|
(10)
Mười Ðức hạnh Cao thượng
Bố thí, Giới hạnh, với Xuất ly
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Từ bi,
và Xả bỏ nữa là mười.
(Lời Phật dạy, Buddhavamsa II , kệ 76)
Muốn tu Thiền,
hành giả cần có ba đức tính: độ lượng, đức hạnh và từ tâm. Nhưng cuộc
sống tâm linh cao đẹp còn cần đến những đức hạnh khác nữa và chúng
cũng cần được vun trồng.
Những đức hạnh này là Paramis, từ chữ Parama
(Ba-la-mật) có nghĩa là tối thượng hay siêu việt, là bản tánh chân thật
đã có sẵn trong chúng ta. Nếu không, có khác nào ta vun trồng từ mảnh
đất hoang. Vì chúng đã có sẵn trong ta , ta có thể bắt đầu từ đó. Tuy
nhiên nếu ta không có ý muốn thực hành những điều thiện này,
ta sẽ không có được một tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tôi cần
để làm chủ nghiệp mình. Chúng ta luôn phải dựa vào tình cảm và lòng
tốt của người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái
của thân. Chừng nào chúng ta còn phải dựa vào một hay tất cả những thứ
kể trên , là ta còn phải nô lệ chúng. Mà phải sống kiếp nô
lệ thì chẳng thú vị gì. Phải luôn sống trong sự sợ hãi. Dĩ nhiên, ai
cũng có những nỗi sợ hãi, nhưng phải tùy thuộc vào người khác, hay hoàn
cảnh thì không thể có được sự tự do suy nghĩ hay hành động. Những thứ
tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát. Nói như thế không có nghĩa là
chúng ta muốn làm gì cũng được. Tự do tư tưởng có nghĩa là ta có những
suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định hành động
của mình.
1. Bố Thí
Ðiều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu với là
Bố thí, chìa khóa mở mọi cánh cửa. Không có nghĩa là những đức hạnh
khác kém quan trọng, nhưng nếu lòng bố thí không được vun trồng, thì
con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó thể khai thông.
Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình và đó là bước đầu tiên, là đức
hạnh đầu tiên ta cần phải có.
Ðức Phật nói về ba loại bố thí: loại cho người
ăn xin , loại cho bằng hữu và loại vương tước. Loại bố thí cho người ăn
xin là khi ta bố thí những thứ ta không cần đến - những thứ khi dọn
dẹp nhà cửa ta cần vất đi. Bố thí những thứ này, dầu có tốt hơn là không
bố thí, nhưng không được rộng rãi lắm, vì ta không làm giảm bớt những tham
muốn và bám víu của mình.
Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẻ những gì ta có
với người quanh ta. Ta bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại
phần khác.
Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta
giữ lại. Rất hiếm thấy có phải không? Phần đông chúng ta không làm
thế.
Bố thí cần phải có động lực chính đáng. Nếu ta
bố thí vì muốn đánh đổi lại một thứ gì đó - lợi lộc, lời khen tặng,
lòng biết ơn - thì sẽ chẳng lợi ích gì. Ðiều này nghe có vẻ nghịch
lý: Bố thí không phải để được nhận trả lại điều gì đó. Bố
thí chỉ vì ta muốn bố thí. Nhưng nếu suy xét kỹ ta sẽ thấy sự thật rất
rõ ràng. Nếu ta bố thí chỉ vì muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh
phúc, vui vẻ, tâm an bình và sung sướng. Người ta có thể bố thí vì cảm
thấy mình dư dả. Hay vì muốn chia sẻ với người khác sự sung túc, giàu có
của mình. Hoặc bố thí vì lòng từ bi đối với người khác. Ðức Phật bố thí
vì lòng từ bi đối với chúng sanh.
Bố thí không chỉ bằng tài vật. Không phải ai cũng có
của cải vật chất để ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó.
Thật ra phần đông chúng ta không nhớ mình có gì nữa, cho đến khi phải
dọn nhà, lúc đó ta mới thấy mình có quá nhiều. Chúng ta qua có
nhiều những đồ dùng trong nhà đến nỗi ta có thể cho bớt đi
mà vẫn không thấy thiếu thốn. Nhưng của cải không phải là thứ duy nhất
ta có thể san sẻ. Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm chăm sóc
của mình cũng như chia sẻ tài năng khả năng của mình. Ðó là mặt quan
trọng của bố thí , và sự bố thí này được chính phủ cũng như các cơ
quan từ thiện thực hành rộng rãi. Chỉ có một điều là với những hình
thức từ thiện này, đôi khi người trực tiếp làm các công tác này
chỉ làm vì đồng lương chứ không vì lòng từ bi thật sự, nên công việc
làm của họ có tính cách thương mại. Nhưng nếu ta bố thí khả năng,
tài năng của mình, mà không nghĩ gì đến việc trả ơn thì ta bố thí
vì lòng từ. Ðức Phật đã bố thí Pháp với lòng thương xót cho chúng sanh.
Sự bố thí này không chỉ có đi mà cũng có lại. Ta
càng bố thí vì lòng từ bi, lòng từ bi trong ta càng tăng trưởng. Ðiều
này cũng dễ hiểu thôi nhưng ít ai nghĩ đến. Có người bố thí
để được người khác tử tế lại với mình. Nhưng nếu ta bố thí
thật sự vì lòng tốt phát ra từ trái tim, thì rõ ràng ta phải có nhiều
lòng tốt hơn thế để an phát cho người khác.
Tuy nhiên bố thí dù dưới hình thức nào cũng giúp ta
bớt chấp Ngã, và đó là lý do tại sao bố thí được kể đầu tiên
trong mười điều thiện mà ta cần vun trồng, bảo vệ. Khi Ðức Phật
chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài hoàn thiện và có bao nhiêu
câu chuyện về các đức tính này của Ðức Phật trong quyển Jataka -
Túc Sinh Truyện, chuyện từ các tiền kiếp của Ðức Phật.
Lòng từ bi của bậc Bồ tát còn đi xa hơn nữa, họ
còn bố thí cả thân mình. Hy sinh tánh mạng mình cho ai là cách bố thí cao cả
nhất. Người tầm thường như chúng ta khó mà làm nổi. Tuy nhiên có nhiều
mức độ bố thí, mà một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm
giảm bớt lòng chấp Ngã của ta. Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều
hơn nữa lòng chấp Ngã, nếu đằng sau đó là những động lực chính đáng.
Làm giảm Ngã chấp là mục đích trên con đường thanh
tịnh hoá, dần dẫn ta đến kinh ngiệm của sự Vô ngã. Ta không thể
chỉ hy vọng, cầu nguyện hay tưởng tượng mình sẽ được có kinh
nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu làm gì đó để thay đổi sự bám viú
vào tự Ngã. Bằng cách nào? Bố thí là một sự khởi đầu tuyệt vời.
2. Giới hạnh
Kế đến là giới hạnh, liên quan đến
việc giữ gìn năm giới. Ðức hạnh này làm giảm bớt và dần giúp ta
chế ngự được lòng tham và sân. Làm giảm bớt lòng sân tham cũng là một
cách để làm giảm Ngã chấp vì sân tham chỉ có thể phát sinh do có
các ảo tưởng về Ngã.
Tất cả các Pháp của Ðức Phật cũng là như thế.
Ðôi khi ta cảm thấy bối rối trước các giáo lý của Ðức Phật về sự
giải thoát tâm linh. Nhưng các giáo lý này giống như những mảnh rời của
một bản hình xếp khổng lồ. Khi ta có thể đặt một vài mảnh vào đúng
vị trí của chúng, thì các mảnh còn lại sẽ được an bài thôi. Tất cả Pháp
đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm lòng chấp Ngã, rồi dần
dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngã chấp, để đi đến Vô ngã.
Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng
thể đó. Khi chúng ta không làm hại đến các sinh vật khác, thì lòng
ta bớt sân hận. Ta chỉ có thể làm hại hay huỷ hoại những gì ta không
thích. Khi ta không lấy những gì không phải của mình, thì lòng tham được
giảm xuống. Chỉ khi có lòng tham , ta mới lấy lại của cải của người. Cũng
thế đối với những sai phạm trong tình dục. Ác ngữ là do lòng tham hay sân
mà ra. Các thứ độc hại như rượu, ma túy là do lòng tham muốn thỏa mãn nhục
dục mà những thứ này có thể dễ dàng mang đến cho ta.
3. Xuất ly
Xuất ly thường được nghĩ đến như một đức tính
của riêng các tăng ni, các hành giả hay những người sống ẩn dật trong các
hang núi, nhưng đó không phải là một suy nghĩ hoàn toàn đúng. Xuất ly có
nghĩa là buông xả những ảo tưởng về tự Ngã. Nếu trong khi toạ
Thiền ta không cố gắng phần nào làm được như thế, thì ta khó mà
đạt được Thiền định. Cái Ngã của ta thích được nuông chiều, chú
ý đến luôn. Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm điều
gì thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi tình trạng đó
bằng những việc làm như trò chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ
thứ gì vừa lòng nó. Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen này,
việc tọa Thiền của ta khó thể thành công.
Cũng thế tất cả các thiện tánh đều giúp
cho sự tọa thiền của ta. Chúng nâng đỡ cột sống của ta. Thiền
định cần có một cột sống vững mạnh, không phải chỉ do ngồi thẳng, mà còn
phải có tâm chánh niệm.
Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải
biết xuất ly. Ðiều đó có nghĩa là buông bỏ mọi ý niệm
về cái tôi, mọi tham vọng, ước muốn của cái tôi. Tất cả những
suy nghĩ đó chỉ cũng chỉ củng cố thêm lòng chấp Ngã, đưa ta đến
chỗ sai lầm. Những gì ta nghĩ ta sở hữu - cái nhà "của tôi" bàn
ghế "của tôi", chồng "của tôi", vợ "của tôi",
con cái "của tôi" thân quyến "của tôi", xe "của
tôi" , nghề nghiệp "của tôi", văn phòng "của
tôi", bạn bè "của tôi" - làm cho "cái tôi" cảm thấy an
toàn hơn vì tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ. Tạo cho tự Ngã
những ảo tưởng về một sự vững bền. Nhưng không có người nào hay sở
hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến đổi.
Nếu thật sự có sự bền vững đó, thì cái nhà ,
cái xe càng to, càng có nhiều bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều
chồng , thì con người càng cảm thấy thêm an tâm. Thực tế thì càng có
nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm phiền não, lo âu.
Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà vợ thay vì
một. Hãy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó! Ðó chỉ là một trong những tà kiến
về những gì có thể mang đến cho con người sự an tâm. Ta chỉ thích
bao bọc mình với những gì tạo nên "cái tôi", "cái của
tôi". Tư duy của ta khiến ta trở nên như thế, dầu rõ ràng ta
không thể làm chủ ai khác được. Con người có thể ra đi không định
trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu, hay bỏ rơi nhau không lời
từ giã. Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ. Vậy mà ta vẫn gọi
họ là "của tôi", và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng
ta. Một khi ta tin như thế ta bám viú vào họ suốt đời. Họ phải
lúc nào cũng là "của tôi". Ðó là quá trình tự đồng hóa cái Ngã
với gia đình của chúng ta, với công việc của chúng ta và với tất cả
những sở hữu của chúng ta. Thay vì với chỉ một "cái tôi", giờ chúng
ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác nữa. Như thế chúng ta
trở nên to lớn thêm.
Xuất ly khỏi sự đồng hóa này là một bước quan
trọng khởi đầu: chỉ khi nào ta có thể tự đứng một mình, ta mới có
thể thực sự tu tập theo con đường đạo. Không có nghĩa là ta phải đuổi
mọi người ra khỏi nhà. Nhưng khi ta còn tùy thuộc vào ý kiến,
hành động của người khác, thì làm sao ta có thể thực tập cho sự tự do,
giải thoát của chính mình? Không có sự dựa dẫm này, cái Tôi sẽ trở về
kích thước bình thường, của chỉ cái tôi, không có gì hơn. Như thế dầu
tự Ngã vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả năng
chế ngự của ta. Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám viú vào bao
nhiêu người, bao nhiêu thứ khác.
Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt
được điều gì đó hay trở nên thế này thế nọ, thì cũng chỉ
là một cách củng cố thêm Ngã chấp. Thay vì có mặt trong giờ phút hiện
tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở nên, là một cái gì
thuộc về tương lai. Có thể nói gì về tương lai chứ? Không có
gì. Tương lai thì hoàn toàn trống không. Nhưng có mặt , ngay trong hiện
tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm.
Trở nên, trở thành một thứ gì hơn chính chúng ta -
một thiền sư đạt đạo, một ông chủ có danh vọng giàu có, được
mến mộ - sẽ làm cho lòng chấp Ngã của ta thêm nặng. Trở nên, trở thành
không ích lợi gì, là như thế nào là ích lợi hơn. Lúc đó ta sẽ dễ
đối trị ngã chấp hơn. Ta có thể chánh niệm về sự có mặt đích
thực của mình. Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ trở
thành. Nó không có thực. Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày. Nó chỉ là ước
mơ và hy vọng. Nó là điều ta muốn xuất ly.
Trong quá trình xả ly, ta có thể buông bỏ sở hữu,
sự khẳng định của cái tôi và các vọng tưởng. Nếu trong đời
thường, ta không biết buông xả, thì ta càng khó buông xả hơn trong
Thiền. Khi Thiền định ta phải buông xả tư duy , ước vọng, mọi
phán đoán, lòng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc. Ta phải biết buông
bỏ nếu ta muốn hành Thiền, vì thế ta cần phải thực tập sự xả bỏ
mọi lúc, mọi nơi. Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu
hay xa lánh gia đình. Tâm chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định mình
qua những thứ đó.
Xuất ly có nhiều hình thái. Nó có thể là sự
tự khắc kỷ như dậy sớm hơn thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn
được hưởng thụ. Xuất ly cũng có nghĩa không phải lúc nào muốn ăn thì ăn,
mà phải chờ đến lúc thật sự đói. Khi từ giã cuộc đời, ta phải buông
bỏ mọi thứ. Ta không thể mang theo của cải hay người thân mà ta coi là
của chúng ta, cũng như không thể mang theo thân của mình. Tốt hơn hết
là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến. Ðó là lý
do tại sao người ta thường vật vã trước giờ ra đi. Một số ít người có
thể ra đi một cách bình thản, nhưng phần đông không thế, vì họ
chưa sẵn sàng để buông bỏ tất cả. Trước đó , họ chẳng bao giờ
nghĩ đến giờ phút này.
Tất cả những gì ta bám viú vào là một trở ngại, một
vật cản. Thí dụ như nếu tôi cứ ôm mãi chiếc gối này, không chịu bỏ
ra, thì tôi sẽ gặp trở ngại khi bước ra cửa. Thực tế, ta thường bám víu
vào người khác và điều đó cần phải buông bỏ. Không có nghĩa là ta
phải xua đuổi người khác. Nhưng có nghĩa là ta phải đoạn diệt thái độ
bám viú của ta với người khác, đó mới chính là trở ngại lớn nhất. Nếu
ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của ta cũng bị trở
ngại thôi, vì ta cũng sẽ bám viú vào tư tưởng, hy vọng, ước muốn của
ta.
Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của mình, vẫn
mặc quần áo đó, vẫn không có gì thay đổi về hình dáng bề ngoài,
nhưng bên trong ta đã xả ly được những dính mắc của mình. Không có nghĩa
là ta không còn thương yêu gia đình của mình nữa. Ngược lại, tình thương
mà không có sự bám viú, sở hữu là loại tình thương không có lòng sợ hãi,
hoàn toàn thuần khiết. Trong khi tình thương với lòng bám viú, sở hữu là
một cực hình. Nó bao gồm những làn sóng tình cảm và thường tạo nên những
hàng rào kẽm gai vô hình. Tình yêu thật sự là tình yêu không có sự sở
hữu, được cho mà không mong đợi một sự trả lại. Nó cho ta cảm giác có
người đứng cận kề nhưng không dựa vào ta.
4. Trí tuệ
Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có
nghiệp thiện kế tiếp là trí tuệ. Bổ sung cho trí tuệ là
đức tin. Ðức tin và trí tuệ là hai đức tính không thể tách rời.
Ðức Phật đã so sánh Ðức tin như một người khổng lồ
mù với một gã nhỏ bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ. Ðức
tin đã nói với Trí tuệ rằng:"Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy
đường đi tới. Còn anh yếu đuối, nhưng mắt anh thì tinh. Hãy đến
ngồi lên vai tôi. Hai chúng ta hợp lại thì nơi nào mà ta không đến
được". Lòng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ không biết
dời ngọn núi nào. Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường
cho lòng tin. Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt.
Trí tuệ là một đức tin khá đặc biệt, vì ta
không thể đạt được trí tuệ nếu không có tâm thanh tịnh.
Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn. Ðầu tiên
là sự học hỏi sẽ mang đến kiến thức. Ta có thể có được
kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời nói của các bậc uyên
thâm. Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đã học hỏi được
để chúng trở thành một phần của nội tâm ta. Như khi thực phẩm vào cơ
thể ta, những gì cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài. Những thứ
khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực. Cũng thế với kiến
thức. Ta có thể tiêu hoá kiến thức, thải bỏ những gì ta không cần
đến và đưa những cái bổ ích vào máu. Chúng sẽ dần dần chuyển đổi
để tạo nên trí tuệ, cũng như đồ ăn được tiêu hoá dần chuyển
đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn. Ðây là sự
chuyển đổi nội tâm và không đòi hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa
hàng tấn kiến thức. Nó không đòi hỏi số lượng , mà cần chất lượng,
cũng như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy.
Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được
trước khi tiêu hoá chúng. Ðiều này đòi hỏi phải có tâm hành, đó là
một phần quan trọng trong sự trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất
đúng chất lượng là yếu tố quan trọng cho cơ thể tăng trưởng.
Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với những điều Phật
dạy, thì những điều đó vẫn là lời của Phật , của Tăng. Chúng sẽ không
bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi , lập lại biết bao nhiêu lần. Trừ khi
ta nghiền ngẫm , hấp thụ, tiêu hoá được những điều ta đã học
hỏi, ta mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm.
Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời
sống bình an không có nhiều biến động lên xuống. Thiếu trí
tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều hoàn cảnh. Ðôi khi
phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi. Nếu có trí tuệ ta đã
không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi. Hơn nữa bên cạnh trí tuệ còn
có thêm lòng tin thì nó càng thêm sức mạnh. Lòng tin rộng lớn đầy tự tin,
không có gì có thể lay chuyển được. Cộng thêm đôi mắt sáng của
trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng.
Chỉ có trí tuệ không có lòng tin, đôi khi đưa ta
đến cái nhìn hai chiều. Ðối với vấn đề gì, thắc mắc gì ta cũng
nhìn theo hai chiều. Nó không có sự gắn bó bên trong như đối với lòng
tin. Lòng tin không cần dựa vào một thứ gì ở bên ngoài. Lòng tin mà dựa vào
yếu tố bên ngoài nào đó, thì lòng tin đó không bền vững, vì nó
cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh, không thể nghi
ngờ gì. Không ai có quyền được nghi ngờ về những gì họ tin vào.
Lòng tin hữu hiệu nhất là lòng tin vào chính khả năng thành công của
mình. Thêm nữa, lòng tin có thể phát sinh khi ta đã chọn được con
đường đi đúng. Ðó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp,
cộng với con mắt sáng của trí tuệ.
5. Năng lực
Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có
thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy. Chúng ta phải tự
chế ra nhiên liệu cho mình. Ðó cũng là một trong bảy yếu tố của
Giác ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào.
Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều
hình thức. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở
thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng
lòng tốt của ai. Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực.
Năng lực có thể khiến ta lăng xăng. Chạy từ
việc này qua việc nọ, nghĩ thứ này, thứ kia. Nó có thể mang ta
từ nơi này của thế giới đến nơi khác, cố tìm cho được cái gì có
thể làm thoả mãn nó. Nếu không sử dụng năng lực đúng chỗ, nó
sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực. Chính tự nó không toàn diện. Nó
chỉ là nhiên liệu còn bổn phận của ta là tìm cho nó một chiếc xe
đúng loại.
Ðức Phật đã nói về năm yếu tố tâm linh -
Tính, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ - và so sánh chúng với một đoàn ngựa kéo
một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau. Con ngựa dẫn đầu
là Chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó. Nó không cần
phải cân xứng, chờ đợi ai. Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan
trọng nhất. Không có nó toa xe không thể đi tới. Nhưng hai cặp ngựa
còn lại phải cân xứng nhau. Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng với sự
chú tâm - Tinh tấn và Ðịnh.
Sự chú tâm giúp ta ổn định. Nhưng nếu chỉ chú
tâm mà không có năng lực, sẽ khiến ta hôn trầm. Làm ta trở nên trơ đá,
không xúc cảm. Loại chú tâm này không ích lợi gì. Nó cần có năng lực
để giữ thăng bằng. Nhưng có năng lực mà không có chú tâm thì cũng vô
ích vì nó có thể khiến ta quá lăng xăng đến nỗi, lúc nào ta
cũng phải làm cái gì đó.
Năng lực phải có định hướng. Không lợi ích gì
nếu chỉ đổ nhiên liệu vào xe, nổ máy nhưng không biết phải đi
đến đâu. Làm thế chỉ lãng phí nhiên liệu thôi phải không? Trên
thế giới việc khủng hoảng năng lực cứ liên tục xảy ra, vì thế
thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lãng phí nhiên
liệu, có phải không? Chúng ta cần phải biết rõ chiếc xe của ta cần
đi về hướng nào. Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi. Thẳng tiến
đến sự lớn mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.
Khi ta lớn lên cái nhìn của ta bao quát hơn. Khi đã
đạt được sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể
nhìn mọi thứ như một người đứng trên cao nhìn xuống, những gì xảy ra ở
dưới đường không ảnh hưởng đến ta. Dầu có lụt lội, hạn hán, động
đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên không trung, sự tỉnh thức của
ta cũng không hề bị ảnh hưởng. Có cái nhìn của con chim ở trên tầng
không , ta có thể nhìn mọi vật một cách tổng quát chứ không phải cá
thể. Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những gì ta có thể thấy
được là căn phòng này.
Cũng thế đối với cái nhìn bên trong. Cái nhìn hạn
hẹp chỉ có thể thấy được cái gì ngay trước mắt nó: cái đau của thân,
sự sợ hãi, lo lắng cho tương lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét
những người chung quanh ta. Ta chỉ có thể thấy những thứ như thế vì
cái nhìn không được phát triển. Nhưng khi cái nhìn đã thay đổi, ta có
thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không còn phải lo âu, sợ
hãi nữa vì ta biết rằng tương lai và quá khứ là một. Chỉ có giây phút
hiện tại.
Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm
vào một việc mới mong có kết quả. Chúng ta phải hao hụt một phần lớn
năng lực tinh thần trong Thiền định: năng lực duy nhất trong vũ trụ này.
Tất cả mọi vật chất chỉ là kết quả của năng lực tinh thần. Khi ta
đã tu Thiền một thời gian, sự tiêu tốn năng lực không còn làm ta mệt
mỏi. Trái lại là khác. Ta cảm thấy như hấp thụ được nguồn năng lực mới
qua Thiền định.
Ðể làm chủ các bản năng, đòi hỏi phải có năng
lực. Sống theo bản năng là cuộc sống của loài thú. Con người hơn loài thú
là có khả năng tư duy, vậy mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có
tính cách bản năng ở chính ta và người. Vì bản tính con người là phản ứng
theo bản năng, ta cần phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng.
Những gì có vẻ tự nhiên đối với ta - đến với ta một cách dễ dàng - là
những cái ta cần chế ngự. Chỉ sống buông trôi theo bản năng sẽ đem lại
đau khổ cho ta. Chuyển đổi từ một người tầm thường thành một người cao
quý (ariya) là những bước đến với sự giải thoát. Cần phải có
nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng và phản ứng
một cách tầm thường trần tục.
Tất cả những gì ta làm ta đều cần có năng lực.
Sự quyết tâm là buớc khởi đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước.
Và ta chỉ có thể tiến bước không chùng chình nếu ta biết rõ
hướng đi của mình. Người có thể làm được như thế là những người
có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được người
khác ngưỡng mộ. Không có gì to tát cả. Họ chỉ là những người giỏi
điều khiển năng lực của mình.
6. Kiên nhẫn
Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống
hàng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm.
Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc
của ta mau chóng có kết quả.
Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ có tâm chấp Ngã vì ta
muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự định. Hơn nữa ta lại muốn chúng
xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi. Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ,
dự định của mình. Ta quên là còn có nhiều yếu tố khác , nhiều
nhân duyên liên hệ khác. Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỷ người
trên quả đất này, và quả đất này chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và
còn có hằng hà sa số các tinh cầu khác nữa. Vì tư lợi của mình, ta bỏ quên
những điều ấy. Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ý mình ngay
lập tức. Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của
mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ. Ðó là một vòng
tròn oái ăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận
Sự kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức
được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn
được. Ðôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta
cần phải biết chấp nhận những trở ngại này. Nếu ta không thể chấp
nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta càng thêm đau khổ. Ai cũng
từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, thì sự chống cự,
phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội. Như khi ta đấm tay vào một
vật cứng , tay ta sẽ bị đau. Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa
hay bức tường ta vẫn không thấy đau. Phản kháng hay mong muốn đều là
nguồn gốc của khổ đau.
Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ
có thể nhìn thấy sự vật thay đổi, chuyển và trôi theo dòng chảy. Có
những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng
sau, năm sau, ta thấy chúng cũng bình thường. Có những việc năm ngoái ta
thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay
chúng không có ý nghĩa gì nữa với ta. Suy nghĩ như thế giúp ta thản
nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra. Nếu sự việc xảy ra
không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một phần của dòng
đời lên xuống.
Những đức tính này chỉ có thể vun trồng trên mảnh
đất mầu mỡ của nội tâm. Nội tâm ẩn náu bên dưới sự ươm trồng của trí
tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng , trong khi kiên
nhẫn và xả ly cần có để đối trị với ngã mạn , vì tất cả đều vô
thường, khổ và vô ngã.
"Nội quán", hay "Minh sát", trong ngôn
ngữ Phật giáo có sự là sự quán chiếu thậm sâu về ba đặc tính trên:
Vô thường, Khổ và Vô ngã. Chúng không ngừng xảy ra. Chỉ có sự chú tâm của
ta đối với chúng là có thể ngừng lại. Ta thường tìm cách trốn tránh
chúng. Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản kháng lại
chúng. Ta từ chối sự hiện hữu của chúng , và luôn nghĩ ra đủ mọi
cách để trốn tránh chúng. Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là
chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó là
cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu. Tất cả những cách khác đều chỉ là
sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại
điểm bắt đầu.
Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính
mình. Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả. Nếu không
có kiên nhẫn với chính mình, tức là ta không biết tự quý trọng
mình. Ta phóng đại về khả năng của mình, sự quan trọng của mình, rồi
khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức giận. Thí dụ như ta
nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai
tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ
không cần ngủ nghỉ. Ðủ thứ "phải". Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp
dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiếu kiên nhẫn với sự
thiếu sót của họ.
Tuy nhiên cũng không nên đồng hoá tính kiên nhẫn với
sự dễ dãi. Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu
đựng. Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng
kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ
rằng có làm gì cũng vô ích , là một điều không đúng sự thật. Sao cho
rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh. Vấn đề là ta cần phải có trí
tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính. Dầu cho biết chấp
nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết
tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp
hơn.
Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của
mình và nói: "Dơ rồi. Nhưng ta có thể làm được gì chứ? Tất cả y
phục rồi cũng sẽ bị dơ". Ðó là một ví dụ cực đoan. Giống như một
người nhìn quanh phòng rồi nói: "Phòng dơ quá. Mà phòng nào rồi cũng
dơ". Hay có người quan sát nhà mình rồi nói: "Nước sơn đã bạc
màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu". Ðó là thái độ để
mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết
để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm.
Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: "Ôi, còn làm
gì được nữa? Ai mà lại không tham lam, sân hận?" và rồi để mọi
việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.
Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con
người mình, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều này cũng chẳng ích lợi
chi. Tất cả mọi thứ đều cần thời gian. Từ vô thủy, ta đã lập đi
lập lại những tánh xấu này. Ta cần phải có thời gian để thay đổi. Kiên
nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì không.
7. Chân thật
Tiếp theo là chân thật và đức tính này có
nhiều khiá cạnh. Ðầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật. Ðó
là giới luật thứ tư - không nói dối. Nhưng còn hơn thế nữa. Ta cần phải
tự khám phá mình với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm. Ðó là một việc
khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết lầm lỗi
của mình, không phải của người. Tìm lỗi của người không khó. Lỗi
của người khá hiển nhiên. Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là
điều khó làm, ta cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.
Ðiều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất
vấn mình. Khi câu hỏi đầu tiên được trả lời, ta lại phải đặt câu hỏi
về câu trả lời đó "Tại sao tôi lại hành động như thế, tại sao
tôi lại có những cảm thọ đó? Tại sao tôi phản ứng như thế?"
Cuối cùng các câu trả lời đều đưa về một "cái Ngã",
nếu ta đã tự phân tích mình đầy đủ.
Các phản ứng dễ dãi như "ôi, đó chỉ là cái
tôi, tôi không thể làm gì khác hơn" hay "đó là nghiệp của
tôi rồi", không ích lợi gì. Cả hai thái độ đều vô hiệu quả,
vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là
do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gỡ sự bám víu vào cái ngã.
Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta. Ta phải đặt
một tấm gương trước mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà
là để theo dõi sự hình thành của tâm sinh lý của ta. Tấm gương đó
gọi là chánh nghiệp. Ðôi khi cách người khác đối xử với ta cũng
tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực vì có
cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công việc chính của ta là phải
tự chất vấn mình thôi.
Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật
tức là biết điều bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Ðế) và
đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao quý đó có
nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn nội tâm: sự thật về khổ
(khổ đế), sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân ;
sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế) nghĩa là sự giải thoát ;
và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế) đó là
Bát Chánh Ðạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.
Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến
sự tự do, giải thoát. Con người ta có thể đi tìm chân lý bằng
nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học. Có nhiều
lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người
này và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ
nghĩa tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt
lý thuyết của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng
không thể nào đem lại sự thỏa mãn hoàn toàn.
Ði tìm chân lý là một điều nên làm, tuổi trẻ
nên đeo đuổi theo chân lý và người già không nên ngừng nghỉ. Ðáng
buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có bị gián đoạn. Con người bị ràng
buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì mục đích sinh tồn, đến
nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của họ.
Họ không còn đủ năng lực hay ý chí. Thật đáng tiếc, khi người
trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi
việc, còn người già thì không còn đủ năng lực. Như ông Bernard Shaw đã
nói: "Tuổi trẻ bị lãng phí bởi những trẻ tuổi".
Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc tìm kiếm
chân lý, dù chỉ một phút. Nếu ta tiếp tục cuộc kiếm tìm, thì
chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng chân lý không thể là một sản
phẩm của loài người. Chân lý phải có tính cách toàn cầu. Phải được
áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một loại người nào, một
tầng lớp xã hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia, tôn giáo nào. Chân
lý phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người tuyệt đối,
mãi mãi - không chỉ tạm thời cho một nhóm người nào đó thôi.
Chân lý phải là sự thật tuyệt đối,chứ không
phải tương đối. Chân lý tuyệt đối nằm trên những khổ đau và
kiếm tìm của con người. Nó nằm trong những cuộc kiếm tìm của tâm linh
và chân lý chỉ có thể tìm được trên các con đường tâm linh. Chúng
ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều. Nó có ngày mai và
hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và tôi không
muốn, tiềm ẩn trong đó. Trong đó có cá tính "của tôi" và cá
nhân "của tôi" mà "tôi" muốn khẳng định và "tôi"
muốn bành trướng. Ðiều đó chỉ có tính cách tương đối và không phải
là chân lý tuyệt đối, có thể làm thỏa mãn mọi người. Ai đó
phải chịu thiệt thòi trong thế giới đó. Chân lý tuyệt đối bỏ
qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá nhân,
ta sẽ nhận ra rằng những gì được coi là "tôi", "của tôi"
là một sai lầm và những gì là "anh", "của anh" cũng là một
hiểu lầm đáng tiếc. Không có tha nhân để ta lo ngại sợ hãi. Tất
cả chỉ là một dòng chảy và thể chất chiủ là lớp vỏ bên ngoài. Chân
lý tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào. Nó có tính
cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con người
bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính này tạo nên sức mạnh bên
trong ta, và để phá vỡ sự thật tương đối, tìm ra chân lý tuyệt
đối, ta cần phải có rất nhiều sức mạnh.
8. Quyết tâm
Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp
là sự quyết tâm, không có quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được
gì. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy cũng cần có quyết tâm. Tuy
nhiên, có việc đòi hỏi nhiều quyết tâm hơn các việc khác,
thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi thiền
không có gì hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không mang
lại kết quả tức thời.
Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết
quả tức thời. Nhấn một cái nút, tức thì các số tiền mua sắm được tổng
cộng ngay. Nhấn một cái nút khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ.
Nhấn một nút nữa, đèn được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức.
Xã hội chúng ta hơn bao giờ hết, đòi hỏi các kết quả ngay tức thời.
Ðó là lý do tại sao các viên thuốc giảm đau được người ta ưa thích
hơn các loại thuốc đông y thường cần thời gian lâu hơn mới có công
hiệu.
Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm
bảo. Muốn tu Thiền, ta cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên
cường. Tâm yếu đuối không thể có quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ,
định tĩnh thì traí lại. Mỗi khi ngồi xuống tọa Thiền, ta cần phải
quyết tâm ngồi một chỗ không nhúc nhích, để giữ tâm ở yên một
chỗ, để chú tâm vào việc ta đang làm.
Trong đời sống hàng ngày, ta cũng cần có quyết
tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ cơ hội, thì cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta
cần phải làm một cái gì đó. Phải có quyết tâm bạn mới đến
Thiền viện để học Thiền, vì ở nhà thì thoải mái hơn rồi.
Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện
trong ta. Ai cũng biết điều tốt xấu. Nếu không, thế giới này
càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta đều có tính quyết
tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những đức
tính này là những người bạn tốt của mình. Ta phải cố gắng gần gũi chúng,
ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng ta là những nguyên
liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, bình an và không thể
thiếu trong sự phát triển tâm linh.
Ðó là tất cả những gì cuộc đời có thể mang
đến cho ta: sự phát triển tâm linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc
giả tạm nguy hiểm vì chúng lôi kéo ta vào sự buông xuôi. Khi ta đã
hiểu rõ ràng như thế, thì quyết tâm sẽ phát khởi để ta đem
sự phát triển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Ðể làm được
điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu. Ta
có thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những gì xảy
ra cho ta đều có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một
căn bệnh, chết chóc, sự ác tâm của người, mất tài sản, thân thọ
khổ, hay mất tình yêu, danh vọng. Sự bám víu vào người khác, lo lắng cho
họ cũng cho ta một bài học. Không nên coi thường gì cả, mà hãy xử
dụng mọi thứ để tu học, phát triển.
Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc
đời này không có gì giá trị để cho ta, trừ sự phát triển tâm linh
và giải thoát cuối cùng. Không cần phải thay đổi cách sống của mình, nhưng
cần phải thay đổi thái độ, hành động, nhận thức về những gì xảy ra
quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang đến cho ta hạnh phúc vì
trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường đạo. Như
thế quyết tâm tự nạp năng lực cho mình. Quyết tâm bình thường
đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một
quyết tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường
tâm linh, nó không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn vì
nó mang lại niềm vui cho người có quyết tâm.
9-10. Tâm Từ và Tâm Xả
Hai đức tính cuối cùng: tâm Từ và tâm Xả, bạn đã
được nghe nói đến nhiều. Ðã được nhắc đến ở những Chương
trước. Xả là tình cảm đáng được trân trọng nhất. Nó giúp đoạn
diệt ảo tưởng về Ngã. Nếu ta không thực biết rằng chính Ngã
chấp đã tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, thì ta không thể thực sự
phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta không
thể có tâm an bình. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.
Mười nghiệp thiện này cần được phát triển
đời này qua đời khác, liên tục cho đến khi chúng đủ sức mạnh để
đưa ta đến con đường cao quí, con đường giúp ta có cái nhìn xuyên
suốt về Tứ Diệu Ðế ngay tại trọng tâm của bánh xe Phật pháp.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |