghĩ gì, cảm giác ra làm sao.
Ðiều này rất quan trọng. Mọi người khi nói Pháp, ngay cả khi nói
về việc Thiền định của chính mình , cũng phải chính xác. Có
nghĩa là tâm ta phải rõ ràng, lúc đó ngôn ngữ chính xác mới có thể
phát ra. Ðây là những khả năng ta có thể huân tập được qua sự chánh
niệm. Không phải qua những bài học về thuật hùng biện.
Chánh Nghiệp
Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng. Nếu có chủ
tâm đúng, dựa trên chánh kiến, thì chánh nghiệp sẽ theo sau. Tất cả
đều tạo ra nghiệp cho ta, vì tất cả đều là kết quả của sự
chủ tâm. Lời nói dựa vào chủ tâm. Hành động cũng dựa vào chủ tâm. Tất cả
tạo ra nghiệp - tốt, xấu hay không tốt không xấu - không phải là cho ngay
kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại. Nghiệp và nghiệp quả
xảy ra từng giây phút. Trừ khi ta để ý đến kết quả, ta sẽ
không biết rằng chúng có liên hệ với những gì ta vừa nói, vừa nghĩ
hay vừa làm.
Nhờ có chánh nghiệp ta không làm hại đến sinh vật khác
dưới bất cứ hình thức nào, từ bỏ lòng tham lam ác độc. Không thể đè
nén lòng thamvà sự ác độc. Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách
khác. Ta cần phải có tâm buông bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định. Khi
tọa Thiền , ta phải dứt bỏ mọi tham ái, nếu không sẽ không có
Thiền định. Chỉ có vọng tưởng, hy vọng, ước mong, sợ hãi, nhớ
tưởng. Nếu không buông bỏ được những trạng thái này của tâm , thì ta
khó thể tham Thiền. Thiền định là xả, buông bỏ mọi lăng xăng
của tâm, ngã tưởng và ái dục. Vì ta chưa thực tập buông bỏ được
nhiều, ta rất khó ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ
dễ tọa Thiền hơn. Cố gắng đè nén chúng không có kết quả gì,
nhưng sự buông bỏ cái ý muốn suy nghĩ, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem
lại kết quả khả quan nhất. Buông bỏ lòng ham muốn là con đường duy nhất
dẫn tới sự bình an, và khi đã kinh nghiệm được như thế, ta sẽ
hiểu được rằng buông bỏ lòng ham muốn trong đời sống hàng ngày sẽ mang
lại cho ta hạnh phúc.
Chánh nghiệp có thể thực hiện được trong mọi
hoàn cảnh, bởi bất cứ ai,bất cứ lúc nào, dầu ở trong nhà, hay nơi công sở,
hay chốn tu hành. Bất cứ nơi nào, bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta
đều phải hành động. Chúng ta có thể xét xem những hành động có ích
lợi cho người khác hay cho chúng ta. Ngay cả việc nấu ăn hay dọn dẹp
nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, không phải vì bổn phận, vì
được yêu cầu hay vì sợ người khác. Lý do chánh để ta làm điều
đó là vì ở đúng một thời điểm nào đó, việc đó cần đuợc thực
hiện với một mục đích. Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta
biết được chủ đích thực sự và quan điểm của mình trong các hành
động. Ta có thể thấy được sự liên kết giữa thân và tâm, mà không
cần phải để ý đến những thứ bên ngoài ta. Sẽ không có sự miễn
cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm với cả tấm
lòng. Chỉ có như thế thì hành động của ta mới mang lại kết quả gì.
Thường người ta nghĩ rằng công việc làm ta không còn thì
giờ vui chơi, tiêu khiển. Ðó rõ ràng là một cái nhìn sai lầm. Chính sự
vui chơi mới là sự gián đoạn cho công việc. Dầu làm bất cứ nghề gì,
công việc cũng là phương tiện để ta cảm thấy hữu ích, sống có
mục đích. Công việc là phương tiện giúp ta hoàn toàn chú tâm
đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân. Công việc là
cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người , phát triển các kỹ năng và
biểu lộ tình thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ.
Không có phương tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hoá thân tâm bằng
công việc. Không chỉ làm để kiếm sống hay vì người khác đòi
hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm lòng như một phương tiện
để thấu hiểu mọi việc hơn.
Chánh Mạng
Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh. Chánh Mạng
có nghĩa là phương tiện ta kiếm sống không làm hại đến ai.
Mỗi người phải tự mình biết điều đó. Có nhiều cách kiếm
sống được coi là "đúng", hơn là "sai", nhưng cũng có
những cách kiếm sống thật tai hại. Ðể đánh giá ta có thể dựa
vào năm giới luật. Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm
điều cấm, thì rõ ràng đó là sai.
Chánh Mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh
hóa, vì nếu ta theo đuổi mộc cách kiếm sống sai lầm, ta trở nên chai
lỳ, và thói quen tội lỗi sẽ thành hình. Một người đồ tể , trong các
lò sát sinh, chẳng hạn, phải giết chết hết mọi cảm xúc của
mình mới có thể tiếp tục làm công việc này. Nếu không, anh ta
khó mà làm công việc này. Một con người như thế sẽ trở nên chai
cứng, không còn lòng thương xót đối với các chúng sanh.
Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại. Nói
dối, uống rượu , lấy của người, tất cả là những phương tiện kiếm
sống không lương thiện. Cũng có người sinh sống bằng những quan hệ
tình dục sai tráí. Rõ ràng là những cách kiếm sống dựa trên ái dục,
không chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề này mà còn gây khổ lụy
cho người khác. Và họ tiếp tục làm những việc này bằng cách tự
biện hộ lý giải cho hành động của họ. Nhưng đó là tà kiến
của họ. Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần
phải dựa vào chánh kiến.
Chánh Tinh Tấn
Sự tinh tấn và năng lượng có ảnh hưởng cộng sinh. Nhờ có
năng lượng , ta mới có tinh tấn. Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh
tấn, thì năng lượng càng tăng thêm. Năng lượng là nhiên liệu của sự
tinh tấn, cũng như ngược lại. Tinh tấn có vẻ như đối nghịch với sự thoải
mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp tục tham Thiền, đến một lúc
nào đó, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ có tinh tấn ta mới có được sự thoải
mái, dễ chịu.
Ðức Phật đã chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật làm những
phương tiện hữu ích. Chúng được gọi là "ba la mật" (tối
thượng) vì chúng rất hữu ích và cũng rất khó thực hiện. "Ðừng
để một ý xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó
tiếp tục, nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành,
nếu nó chưa phát sinh. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó
đã dấy khởi ".
Ðể làm được như thế ta phải theo dõi tâm mình, và
phải biết phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Ðó là một trong những
lý do tại sao tôi đã khuyên các bạn nên đặt tên cho tư tưởng của
mình, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền. Chỉ khi nào ta biết
mình nghĩ gì, ta mới có thể có những biện pháp thích ứng. Ta cần
biết tâm mình đang có những ác niệm hay niệm lành, cần biết
phân biệt rõ ràng như thế, ta mới có thể thực hành được lời
dạy trên của Ðức Phật.
Cần phải có rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác
niệm không dấy khởi, vì ta phải biết rõ về chủ đích ở đằng sau
đó. Với những tư tưởng đang dấy khởi, điều đó dễ dàng hơn. Vì
thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta có đủ khả năng
để biết một điều gì đó không được tốt đang chực chờ bộc
phát, , để ngăn chận không cho nó xuất hiện.
Khi Thiền định, mọi tư tưởng đều vô ích vì ta
không mốn suy nghĩ ,mà muốn Thiền. Trong cuộc sống hàng ngày thì lại
khác. Ta cần phải dẹp bỏ mọi ác niệm. Cố gắng đè nén chúng không
ích lợi gì. Mà nên buông bỏ chúng, hoặc thay chúng bằng những thiện
niệm. Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng bằng sự chủ tâm vào
Thiền quán. Ta có làm được điều đó hiệu quả hay không trong
Thiền định, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật
trong đời sống hàng ngày. Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta có thực
hành tốt hay không bốn tinh tấn ba la mật, thì điều này lại phản ánh
trong lúc ta tu tập Thiền. Những ác niệm trong đời sống hàng ngày
hiện lên trong sự lăng xăng, không yên tĩnh lúc ta tọa Thiền. Trong
khi những ý niệm lành luôn được nuôi dưỡng, và không bao giờ sai
lệch, sẽ đem lại an bình và yên tĩnh cho tâm ta.
Nếu ta không thể nhớ gì về những điều Phật dạy
trừ bốn tinh tấn ba la mật này, thì cũng là đủ. Những điều khác,
nếu chúng ta có nhớ, có thể giúp ta thêm phấn khởi, thêm thanh cao,
nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp người thực tập chúng dễ dàng đạt
được sự thanh tịnh.
Cần phải có chánh kiến để nhận ra rằng đó là những
điều chúng ta cần làm, và muốn thực hành, ta cần phải huân tập công phu.
Trên cõi đời này rất ít có người hoàn toàn không có ác niệm. Vì ta
tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống trong một thế giới cũng nhiễu
nhương , hỗn loạn. Không phải là các ngôi nhà cao tầng, xe cộ hay các cơ
chế chính quyền làm nên thế giới này. Nhưng chính là quá trình
tư duy của chúng ta đã làm nên sự khác biệt giữa chiến tranh hay hoà
bình, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngoài ta.
Ðặt tên cho các ý nghĩa của mình, có nghĩa là ta biết
ta đang nghĩ gì. Tốt nhất là ta thực hành các điều này khi hành
Thiền, là khi ta có thể thấy rõ ràng tâm ta luôn luôn lăng xăng. Các
tư tưởng của ta có thể xấu hoặc là tốt hoặc là trung tính, không tốt
không xấu, có thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng, lo âu hay sợ
sệt, ghen ghét, ganh t hay hoàn toàn mù mịt. Trừ khi ta biết rõ những
điều này, ta không thể nhìn trở vào để tự quán sát, ta sẽ không
bao giờ hiểu tại sao mình lại có những cảm giác như thế hay hành
động như thế.
Bốn tinh tấn ba-la-mật là những điểm cơ bản trên con
đường đạo. Trong khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuông, chùa
chiền chỉ là những thứ trang sức bên ngoài. "Ðừng để một ý
xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó tiếp tục,
nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nó chưa
phát sinh. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó đã dấy khởi".
Ðó là quá trình thanh tịnh hoá tư tưởng , và cũng đưa đến sự thanh
tịnh hoá của lời nói và việc làm. Khi những điều đó xảy ra, ta có
thể thấy rõ ràng hơn. Một tấm gương trong suốt với mặt gương sạch bóng
không dính buị dơ, là tấm gương có thể phản chiếu được một hình
ảnh trong sạch.
Ta cần phải tinh tiến trong bất cứ việc gì mình làm ,
nhất là trong lúc tọa Thiền. Vì dầu hành Thiền một cách tinh tấn,
ta cũng không thể thấy những kết quả tức thời. Ðiều đó có
thể khiến tâm thoái hoá, không có được sự tinh tấn ban đầu. Khi tâm
đòi phải có kết quả tức thời, đó là sự trói buộc, bám viú, đòi hỏi.
Ðó là lòng ham muốn, do đó đưa đến đau khổ.
Làm điều gì cũng thế. Ta thường trông mong kết quả,
rồi khi kết quả không như ý, thì sinh ra chán nản, buồn rầu. Tinh tấn
vì tinh tấn, không vì mong muốn kết quả. Có được chánh tinh tấn là một
thiện nghiệp, không cần biết đến kết quả như thế nào.
Như khi tham Thiền, dầu ta chưa thấy kết quả rõ ràng, tức thời,
nghiệp thiện cũng đã được hình thành do có chủ đích tốt.
Chỉ cần có chánh tinh tấn, ta cũng đã có được lợi ích,
nhưng ít khi ta để ý đến điều đó. Ta còn mãi trông đợi
những phần thưởng vật chất. "Tôi đã quá cố gắng mà vẫn không thể
chú tâm"hay"Tôi đã thương yêu con cái biết bao nhiêu, nhưng
chúng chẳng hề biết ơn", "Tôi đã chăm sóc cho cô tôi bao
nhiêu lâu, vậy mà cô ấy chưa bao giờ nói lời tử tế với tôi". Ðó
là một thái độ sai lầm. Sự cố gắng của ta đã là một nghiệp thiện,
đó chính là kết quả. Không cần biết ai khác nói gì hay kết quả
ra làm sao, đó là vấn đề thứ yếu. Ðôi khi ta đạt được sự chủ
tâm. Ðôi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ. Nhưng điều đó
không liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta. Nếu ta
không thay đổi cách nhìn, thì ta luôn phải phụ thuộc vào kết quả. Như
thế sự tinh tấn của ta sẽ lúc có, lúc không vì kết quả cũng lúc
co,ù lúc không. Nếu tinh tấn không luôn có mặt, rõ ràng nó không có
hiệu lực. Chánh tinh tấn cần phải luôn vững chắc.
Chánh Niệm
Kế tiếp là chánh niệm. Nếu bạn đã thực hành
chánh niệm, bạn sẽ biết chánh niệm là gì. Khi ta đặt chân xuống
đất và không biết đến gì khác hơn là việc đặt chân xuống
đất, đó là chánh niệm. Khi đưa đũa lên miệng, ta không biết gì
khác hơn là như thế, đó là chánh niệm. Ðiều đó rất khác với
việc ta làm hàng ngày, nhưng nếu ta không biết sự khác biệt
đó, thì ta chưa biết thực hành chánh niệm. Lúc ta hoàn toàn chánh
niệm ta không thấy gì khác hơn. Ðó là sự chủ tâm vào một điểm.
Ðiều đó giúp ta quên đi những phiền não của mình, vì ta không
thể nghĩ về hai điều cùng một lúc. Một trọng tâm điểm khi
đem ứng dụng vào Thiền, dần dần ta sẽ có thể đạt định. Trong cuộc
sống hàng ngày , sự thực hành chánh niệm giúp ta quên đi những vấn
đề của ta, vì nó không còn chiếm ngự tâm ta , và trong Thiền, nó
giúp ta đạt định.
Chánh niệm còn có thể giúp ta tự thanh tịnh hoá. Khi
người ta biết rõ mình đang làm gì, nói gì hay nghĩ gì, người ta sẽ trở
nên cẩn thận để thân, khẩu và ý đều không sai phạm, không
để nó bị những hành động bản năng, cấu uế làm chủ. Bằng cách đó,
ta được thanh tịnh hoá.
Ðôi khi có sự hiểu lầm về từ "chánh niệm".
Chánh niệm có nghĩa là luôn luôn lúc nào ta cũng có sự chú tâm. Làm sao
ta có thể sửa đổi ác nghiệp, nếu ta không chú tâm, không biết
đến sự hiện diện của chúng?
Có bốn chánh niệm căn bản: chánh niệm về thân - như
hành động, sự chuyển động, ba mươi hai bộ phận, dáng đi đứng , xác
của thân; chánh niệm về các cảm thọ - như các giác tâm sinh
lý; chánh niệm về tâm - như quá trình tư duy, biết rằng ta
đang suy nghĩ, tâm đang hoạt động, biết rằng có suy tưởng và biết
tư tưởng; và cuối cùng là chánh niệm về đối tượng của tâm - như
biết rằng tư tưởng nào đó là cấu uế hay trong sạch.
Theo truyền thống, chánh niệm về đối tượng của tâm
trước đó là coi như là sự chú tâm để xem coi phần nào là của năm uẩn
hay bảy giác chi, Bát chánh đạo hay sáu trần dấy khởi. Nhưng trong thực
tế, trong ứng dụng hàng ngày, điều đó quá phiền toái. Phần đông
chúng ta không nhớ hết mọi chi tiết để tra xét. Chỉ cần
biết tư tưởng đó có trong sạch hay ô uế là đủ rồi. Cũng thế,
rõ ràng ta khó thực hành bốn thứ chánh niệm cùng một lúc. Ta có thể
lựa chọn khi hành Thiền. Hoặc là chú tâm vào hơi thở vào ra, hay đi
Thiền hành, cả hai việc này đều khiến ta phải quán thân. Hay ta
có thể quán về các cảm thọ do tâm sinh lý gây ra. Nếu ta
nhận thấy mình bị phiền não vì vọng tưởng, thì đó là kết quả
của sự quán tâm. Khi ta đặt tên cho các vọng niệm, và biết đó
là thương, ghét , từ, sân thì là ta đang thực hành quán về đối tượng
của tâm. Tóm lại, khi tham Thiền, chính ta là người lựa chọn đặt sự
chú tâm của mình vào đâu.
Nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì khác. Ta phải đặt chú tâm
vào việc gì đúng ở thời điểm nó đang xảy ra. Thí dụ như khi đang
băng qua một con đường có nhiều xe cộ, mà ta lại phải chú tâm vào từng
bước chân của mình, thì e rằng đó không phải là một cách giữ mạng sống.
Ta phải chú ý xe cộ chạy ra làm sao. Trong trường hợp này, có nghĩa là ta
phải chú tâm vào những gì đang xảy ra quanh ta. Hay khi đang trò chuyện qua
điện thoại, chắc ta khó chú tâm vào cái ống nghe, vì làm thế thì ta
sẽ chẳng biết mình nói gì. Ta phải chú tâm vào quá trình tư duy và
kết quả của nó là những lời ta nói ra. Bất cứ gì hợp lý, đó là
nơi ta phải đặt chú tâm vào.
Chánh niệm là một yếu tố tâm linh mà ta có thể và
phải thực tập mỗi giây phút tỉnh thức. Có hai mươi bốn giờ trong một
ngày, và nếu mọi việc suôn sẻ, ta có thể tham Thiền một
tiếng vào buổi sáng, một tiếng buổi tối. Ta có thể ngủ sáu hay
bảy tiếng, như vậy ta còn lại khoảng mười lăm tiếng mỗi ngày.
Nếu suốt thời gian đó ta không nhớ để chánh niệm, thì chi bằng ta
quên luôn việc hành Thiền và thực tập lời Phật dạy. Nếu ta làm
thế thì ta chỉ có giỏi nói mà quên thực hành.
Khi ta luôn thực hành chánh niệm, dần dần nósẽ trở thành
một thói quen, giúp cho cuộc sống ta ít phiền não, vì nhờ chánh niệm
ta có thể tránh được những sai lầm, vấp ngã. Chánh niệm giống như
bàn thắng của xe. Lái xe mà không có thắng thì xiết bao nguy hiểm.
Nếu ta sống cuộc đời không có chánh niệm, thì cũng nguy hiểm như
thế. Lúc nào ta cũng có thể va vấp, đụng chạm người khác, tự làm
hại mình, hại người.
Khi ta thực tập chánh niệm, không có nghĩa là ta trở nên
thụ động, và phản ứng theo ý muốn của người khác. Ðó không phải là
chánh niệm, đó là nhượng bộ. Chánh niệm là biết rõ mình đang
nghĩ gì, cảm thâý gì, hành động ra sao. Khi ta biết như thế, ta
sẽ trở nên chú tâm đến phản ứng của ta hơn. Ta sẽ không nghĩ đến
việc hành động theo như ý người khác. Mà ta sẽ quan tâm đến
việc tự thanh tịnh hóa mình.
Chánh tinh tấn - bốn tinh tấn ba la mật - chỉ có thể thành
công nếu đi đôi với chánh niệm. Hơn thế nữa, tất cả mọi chi
nhánh của Bát chánh đạo đều cần có sự hỗ trợ của chánh niệm.
Chánh niệm đi đôi với cái biết rõ ràng. Chánh niệm
là yếu tố biết - chỉ có cái biết - đã được diễn tả đầy đủ
trong một bài thơ Haiku của Nhật như sau:
Ao cũ
Cóc nhảy vào
Phộp.
Khi con cóc nhảy vào một ao hồ, có rất nhiều việc xảy
ra, mặt nước gợn sóng, con cóc biến mất, có thể có ánh sáng mặt
trời lấp lánh trên mặt ao. Tất cả những thứ này đều là yếu tố thêm
thắt. Trong khi chánh niệm đi vào trọng tâm, điểm chánh yếu,
và đó là tiếng "Phộp". Ðó là tất cả. Ðó là trọng
điểm.
Chỉ có cái biết, cùng với bạn đồng hành của nó là sự
thấu suốt. Tính thấu suốt giúp ta biết ngay việc gì đang xảy ra,
để sử dụng cái biết đó. Tính thấu suốt gồm bốn phần: biết mục
đích, biết phương tiện có khéo léo không, biết mục đích và
phương tiện có nằm trong Pháp không; và biết rằng người ta có đạt
được mục đích không.
Khi ta nói không với một mục đích gì, tức là ta đã bỏ quên
chánh niệm và tánh thấu suốt. Khi ta nói có mục đích, nhưng không
biết diễn tả như thế nào, tức là ta không có phương tiện khéo
léo. Sự chú tâm phân biệt giúp ta biết thân, khẩu và ý của mình
có nằm trong Pháp chân thật không. Nếu ta không đạt được kết quả
mong muốn, thì rõ ràng là ta đã không dùng đúng phương tiện. Chánh
niệm trong lời nói và hành động cần có tính thấu suốt đi kèm: biết
mục đích, phương tiện khéo léo, tuân theo Pháp giới và kết quả. Khi
ta sống có chánh niệm, sự chú tâm của ta khác hẳn bình thường. Chúng ta
biết việc gì đang xảy ra nhưng không quan tâm đến nó. Khi sân nổi
lên, ta biết nó đang dấy khởi, nhưng ta không cần phải trở nên giận dữ.
Ðó là một kỹ năng tuyệt vời. Khi chán nản, ta biết chán nản đang
dấy khởi, nhưng ta không phải trở nên chán nản, hay tuyệt vọng. Ta chỉ
biết sự dấy khởi và sự đoạn diệt của mọi trạng thái tâm.
Chánh niệm là cho mọi người, ai cũng có thể sử dụng
nó để sinh tồn, nhưng vì vấn đề tranh đấu để sinh tồn chỉ là
hoài công, nên tốt hơn, ta nên sử dụng nó vào việc giải thoát, Giác
Ngộ. Chánh niệm là một phương tiện khéo léo, và thấu suốt, là trí
tuệ giúp ta phân biệt. Chánh niệm không có sự phán đoán, nhưng
thấu suốt có yếu tố phân biệt, vì thế ta có thể thay đổi
hướng đi nếu cần thiết.
Chánh Ðịnh
Khi vào sâu trong Thiền định, ta có thể tìm được chánh
định, là điều Ðức Phật đã nói đến trong nhiều bài giảng như
con đường, như phương tiện, chứ không phải là mục đích.
Chánh định căn bản vẫn cần các chi nhánh khác của Bát chánh
đạo. Nếu không có giới hạnh, không có chánh tư duy, chánh kiến,
chánh tinh tấn, thì không thể có được chánh định. Vì thế chánh
định được nhắc đến sau cùng. Và cũng vì nó là điểm khởi hành
của ta từ một người bình thường trở thành người có Giác Ngộ. Chánh
kiến đứng ở vị trí đầu tiên trong Bát chánh đạo, vì không có chánh
kiến, không có gì có thể xảy ra. Chánh định đứng ở vị trí cuối vì
nó cần tất cả những yếu tố khác để có thể thành hình và tạo ra
phương tiện để đạt được sự tự tại.
Khi đã có chánh định, và đã cố gắng soi rọi lại nội tâm
mình, lúc đó chánh kiến lại rõ ràng hơn. Ðó là chánh kiến về
sự giải thoát. Như thế cuối cùng ta đã đi hết vòng tròn để trở
lại với chánh kiến về "cái ngã", tức là vô ngã. Chúng
ta không thể tìm thấy cái "vô ngã". Chúng ta không thể tìm
thấy cái gì không có mặt. Vì thế ta phải luôn chất vấn, tìm hiểu
về cái gì mà ta tin là "tự ngã". Chúng ta tin vào thân, vào
thọ, tư duy, tâm hành là cái ta. Thì ta cần phải xem xét lại tất cả
những gì được coi là "cái tôi" ấy. Trừ khi ta biết rõ ràng
về "cái ngã" đang có trong tay, làm chủ nó, nếu không ta
không thể buông bỏ nó. Nếu tôi không biết cái đồng hồ của mình
ở đâu, nếu tôi không có nó ở trong tay, thì tôi không thể bỏ nó
đi. Tôi chỉ có thể làm được điều đó khi tôi biết đích xác
nó là gì, đang ở đâu. Nếu tôi đi tìm đồng hồ mà không thấy, thì tôi
không thể làm gì được với nó cả. Ðối với "cái ngã" của ta
cũng thế.
Cuộc truy tìm là về "cái ta". Cái thân này là gì?
Ðó có thật là "tôi", là "của tôi" không? Nếu nó là
cái xác, nó có còn là "tôi" không? Những cảm thọ này có thật
là của tôi không? Tại sao chúng lại đến, khi tôi chẳng mong chờ? Tại sao
tôi có những ý tưởng chỉ làm tôi đau khổ? Ai đang đau khổ? Ai là
"tôi"? Có phải là "cái tôi" của ngày hôm qua, hôm nay hay
ngày mai? Cứ như thế, những câu hỏi để tìm ra ở đâu là "cái
tôi", cái gì là "tôi". Và cuối cùng khi tôi tìm ra được nó,
lúc đó tôi mới có thể buông bỏ được ảo tưởng về nó.
Tóm lại, để tìm hiểu về "vô ngã", ta phải
bắt đầu với "cái ngã", và khi nó trở nên ngày một rõ ràng đó
chỉ là tư duy sai lầm về "cái ngã", nó cũng trở nên rõ ràng là
quá trình tư duy của ta có thể chuyển hệ.
Tất cả những yếu tố ta đã bàn ở đây chỉ là con đường,
là phương tiện để làm giảm bớt lòng chấp ngã, làm cho nó trở thành
nhỏ hơn. Ðịnh là một yếu tố quan trọng, vì lúc mà tâm hoàn toàn
định, thì không còn tư tưởng như "tôi là, tôi có thể, tôi sẽ,
tôi muốn, tôi không muốn". Khi Thiền định được thực hành thường
xuyên "cái tôi" thường nhỏ lại, và người ta có thể nhìn sự
việc một cách rõ ràng hơn. Ngược lại, nếu ta không tu tập định hay
chú tâm, ngã chấp của ta vẫn không thay đổi.
Bát chánh đạo đi từ cái nhìn đúng một cách tương đối tới
cái chánh kiến tuyệt đối,và cuối cùng, chính con người trở nên Bát
chánh đạo. Lúc đó không cần phải thực tập Bát chánh đạo nữa hay cố gắng
để nhớ tới chúng. Không cần phải cố gắng với từng bước, vì Bát chánh
đạo đã trở thành bản năng tự nhiên của ta. A-la-hán lúc nào cũng có chánh
kiến, chánh tư duy. Các Ngài không có tà ngữ, hành động sai trái hay
nghịch mạng. Nhưng lúc nào cũng chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh
định. Với chúng ta mỗi ngày một ít. Chỉ có thực hành mới giúp ta hoàn
thiện Bát chánh đạo.