|
(09)
Ngũ Uẩn
Khi mới bắt đầu thực
tập thiền, ai cũng rất phấn khởi , "Tôi sẽ thực tập thiền thật
tốt kể từ hôm nay". Sau vài ngày, khi đã quen quen, thì tâm bắt đầu
suy nghĩ: "Không biết tu tập đến chừng nào đây? Biết bao giờ
mới chấm dứt?" Nó sẽ chấm dứt , tôi bảo đảm với bạn, vì mọi thứ
đều phải chấm dứt, không có gì vĩnh cửu.
Khi tâm bắt đầu bàn ra, ta cần nhận
biết điều đó để tự nhủ: "Ồ, tâm lại sắp dở trò gì
đây?". Ðừng nghe theo nó. Ta đã không nghe nó khi đang tọa thiền
thì tại sao lại phải nghe nó lúc khác. Có tọa thiền hay không, tâm
cũng thích đùa cợt ta.
Mỗi khi tâm nói những lời như: "Tôi
bỏ cuộc , tôi sẽ chẳng bao giờ có thể giác ngộ" hay "Tôi
tiến bộ quá rồi, tôi có thể nghỉ xả hơi", thì ta phải trấn an
tâm bằng: "hãy im đi tôi đang hành thiền đây". Vấn đề là
ta phải có quyết tâm, kiên định, là một trong mười điều thiện.
Không có lòng quyết tâm , ta sẽ chẳng đi tới đâu cả.
Không chỉ vậy , tâm còn biết bao
điều khác để nói. Không được hưởng dục lạc, tâm muốn được tiêu
khiển bằng những trò chơi khác. Nó vẫn thường được giúp vui, bằng bao
nhiêu trò hấp dẫn. Nó thường được chuyện trò, đi đó đi đây, xem bao
nhiêu cảnh lạ, đi mua sắm, chọn lựa những thứ nó ưa thích. Nó thường
được gặp, làm quen với bao nhiêu bạn bè mới. Còn ở đây, toàn những khuôn
mặt quen cũ. Không có gì mới lạ, không có gì đáng bàn cãi, thảo luận. Nó
thường được thưởng thức bao nhiêu thức ăn ngon và có quyền chọn
lựa món mình thích. Còn ở đây, chỉ những gì được dọn lên.
Tất cả những thứ này làm tâm bực dọc,
vì nó vẫn từng được mọi thứ nó muốn. Cái TÔI nói: "Tôi muốn làm
theo ý tôi, không theo ý ai cả". Chúng ta đã quá quen suy nghĩ như
thế đến nỗi ta chẳng bao giờ ngừng lại để suy xét về thái
độ này. Nếu biết suy xét ta đã thấy rằng : đó là lòng ham muốn,
tham đắm. Chính lòng ham muốn đó sẽ đưa ta đến khổ đau. Không thể
khác hơn được.
Khi tâm bắt đầu "dở chứng" ta phải
biết cách đối trị tâm. Hãy làm bà mẹ. Ðể nói với tâm, như một
đứa trẻ đang quấy rầy, rằng bạn chỉ muốn điều tốt lành cho tâm, muốn
bảo vệ tâm và bạn biết điều gì tốt cho nó. Hãy vừa làm người
mẹ, vừa là đứa con. Thông thường ta là năm mươi hay cả trăm con người
khác nhau. Nghĩ tốt, nghĩ xấu, thương người này, ghét kẻ kia, tạo bao lăng
xăng lộn xộn bên trong. Và ở đây cũng vậy, ta là mẹ, mà cũng là con. Ðứa
con muốn tất cả mọi thứ phải chiều theo ý nó , và người mẹ
khuyên lơn: "Không. Ta phải làm cách gì tốt nhất, không hẳn là dễ chịu
nhất, nhưng khôn ngoan nhất".
Lý do tại sao có những khó khăn này đã
được Ðức Phật giải thích do sự bám víu vào ngũ uẩn của chúng ta. Là
những gì ta đã được cấu tạo thành. Ngũ uẩn ở trong chúng ta. Nhưng ta vẽ
vời thêm cho chúng. Rồi tin vào những điều đó như thật theo như ý
muốn của tâm.
1. Thân (Sắc)
Cơ quan lớn nhất, dễ nhận thấy nhất của
ngũ uẩn là Thân (sắc). Không ai không có, và không ai không khổ vì nó,
không lúc này thì lúc khác. "Tôi không ngồi được. Ðầu gối tôi đau.
Lưng tôi mỏi. Bụng tôi khó chịu. Tôi chóng mặt. Tôi mệt mỏi".
Ðức Phật nói kẻ không giác ngộ, không tu
tập có hai mũi tên làm đau hắn, và người giác ngộ, tu tập thì chỉ có một.
Hai mũi tên đó là Thân và Tâm, và một mũi tên là Thân. Ðức Phật thỉnh
thoảng vẫn có bịnh nhưng Ngài vẫn tiếp tục thuyết pháp. Bệnh hoạn
không cản trở được Ngài. Cuối đời, Ngài bệnh rất nặng, khi sắp sửa ra
đi. Ngài nhập thiền định rồi tịch.
Các đấng Giác ngộ có tu tập cũng không
thoát ra khỏi cái khổ do thân gây ra. Thân không hoàn toàn và luôn luôn bất
như ý. Ðối với người không biết tu khi bị bệnh, bị ảnh hưởng
bởi căn bệnh, tâm họ phản ứng bằng cách kêu lên: "Tôi không
khỏe. Tôi không thể làm được điều này, điều kia vì bệnh;
cơ thể tôi đau nhức quá, tôi không ngồi, nằm hay đứng được, ..."
hoặc bất cứ thứ gì đã làm họ đau đớn. Tệ hại nhất là khi ta phải
thay đổi tất cả các sinh hoạt của mình theo sự đòi hỏi của thân. Có sự
thay đổi nào rồi làm vừa lòng thân không? Có ai đã tìm ra phương cách gì
để thân luôn cảm thấy thoải mái không? Bạn có thể di chuyển nơi
này, nơi nọ, thay đổi khí hậu, dời từ ghế qua giường, từ giừơng
xuống đất , rồi trở lại ghế. Có gì thay đổi không? Tất nhiên không.
Lúc nào cũng có vấn đề. Nên tốt nhất là cứ ngồi yên trên gối
thiền.
Thân này, một trong năm uẩn, có đặc tính
là vô thường, luôn thay đổi. không ai chối cãi điều này, nhưng tính vô
thường mang đến phiền não. Nếu ta có thể ngồi thoải mái thì
cũng năm hay mười phút sau là thân thấy khác. Sự khó chịu đau đớn lại
phát sinh. Ngay như tối ngủ, nằm trên giường êm, thân vẫn không chịu yên.
Vì thân mang tính cách vô thường , biến
đổi nên luôn có sự va chạm. Sự tuần hoàn của máu, chuyển động của
phổi, tim, hơi thở - tất cả để duy trì sự sống, nhưng mỗi chuyển
động gây ra cọ xát, va chạm. Ðâu có thể nào khác hơn. Sự chuyển
động gây ra những khó chịu nhỏ. Càng tỉnh thức, ta càng nhận biết rõ
hơn các cảm giác khó chịu đó. Ta càng nhận ra rằng khi nào còn có thân là
ta còn có khổ. Dần dần ta phải tập bỏ quên thân, không chạy theo mọi
đòi hỏi của nó. Vì thân luôn có những đòi hỏi mới. Khi đã no bụng, nó
đòi được bài tiết. Xong lại đòi ăn. Thân luôn đòi hỏi và không bao
giờ chịu thỏa mãn. Vì thân luôn thay đổi, nó cần cho vào , cho ra luôn,
nếu không nó không thể tồn tại.
Ðức Phật luôn nhắc nhở chúng ta là con
đường đi đến giải thoát là phải biết quán sát thân với chánh
niệm. Ngài nói ai không biết quán sát thân bằng chánh niệm sẽ
không thoát khỏi vòng sanh tử. Ðiều đó khuyến khích ta buông bỏ
không chạy theo mọi đòi hỏi vô lý của thân, cũng như giúp ta soi
rọi lại tâm để thấy câu nói "Ðây là thân tôi" là vọng
tưởng. Nếu thật sự đây là "thân tôi", nếu tôi thật sự là
chủ thân này thì tại sao thân không làm theo những điều tôi muốn nó
làm? Sao nó không luôn trẻ đẹp , mạnh khỏe? Ngay cả khi trẻ đẹp, mạnh khỏe,
tại sao thân có những đòi hỏi ta không thể thỏa mãn được như muốn
luôn được thoải mái? Tại sao nó chết khi ta còn muốn sống?
Cho nên hoặc là tất cả đều đảo lộn,
hay là ta đã có những quan niệm sai lầm trong tâm về thân, Ngã, và sự
sống chết. Chúng ta ai cũng tin tưởng mãnh liệt rằng thân này là của
ta. Nhưng ta chẳng có thể làm được gì với thân ngoài việc luôn thoả
mãn các đòi hỏi của nó. Cho nó vào giừơng khi nó mệt, cho ăn khi nó
đói, cho uống khi nó khát v.vẨTa bám theo các đòi hỏi của thân mà không
thật sự làm chủ nó. Chánh niệm giúp ta chú tâm vào các chuyển động
của thân, các đặc tính của thân, để dần dần nhận rõ ra rằng thân chỉ
là một tổ hợp của nhiều thứ mà khi nào còn có sự sống , chúng còn hợp
tác nhau làm việc. Sự hợp tác của các thành phần này cũng không phải là
luôn ăn khớp, nếu không ta đã không cảm thấy đau nhức chỗ này,
chỗ nọ, và sự hợp tác đó cũng chỉ kéo dài một khoảng thời gian nào
đó thôi.
Ta gọi thân này là "của Tôi",
tạo ra ảo tưởng của Ngã. Chúng ta nghĩ là "Tôi biết tôi ra sao mà.
Khi nhìn vào gương, tôi thấy "Tôi" và tôi biết "Tôi".
Vậy mà nếu ta quan sát kỹ hơn, ta sẽ thấy có cả ngàn "cái Tôi"
đủ kích cỡ, màu sắc. Ðôi khi mập hơn, đôi khi ốm hơn, trước thấp , sau
cao, tóc đen rồi tóc trắng, lúc đau khổ, lúc mừng vui. vậy thì câu hỏi sẽ
là "cái nào là Tôi?" Nếu câu trả lời là "Tôi là tất cả
những người khác nhau đó" thì ít nhất ta cũng nhận ra rằng mình không
phải là một, mà có thể là hàng trăm ngàn người như đã nói trước
đây. Ai trong số cả trăm ngàn người đó thực sự là Tôi? Phải có một
người nào đó thực sự để duy trì "cái Tôi". Không thể một
người mà là hàng trăm người khác có phải không?
Chúng ta có thể nghĩ: "Tôi sẽ
chọn 'Tôi' ở ngay lúc này". Nhưng còn những giây phút đó thì sao?
Mười năm sau thì thế nào? Luôn luôn ở giây phút hiện tại, đó là
tôi. Cuối cùng với cái Tôi luôn thay đổi ta trở thành khó nhận diện
nổi. Vậy mà ta cứ nghĩ thân này là của tôi, và coi nó quan trọng
xiết bao. Tất nhiên là ta phải chăm sóc thân này. Nếu không ta có
khác nào kẻ khờ. Nhưng để thân làm chủ cuộc đời ta thì thật vô
vọng, vì thân chẳng bao giờ biết thỏa mãn. Cho tới giờ lâm chung, thân
luôn đòi hỏi sự thoải mái. Trong các bài thuyết giảng về nền
tảng của Chánh niệm, Ðức Phật có nhắc đến một số phương pháp
thiền định có thể giúp ta buông bỏ sự bám víu vào thân, ảo tưởng
chấp Ngã.
Phải có sự hài hoà giữa bình an và trí
tuệ. Trí tuệ là điều tiên quyết và có thể đạt được vô
điều kiện. Sự bình an sẽ phát sinh khi ta có khả năng chú tâm.
Nếu vì lý do gì đó, thân không thể ngồi yên, thì sự bình an,
tĩnh lặng cũng biến mất và trí tuệ đã không phát sinh. Trí tuệ
về thân phải là một phần, là trang bị của con đường tâm linh.
Cách quán thân Ðức Phật đã dạy chúng ta
trong các bài giảng về chánh niệm gọi là quán thây ma hay cách
quán về cái chết của chính mình. Ai rồi cũng phải chết, nên tốt
nhất là chúng ta nên chấp nhận nó ngay từ bây giờ, chứ đừng đợi đến
khi nó xảy ra. Hôm nay có thể ta còn thấy sợ hãi mỗi khi tim ta đập
sai nhịp hay khi ta cảm thấy không được khỏe mạnh như hồi còn trẻ. Một trong
những cách quán về sự chết là tự nhìn mình như là một bộ xương.
Hãy tưởng tượng ra một bộ xương đang ngồi trong tư thế tọa
Thiền. Kế tiếp lấy từ bộ xương ra những mảnh xương nhỏ xếp
từng cái bên nhau. Hãy để bộ xương tan rã thành cát bụi. Phép quán này
làm tan đi những mộng tưởng về ngã và sự bám viú vào thân xác này.
Một trong những yếu điểm của ta là
lòng ưa thích được thoải mái tấm thân. Chúng ta không dám thức khuya vì sợ
nó mệt. Lo bảo vệ nó khỏi muỗi mòng, khỏi thời tiết nóng
lạnh, khỏi tất cả những gì có thể gây cho thân sự khó chịu. Chúng ta
luôn bận rộn bảo vệ thân và mất quá nhiều thì giờ quý báu cho
việc này.
Biết về cái chết là một
chuyện, nhưng có thể tưởng tượng ra cái chết của chính mình trong
đầu và chấp nhận nó với tinh thần xả bỏ là một chuyện khác nữa. Hãy
thử phép quán này trong lần tọa Thiền tới. Hãy quan sát cái chết
của mình, và ghi nhận các phản ứng của mình. Có thể phản ứng đầu tiên
sẽ là: "Không, tôi không thể thực hiện được, tôi không muốn
làm điều đó" Hãy cố gắng lên. Các bài giảng căn bản về chánh
niệm nổi tiếng vì nó giúp ta đạt được trạng thái không còn sanh
tử, gọi là giải thoát. Phần đông chúng ta thực hành Thiền quán vì ta
cần tìm sự an bình, tĩnh lặng. Vì ta muốn trốn chạy những phiền não, tìm
niềm vui trong thiền định. Tốt thôi. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh
của Pháp. Ðức Phật gọi đó là "hạnh phúc thường hằng" do những
điều kiện thuận lợi mang tới. Tuy nhiên có nhiều người không
thể ngồi Thiền do những điều kiện của thân thể không cho
phép. Có người đã bỏ cuộc ra về, vì tâm họ không chịu được sự
khó chịu của thân. Tất cả chúng ta đều có thể phản ứng như thế.
Hãy cẩn thận trước khi nó xảy ra, và sửa đổi bằng cách nhìn thân đúng
hơn.
2. Cảm thọ
Kế tiếp là Thọ uẩn, gồm các cảm
giác vui buồn của chúng ta. Thọ uẩn cũng góp phần quan trọng về
việc tạo ra ảo tưởng về cái Tôi, vì chúng ta thường nghĩ rằng các
cảm giác là Ta. Tôi cảm thấy vui, cảm thấy buồn, thấy bình an, thấy bất an.
Tuy nhiên nếu chúng là của ta, thì sao ta không có quyền hạn gì đối
với chúng cả? Sao ta không thể lúc nào cũng được vui, được hạnh phúc?
Tại sao không? Ai là người có quyền quyết định sự vui buồn của ta?
Ảo tưởng
về Ngã chấp phát sinh vì ta tin rằng thân này, các cảm thọ này là
của ta. Tuy nhiên khi thật sự quán xét về chúng, ta thấy rằng ta chẳng có
quyền hạn gì với chúng cả. Mọi việc chỉ xảy ra như thế. Thì
tại sao ta nghĩ chúng là ta? Khi có cảm giác khó chịu, buồn khổ, bực bội,
tuyệt vọng thì ta trở nên khó chịu , buồn bực, chán nản, tuyệt
vọng. Chúng ta phản ứng bằng cách đeo bám vào các cảm thọ, thay vì
chỉ nhận biết là chúng đã dấy khởi, rồi chúng sẽ qua đi như tất cả
mọi cảm thọ khác.
Ngay giây phút ta có thể bỏ qua, không
chú tâm đến các cảm thọ vui buồn, chán nản, tưởng chừng không
thể chịu đựng được, thì chúng sẽ biến mất qua đi. Nhưng thay vì
thế, ta lại tin rằng những cảm thọ này sẽ ở lại với ta, để bị
chúng lôi cuốn theo. Khi cảm giác sân giận dấy khởi, ta trở nên sân giận,
thay vì chỉ nói: "Ồ, đúng rồi đó là cảm giác giận hờn. Nó sẽ qua
thôi. Tôi sẽ không để ý đến nó". Sẽ không có gì tạo ra
cái Tôi, nếu như không có niềm tin rằng: " Thân này là tôi. Các
cảm giác này là tôi ".
3. Tưởng
Kế tiếp là Tưởng uẩn, có nhiệm
vụ cho ta biết về các sự vật. Khi mắt nhìn thấy vật gì, nó chỉ có
thể nhận ra hình dáng, màu sắc. Mắt chỉ có thể thấy là vật đó
vuông, trắng ở phía trước, phía sau đen. Nhưng vì ta đã nhìn thấy vật đó
nhiều lần trước đây, ta biết đó là cái đồng hồ. Lúc đó trong
đầu ta sẽ nói "đồng hồ" rồi nói tiếp theo"không biết
đó là đồng hồ nội hay ngoại, có thể là ngoại ở Úc chăng? Không
biết bên đó giá bao nhiêu?" Ðó là sự đối thoại của tâm. Nhưng
nếu đó là một em bé ba tuổi, thì em không thể biết đó là cái
đồng hồ, mà tưởng rằng đó chỉ là một món đồ chơi. Là những thứ em bé
đã quen thuộc. Ðó là cái Tưởng của bé về chiếc đồng hồ.
Thị giác chỉ nhìn thấy hình thể, màu
sắc, nhưng chính là cái Tưởng có những điều kiện của ký ức cho
ta biết việc này, việc nọ. Người không có đồng hồ sẽ có
thể nghĩ: "Tôi muốn có một cái như thế". Trong khi người có
cái tốt hơn , sẽ có thể nghĩ: "Cái của tôi giá trị hơn
nhiều". Ngã chấp lập tức dấy khởi, khẳng định lòng ham muốn hay cảm
giác hơn người. Trên thực tế tất cả chúng ta đều thấy một cái hộp
vuông, trắng ở phía trước, phía sau đen. Nhưng vì ảo tưởng về cái Tôi,
các điều kiện hoá cái Tưởng đã tạo ra một quá trình tư duy làm ta
tin rằng thế này thế nọ. Vì chưa bao giờ mổ xẻ, quán sát sự suy
tưởng của mình, ta tin vào đó. Sự tin tưởng đó của ta càng nuôi dưỡng
thêm lòng chấp Ngã. Lúc nào ta cũng suy nghĩ vì ta cần nuôi dưỡng ảo tưởng
về cái Ngã của mình. Tự Ngã rất mong manh, nó sẽ ngã đổ nếu không
có sự tiếp sức của ta. Khi chúng ta luôn thoả mãn những đòi hỏi của
thân, và trở thành các cảm thọ để nâng đỡ cho ảo tưởng về
Ngã. Nhưng nếu chúng ta có thể quán xét các cảm thọ và nói rằng:
"Ðó chỉ là một cảm thọ", thì ngã chấp đã không được tăng
trưởng.
Tự Ngã luôn cần được nâng đỡ vì nó
không có thật. Ta không cần phải luôn nói: "Ðây là cái nhà. Ðây là
cái nhà to. Ðây là cái nhà cũ". Ðiều đó quá rõ ràng vì cái nhà
có thật. Nhưng tự Ngã thì không , do đó nó cần khẳng định về nó luôn
luôn. Sự ủng hộ này do quá trình tư duy, cộng thêm các giác quan, các cảm
giác được thương , được yêu, và cái Tưởng của ta mang đến.
4. Hành
Hành uẩn được coi là nguyên nhân của
nghiệp. Hành tạo ra Nghiệp. Ngay giây phút, ta có tư tưởng suy nghĩ, ta
đang tạo ra nghiệp của mình. Nếu như ai đó thấy chiếc đồng hồ
và nói: "Ðó là cái đồng hồ tôi không có, ước chi tôi có một
cái", lúc đó nghiệp đã tạo hình, đó là nghiệp tham ái. Hay có
người nói: "Cái đó đẹp quá. Của tôi không đẹp bằng" Ðó là
nghiệp ganh tị. Ngay khi tư tưởng dấy khởi, thì một nghiệp đó
liền được tạo hình. Có nghiệp trung tính, không có ảnh hưởng gì.
Như khi người ta nói: "Ồ, đó là cái đồng hồ" đó là một nhận
xét khách quan. Nhưng phần đông chúng ta đều tạo nghiệp lành hay
nghiệp ác. Nếu thấy một màu sắc nào đó, ta có thể nói: "Tôi
sẽ sơn nhà tôi cũng màu đó", đó có thể là trung tính, không lành,
không ác. Nhưng đằng sau đó, có thể ta đã có một ý muốn có được
cái nhà đẹp hơn hàng xóm. Thì đó không phải là nghiệp lành.
Khi ta tin vào tất cả những gì đi qua tâm
trí mình, là ta đã vô tình nuôi dưỡng thêm lòng chấp Ngã. Vì lẽ đó khi
tọa Thiền, ta khó dẹp bỏ hết mọi suy nghĩ. Vì làm thế thì
sự nâng đỡ cho Tự Ngã không còn. Ngay như khi ta có thể ngưng suy nghĩ
trong chốc lát, và có được sự an bình, tĩnh lặng, lập tức tư tưởng quay
trở về: "Cái gì vậy? Ồ, cảm giác dễ chịu quá". Vậy là sự
chú tâm của ta bị gián đoạn, lại phải bắt đầu trở lại. Vì ta suy nghĩ
không ngừng, nghiệp của ta đã được tác tạo liên tục. Nào là phán
đoán, quyết định, bám víu, xô đuổi. Chỉ có tâm chánh niệm từng
giây phút mới có thể giúp ta quán xét đúng. Lúc đó ta sẽ có thể
biết mình đang làm gì, và không phải tin vào tất cả những gì trong đầu
ta. Trong khi tham Thiền, ta có thể thấy là hầu hết những suy nghĩ
của ta đều không chính đáng. Có thể chúng quá xưa cũ, đã qua rồi
hay chưa xảy đến. Hay chỉ thuần là tưởng tượng. Phần lớn các tư tưởng
đi qua trong đầu thật sự không dính dánh với những gì ở quanh ta. Tâm ta chỉ
chờ có chất xúc tác nào đó, là bám lấy để giở trò đùa với chúng ta.
5. Thức
Uẩn cuối cùng là Thức, tức sự cảm nhận
của các giác quan. Là sự xúc chạm của các giác quan. Mắt, vật thể và
thị giác, tạo nên cái nhìn. Tai, âm thanh và cảm nhận của tai, tất cả tạo
nên cái nghe v.v... Chúng ta luôn sử dụng các giác quan. Ngay bây giờ các bạn
đang sử dụng thính giác, thị giác, xúc giác và tâm thức. Thị giác giúp bạn
quan sát sự vật quanh mình, thính giác giúp bạn nghe được tôi nói, và xúc
giác giúp được bạn biết được vị trí chỗ ngồi của mình. Trong khi
tâm giải mã những điều nó đã tiếp thu được. Chúng ta luôn cố gắng
tạo ra những điều kiện, trạng thái để các sự xúc chạm sẽ đem
đến cho ta sự dễ chịu. Nhưng chỉ hoài công. Khó thể có được những
cảm giác xúc chạm hoàn toàn dễ chịu. Qua các giác quan lúc nào ta cũng gặp
phải sự đối kháng từ bên ngoài. Ðó là cuộc đời của mọi chúng sanh
hữu tình, nhất là ở cõi giới của người. Thí dụ như khi có tiếng động
lớn, ta thường sợ hãi. Ngay với những thứ âm thanh dễ chịu, nhưng nếu ta
phải tiếp tục nghe chúng, ta cũng không thể chịu nổi.
Các giác quan không giống như ta nghĩ. Thực
ra ta cũng không để ý đến chúng, coi sự có mặt của chúng như là
đương nhiên, và chỉ nghĩ đến các cảm giác khoái lạc. Dĩ nhiên là ta
có thể tìm được các cảm giác khoái lạc qua các giác quan, nhưng ít ai
nghĩ được rằng chính chúng đem lại đau khổ cho ta. Chúng không ngừng thúc
đẩy , áp lực ta từ mọi hướng, để tìm cảm giác thoải mái cho chúng.
Ðức Phật đã kể một ẩn dụ về
thân, sự đòi hỏi không ngừng của nó và kết quả khổ đau của nó. Một
cặp vợ chồng đi qua sa mạc với đứa con nhỏ. Họ không còn thức ăn, nhưng
cứ tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi quá kiệt sức, đói khát
họ không thể cất bước. Cuối cùng họ phải giết đứa con
để ăn thịt.
Thức thì được so sánh như một kẻ tù đày
đang bị hai người bạn kéo vào lò lửa. Cũng thế quá trình tư duy của ta,
dầu tốt hay xấu, cũng kéo ta vào ngọn lửa luân hồi. Với các câu
chuyện này , Ðức Phật cho ta thấy đau khổ đã gắn với kiếp con
người, để ta cố gắng tu sửa để thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Chúng ta phải hiểu rằng không có ai là chủ của thân, của thọ, tưởng,
hành và thức. Ðó là điều khó nhất trong giáo lý Phật giáo. Khó
để hình dung và khó để chứng nghiệm. Không có Thiền quán,
điều đó sẽ mãi chỉ là một sự thực tập có tính cách trí tuệ.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |