|
(7)
Nghiệp và Luân Hồi
"Tôi làm chủ
nghiệp của mình. Tôi kế thừa nghiệp. Sinh ra, tôi đã mang
nghiệp. Tôi và nghiệp tương quan lẫn nhau. Tôi sống theo sự dẫn dắt
của nghiệp. Tôi tạo ra nghiệp gì, xấu hay tốt, tôi sẽ là người
thọ lãnh sau này". Ðức Phật dạy rằng ta phải tự nhắc nhở mình như
thế mỗi ngày. Những điều này quan trọng thế nào mà ta phải
tâm niệm mỗi ngày như thế?
Karma có nghĩa là hành động. Vào thời Ðức
Phật, nó đã được dùng với nghĩa như thế. "Karma Yoga" có nghĩa
là Yoga của hành động. Nhưng Ðức Phật nói: "Karma, hỡi các vị tỳ kheo,
ta nói là, sự chủ tâm (tác ý)". Karma không chỉ bất cứ hành động
nào, nhưng chỉ vào sự chủ tâm ở sau mỗi hành động. Không chỉ sự chủ
tâm khi hành động mà cả trong lúc nghĩ suy, nói năng. Một cách lý
thuyết, nếu ta dùng từ Karma để chỉ hành động, và kết quả
của hành động, là không đúng, nhưng vì đã được sử dụng quá lâu theo
nghĩa đó, người ta khó có thể hiểu Karma một cách khác hơn.
Hành động ta làm với sự chủ tâm thì rất
khác với hành động vô tâm. Nếu ta vô ý dẫm chết một con
kiến, thì đó không phải là nghiệp sát sanh, dầu ta có thiếu chánh
niệm. Vì không có sự cố ý, chủ tâm sau hành động đó. Nhưng nếu
có một ổ kiến trong vườn, và ta muốn dẹp sạch nó bằng cách xịt thuốc
lên ổ kiến, cố ý giết chúng càng nhiều càng tốt, thì đó là
ta đã tạo nghiệp sát sanh vì đã có sự chủ tâm đằng sau hành động
đó.
Bất cứ điều gì ta làm với chủ tâm
đều mang lại hậu quả, do ta đã có sự suy nghĩ về chúng trước khi
hành động. Vì thế ta nên cảnh giác với mọi tư tưởng của mình. Ðó
là điều ta có thể luyện tập khi tham thiền. Phải biết rõ
quá trình tư duy của mình, mới mong tạo ra nghiệp thiện, nếu không
ta chỉ hành động mà không có sự chủ tâm, cố ý. Khi ta biết tâm, tư
tưởng của chính mình, ta có thể sửa đổi chúng cho tốt hơn, theo một
hướng đúng hơn, theo hướng để tạo ra nghiệp thiện.
Người ta thường nói: "Tôi tạo ra
nghiệp thiện để khi tái sinh tôi được đẹp đẽ hơn". Ðó là
một sự trao đổi đó có tính cách thương mại. Làm một cái gì đó để
đổi lấy một cái khác. Dầu có tốt hơn so với hành động theo bản năng,
thiếu chủ tâm, nhưng cũng khó đem lại cho ta kết quả tốt đẹp hơn vì
phương cách đó đầy ngã chấp.
Hành động thiện cần được làm trong sự
sáng suốt, biết rằng nếu không làm thế, ta chỉ đem lại đau khổ
cho chính mình. Tâm thiện là điều tiên quyết giúp ta sống an bình,
hòa nhịp với chính ta, với tha nhân. Nghĩ đến kết quả là có sự chờ
đợi, mong mỏi, bám víu. Tất cả những mong mỏi chỉ mang đến sự thất
vọng. Không có sự mong mỏi nào trở thành hiện thực như ta đã mong
muốn. Sự mong mỏi dẫn ta đến tương lai hơn là trụ ở giờ phút hiện
tại. Kiếp sau, hay kiếp sau nữa, hay sau sau nữa, kiếp nào? Năm phút
tới thì sao? Hành động thiện đúng ra phải được làm với tất cả tâm
hồn đến nỗi không còn có thể nghĩ đến gì khác nữa. Nhưng
nếu như có điều gì khác nữa chen vào, lúc đó trí tuệ sẽ bảo
cho ta cách chọn lựa đúng.
Khi hai người cùng làm một hành động,
họ sẽ không có cùng một nghiệp quả. Ðức Phật so sánh việc tạo
nghiệp ác của hai người với bỏ một muỗng muối vào ly nước hay bỏ
xuống sông Hằng. Ly nước muối sẽ không uống được, nhưng nước sông Hằng
có gì thay đổi đâu. Cũng thế, với người có cả một dòng 'sông
thiện' thì một hành động sai quấy cũng không ảnh hưởng gì. Nhưng
nếu ta chỉ có một 'ly nước phúc' thì chỉ một hành động sai quấy cũng
đủ làm cay đắng cả cuộc đời. Vì ta không biết mình đã tạo tác ra
những gì ở các kiếp trước, tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc
của ta chỉ đầy một ly nước. Ðôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những
người làm bao điều ác mà vẫn sống hạnh phúc. Gia đình, tiền bạc,
sức khoẻ đều tốt lành. Tại sao họ không bị trừng phạt? Họ chưa
bị trừng phạt đó thôi. Họ sẽ lãnh những hậu quả của việc họ
làm. Họ không có gì gọi là tai nạn hay may rủi. Không có gì xảy ra
ngẫu nhiên trong vũ trụ này. Trăng, sao, mặt trời - mọi việc đều
đi theo một định luật, trái đất ta đang sống cũng thế. Nghiệp của ta
cũng thế.
Nghiệp không phân biệt, ta nên nhớ
điều đó. Nó không biết thiên vị ai. Nó là nhân quả. Nó không
để ý đến người hành động. Những gì đã được giữ trong dòng
sông nhân, sẽ ở đó và sẽ tựu quả khi 'chín mùi'.
Ta mang theo một số 'thói quen' từ trong những
kiếp sống trước, nhưng phần lớn những gì xảy ra cho chúng ta đều là
quả của các hành động trong đời sống hiện tại. Ta không cần phải nghĩ:
"Ồ, có lẽ đó là kết quả những việc tôi đã làm hai, ba
kiếp về trước", hay "Nếu tôi làm như thế, kiếp sau
tôi sẽ được an toàn". Suy nghĩ như thế là trốn tránh trách
nhiệm. Nếu ta có trách nhiệm với chính mình thì chắc là ta sẽ nhớ
lại ta đã làm gì đó hay đã bỏ qua không làm gì đó; ngay trong chính cuộc
đời này để đưa đến những kết quả như ngày hôm nay, như ngay
hiện tại này.
Ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương
quan. Bất cứ hành động khéo léo, tốt đẹp nào ta đã làm trong đời sống
hiện tại, cũng cho ta kết quả. Chúng tiềm ẩn trong khả năng, sức
mạnh, sức khoẻ, cá tính của ta. Chúng ta là người tạo ra số phận của mình.
Không ai có thể thực sự làm gì cho ta được. Nếu ta còn tin rằng ai
đó có thể hành động thay ta, thì ta đã không hiểu ý nghĩa của
câu: "Tôi làm chủ nghiệp của tôi". Nghiệp là thứ duy nhất ta
có thể sở hữu. Mọi thứ khác đều là vay mượn. Ta sẽ không mang
theo được gì trừ nghiệp. Mọi thứ khác kẻ hậu sinh ta sẽ thừa hưởng.
Chỉ có nghiệp là của ta.
Khi tái sinh, ta mang theo các nghiệp
duyên, và chính nghiệp duyên tạo ra các hoàn cảnh, cơ hội cho ta. Ta có
sự lựa chọn, nhưng không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta đều
có sự lựa chọn là có nên đến thiền viện không. Khi bạn đã
chọn có mặt ở nơi đó, bạn đã tạo một nghiệp lành. Khi nghe Pháp,
bạn có sự chọn lựa hoặc là nghe mơ mơ màng màng hay nghe với cả tâm
hồn. Khi đã dốc tâm nghe, bạn có lựa chọn là quên liền sau đó hay
cố gắng lưu giữ lại. Và nếu có giữ, bạn sẽ giữ bằng cách luôn thực
hành chúng hay chỉ nhớ vì chúng lý thú. Khi đã chọn sống theo Pháp,
bạn lại có thể hoặc chọn luôn sống như thế này hay chỉ khi có
dịp, có hoàn cảnh thuận tiện.
Có được sự lựa chọn không ngừng nghỉ,
từng giây phút là quyền của chúng ta. Mỗi giây phút, trừ lúc ngủ, là
mỗi phút giây tạo nghiệp. Ðó là lý do tại sao chúng ta cần hoàn
chỉnh nghệ thuật sống của mình từng giây phút một. Nếu ta không canh
chừng từng giây phút tạo nghiệp của mình, thì nó khó tạo ra nhiều
điều có lợi cho chúng ta. Có bao nhiêu giây phút tội lỗi có thể
xảy ra. Vì thế tâm cần phải được canh giữ từng giây từng phút vì đó
lànhững giây phút có sự lựa chọn, những giây phút của nghiệp. Ta
càng có những sự chọn lựa khôn ngoan, khéo léo, ta càng tạo ra nhiều
cơ hội tốt cho mình. Giống như sống trong một ngôi nhà có nhiều cửa
chính, cửa sổ, ta sẽ có bấy nhiêu cánh cửa để chọn lựa khi cần ra
khỏi nhà. Nếu ta cứ tiếp tục có những chọn lựa sai lầm, thì cơ
hội của ta sẽ giảm dần cho đến khi ta tỉnh dậy trong lao tù, nơi cơ hội
đã ở đằng sau cánh cửa của sự lựa chọn. Lúc ấy, ta sẽ chẳng có sự
lựa chọn nào cho đến khi được giải thoát. Ðôi khi ta tự hỏi sao
người khác hình như có nhiều chọn lựa để làm bao công việc
thú vị, trong khi ta chẳng có chọn lựa nào cả, thì đó là vì các
nghiệp ta đã tạo ra.
Ðức Phật nói có những người sanh ra trong
ánh sáng và đi về phía ánh sáng. Có người sanh ra trong ánh sáng,
để đi vào bóng tối. Có người sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về
phía ánh sáng. Và cuối cùng là có những người sanh ra trong bóng tối,
để tiếp tục đi trong bóng tối. Ðiều đó có nghĩa là, dầu ta
được sanh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta vẫn có nhiều cơ hội để
lựa chọn.
Có một phụ nữ tên là Helen Keller khi sinh ra
bị điếc, câm và mù. Vậy mà bà vẫn học hành, viết sách và chỉ
dạy những người khuyết tật khác sống tốt hơn. Rõ ràng là bà đã sanh ra
trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng.
Tất cả chúng ta trong mỗi giây phút
đều có một cơ hội đến với mình. Nếu ta để lỡ mất cơ hội
đó, có thể ta sẽ chẳng bao giờ có một cơ hội thứ hai như thế nữa.
Vì khi ta đánh mất một cơ hội, cũng giống như ta đã khóa bớt một cánh cửa
của căn nhà cuộc đời ta lại. Do đó hoàn toàn chú tâm cho từng giây phút
là một việc làm cần thiết.
Ðức Phật cũng ví nghiệp giống như một
ổ nhện giăng, một ổ nhện đã được bện quá khéo léo đến
nỗi ta không biết đâu là sợi nhện đầu tiên đâu là sợi cuối.
Chúng ta không thể biết nếu mình bị bệnh hôm nay là do đã làm
việc gì đó không tốt mười lăm năm về trước hay vì ta đã không
để ý đến vấn đề ăn uống hôm qua. Nhân quả của ta cũng là
những sợi dây nhện đan chéo nhau đến nỗi ta không biết rõ
ràng tại sao sự việc xảy ra thế này, thế nọ. Tuy nhiên ta có
thể hiểu lý do của những việc quan trọng xảy ra trong đời
ta. Ta có thể dễ dàng nhớ lại những lựa chọn sai lầm vì dễ dãi với
chính mình, và hậu quả của chúng gây ra.
Nghiệp đến từ quá khứ hay sẽ xảy ra
trong tương lai không quan trọng, vì quá khứ giống như một giấc mộng còn
tương lai thì chưa đến. Việc ta nên quan tâm là ngay giờ phút
hiện tại, còn lại tất cả chỉ là một giấc mộng, trong đó ta không
biết mình tỉnh hay mê, không biết việc gì đang xảy ra. Không có
gì vui thích trong một cuộc sống như thế khi thực tại như phủ một lớp
sương mù. Tất cả chúng ta khi chưa giác ngộ thì còn sống trong lớp sương
mù đó, nhưng ta có thể thức tỉnh mình ra khỏi giấc mơ đó. Thực ra có
giây phút nào khác hơn là giây phút hiện tại. Ta không thể sống lại
trong quá khứ hay kinh nghiệm trước tương lai. Chỉ có một việc duy
nhất ta có thể làm là: sống cho giây phút này. Ðể làm được
thế, ta phải hoàn toàn tỉnh thức, nhận biết. Tỉnh thức và nhận
biết về chủ tâm của ta.
Tâm là chủ. Không có gì có thể
hiện hữu nếu không do tâm tạo ra. Tâm là động lực tiềm ẩn của
bao nghiệp ta tạo ra. Ta có ba cửa ngõ: tư duy, ngữ và hành (thân, khẩu,
ý). Ðây là ba cửa đưa ta đến sự tạo ra nghiệp, và ta tiếp
xúc với thế giới bên ngoài qua ba cửa này.
Dầu rằng tư duy là động lực tiềm ẩn,
nó tạo ra nghiệp nhẹ nhất nếu không thể hiện ra bằng lời nói
hay hành động. Thí dụ như ta thù ghét ai, và một tư tưởng lóe qua đầu:
"Nếu hắn đến gần ta nữa, ta sẽ giết hắn", nhưng ta không
nói gì hay làm gì. Dầu đó là một tư tưởng xấu, tạo ra nghiệp ác,
nhưng vì không có hành động cụ thể, nên nghiệp báo cũng nhẹ. Nhưng
nếu ta cứ tiếp tục suy nghĩ như thế nó sẽ tạo dần thói quen dẫn
thốt ra lời nói. Nếu kẻ ta ghét đến gần, ta thực sự nói:
"Nếu anh đến gần tôi, tôi sẽ giết anh", thì nghiệp sẽ
nặng hơn. Truớc mắt là ta sẽ tạo ra kẻ thù, và ta đã củng cố tư tưởng
xấu bằng lời nói. Và nếu cứ tiếp tục nói lời ác đó, nó sẽ dẫn ta
đến hành động. Lúc đó nghiệp báo thật nặng nề và mang lại bao
hậu quả thảm khốc. Ý nghĩ, tư tưởng cần phải được canh giữ và sửa đổi
nếu cần. Nếu một tư tưởng xấu dấy lên, tốt nhất giữ đừng cho nó
biến thành lời nói hay hành động.
Luân Hồi
Luân hồi là một trong những đề tài
được nhiều người bàn cãi sôi nổi, đầy hy vọng, phấn khởi hay phản
đối, bác bỏ. Một trong những ẩn dụ cổ điển về luân hồi là về
cây nến. Một ngọn nến đã được đốt cháy đến tận tim. Một
ngọn nến khác được đốt từ ánh nến sắp tàn đó, rồi lại tàn
đi, rồi một ngọn nến khác lại được thắp sáng lên. Rõ ràng là đã
có ngọn nến sáp khác, nhưng còn ngọn lửa, đó có phải là
ngọn lửa cũ được tiếp tục đốt hay ngọn lửa mới? Nếu ta làm
một cuộc trưng cầu ý kiến, thì chắc rằng phân nửa sẽ bảo là cũ,
phân nử bảo là mới. Sự thật thì không ai trúng cả. Ở đây chỉ là sự
tiếp nối của năng lượng. Sức nóng đã được chuyển tiếp. Sức
nóng là năng lượng, và điều đó cũng giống như luân hồi của chúng ta
-một sự tiếp nối của sức nóng, năng lượng của lòng yêu sự sống.
Nỗi đam mê được trường tồn sẽ không bao giờ giảm cho đến khi giải
thoát.
Một hôm người cùng tử Vacchagotta hỏi Ðức
Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn, sau khi chết kẻ Gíác Ngộ đi về
đâu?". Ðức Phật đáp: "Này Cùng tử, hãy lượm những que củi nhỏ
quanh đây và nhóm lửa lên". Người cùng tử lượm các que củi và đốt
lửa. Ðức Phật lại nói: "Hãy bỏ thêm củi vào!". Người cùng tử làm
theo lời Ðức Phật dạy. Ðức Phật hỏi: "Thế nào rồi?". Vacchagotta
đáp: "Dạ, lửa cháy rất tốt". Ðức Phật lại bảo: "Thôi đừng
bỏ thêm củi vào nữa". Sau đó đám lửa lụi tàn. Ðức Phật hỏi:
"Thế nào rồi?". "Dạ, đám lửa đã tàn, thưa Ngài". Ðức
Phật nói: "Vậy đám lửa đã đi đâu? Ði tới trước? Hay phía sau? Trái?
Phải? Lên hay xuống?". Người Cùng tử trả lời: "Dạ không đi đâu
cả. Nó chỉ tắt". Ðức Phật nói: "Ðúng thế. Ðó cũng là
điều sẽ xảy ra cho kẻ Giác Ngộ sau khi chết".
Không châm thêm củi vào ngọn lửa đam
mê, ham muốn, cầu sinh tử, thì ngọn lủa sẽ tắt. Ðấng Giác Ngộ không tạo
ra nghiệp thì họ sẽ không luân hồi. Với chúng ta - vẫn còn lòng ham
muốn sinh tồn - và đó là hộ chiếu đưa chúng ta đi vào luân hồi sanh
tử. Sức nóng của đam mê là năng lượng chuyển tiếp. Ðôi khi cũng có
những nỗi đam mê trái ngược lại phát sinh. Tôi không muốn sống vì đời
sống quá khổ. "Tôi muốn sống" hay "Tôi không muốn sống",
đều chỉ là các ảo tưởng của ngã chấp. Muốn được sống là nỗi ao
ước mãnh liệt nhất. Mãnh liệt đến nỗi trên giường đợi
chết, cũng có ít người buông tay, chịu thua một cách nhẹ nhàng.
Người ta nói giây phút hấp hối là giây
phút hiếm quí nhất để ta giác ngộ, vì giây phút đó là giây phút ta
từ bỏ sở hữu của thân. Nhưng phần lớn chúng ta không muốn xuôi tay. Dầu cơ
thể ta đã bất lực, ta vẫn chống cự, vùng vẫy. Tuy nhiên, nếu ta tự
ý buông xuôi thì đó có thể là giây phút giác ngộ. Khi cuộc sống
của ta còn thoải mái và mọi thứ trên đời còn như ý: ta có thức ăn
ngon, thân thể khỏe mạnh, người quanh ta thương mến - thì ta không
thấy nhu cầu phải từ bỏ cuộc sống này. Giải thoát lúc đó không phải là
điều tối ưu. Nhưng khi sắp chết, đó có thể là điều chúng ta
phải làm: buông tay theo số mệnh.
Những gì đã được khắc ghi trong tâm qua
các thói quen suy nghĩ, lời nói và hành động tạo ra chất chồng nghiệp.
Những gì luân hồi, tái sinh sẽ là một đồ họa di truyền, một đồ
họa của nghiệp, hoàn toàn không phân biệt. Ðức Phật nói thật là
sai lầm khi nghĩ rằng người tạo nghiệp và người lãnh nghiệp báo là
một; mà nghĩ rằng khác cũng sai. Sự thật là cả hai. Có một sự kế thừa
nhưng không có một thực thể. Không có một cá nhân nào gây nhân và lãnh
quả, nhưng có sự tiếp nối. Ngưòi tái sinh không phải là cùng một con
người vừa mất đi có lẽ dễ hiểu vì thân, tâm, tình cảm đã thay đổi.
Mọi thứ đều đã thay đổi kể từ giây phút nghiệp được tạo
ra cho đến lúc nghiệp báo. Nhưng có một sự tiếp nối giữa người
gieo nhân và người lãnh quả, điều đó cũng rõ. Vì nghiệp bao trùm
cả đời ta. Trong đó đã bao hàm các nghiệp quá khứ, nhưng không có
nghĩa là ta có thể nói: "Ồ, đó chỉ là nghiệp của tôi",
rồi bó tay đầu hàng.
Có những vị thầy dưới thời Ðức Phật đã
dạy rằng tất cả mọi thứ đều do nghiệp tạo ra, do đó ta không có
sự lựa chọn nào. Ðức Phật bác bỏ lối dạy đó. Cũng có các vị dưới
thời Ðức Phật nói không có nghiệp. Bất kể ta làm gì, không có hậu
quả gì cả. Ðức Phật cũng không tán thành lối suy nghĩ này. Có tạo
nghiệp, có nghiệp báo, nhưng chúng ta cũng có quyền lựa chọn
của mình.
Khi giảng về luân hồi, tái sinh, Ðức
Phật đã so sánh tư tưởng cuối cùng của ta trước khi chết với một đàn
gia súc trong chuồng. Nếu không có gia súc nào mạnh nhất, thì con vật
thường là đầu đàn sẽ dẫn cả nhóm ra khỏi chuồng. Nếu thường không có
con đầu đàn, thì con đứng cạnh cửa chuồng sẽ đi ra trước. Nếu không
tất cả mọi con đều tranh nhau để ra trước.
Ðiều đó có nghĩa là ý nghĩ của ta
trước giờ lâm chung sẽ tạo sức đẩy cho luân hồi, tái sinh. Ðiều đó
không có nghĩa là tất cả các nghiệp quá khứ đều đã hoại diệt,
mà chỉ là hoàn cảnh tái sinh của ta bị ảnh hưởng. Nghiệp căn nào mạnh
nhất, nặng nề nhất chắc chắn sẽ hiện lên lúc đó và dẫn ta theo nó.
Nếu không có, thì các suy nghĩ ta thường có sẽ hiện ra trong tâm ta.
Nếu ta thường nghĩ về lòng từ bi, thì điều đó sẽ là những
ý nghĩ cuối cùng của ta. Nếu ta không hay suy nghĩ về điều gì
rõ ràng, thì điều gì xảy ra cận kề cánh cửa tử thần sẽ hiện ra
trong tâm ta. Thính giác là giác quan cuối cùng ra đi. Vì thế muốn giúp
đỡ người đang hấp hối, ta nên nói với họ về những hành động tốt
họ đã làm. Những điều tốt đẹp đó có thể dẫn dắt họ
đến một sự tái sinh tốt đẹp hơn. Không có những điều như thế,
thì tất cả tư tưởng đều hiện lên lộn xộn, và bất cứ điều gì
cũng có thể xảy ra. May nhờ, rủi chịu.
Tất cả chúng ta đều phải trải qua giờ
phút hấp hối, thì tại sao ta không sửa soạn cho chúng. Ta cần phải chuẩn bị
cho giây phút ấy. Sửa soạn cho sự ra đi của mình bằng cách tập luyện
để có những thói quen suy nghĩ một cách khôn ngoan. Thì ta sẽ được tái
sinh một cách khôn ngoan. Khi ta giữ năm giới luật, không có thói quen phạm
giới, ta sẽ được sanh trở lại làm người. Phần đông chúng ta có những giây
phút lơ là, không giữ năm giới, nhưng tạo ra thói quen phạm giới sẽ làm cho
việc tái sinh trở lại kiếp người rất khó khăn.
Có chuyện kể rằng một hôm Ðức Phật
đi với các đệ tử của Ngài dọc bờ biển, và Ngài nói với họ:
"Này các đệ tử, nếu có rùa mù bơi qua các biển của vũ trụ
và một khúc gỗ trôi. Chú rùa mù chỉ trồi lên thở không khí mỗi một
trăm năm, các đệ tử có nghĩ là chú rùa có thể đụng đầu vào khúc
gỗ không?". Các đệ tử trả lời: "Không thể nào, thưa
Ngài. Chúng không thể nào ở cùng một chỗ trong một khoảng thời gian,
nếu như chúng cùng lội quanh các biển vũ trụ". Ðức Phật nói:
"Không. Không phải là không thể nào. Mà là rất khó có thể
được như thế". Rồi Ðức Phật tiếp: "Cũng thế, cơ hội
để được tái sinh làm người cũng khó khăn như thế". Ðiều
đó đáng cho chúng ta suy nghĩ xem cần phải làm gì khi ta đã may mắn được
sinh trở lại làm người. Nếu không, ta khó có thể trở lại làm người.
Chúng ta không chỉ được tái sinh làm
người - là một điều quá may mắn - nhưng chúng ta lại có đầy đủ tay
chân, các giác quan. Ta có đủ thức ăn để sống, sức khỏe đủ tốt
để tọa thiền. Chúng ta cũng rất may mắn được biết Pháp. Có
thể nói là chúng ta được ở trên đỉnh cao so với nhiều người khác,
nếu không coi đó là một đặc quyền thì ta khó có thể hiểu
thế nào là làm chủ nghiệp của mình. Ðó không chỉ là một cơ hội,
một thuận lợi cho chúng ta mà còn là một bổn phận nữa. Chúng ta phải sử
dụng kiếp tái sinh này sao cho hữu ích.
-oOo-
Cũng cần phải nói thêm rằng: chúng
ta đang tái sinh từng giây phút. Rất ít người có đủ chánh
niệm hay chủ tâm để cảm nhận điều đó. Nhưng ta có thể nhận
ra ta được tái sinh mỗi buổi sáng. Ðiều đó không khó khăn gì. Ngày
đã qua, đêm tới. Thân tâm ta "chết" mệt, ta ngủ thiếp
đi. Vào buổi sáng ta có cảm giác hồi sinh khi thức giấc. Ta trở nên nhẹ
nhàng trở lại. Thân tâm lại tươi mát, trẻ trung, ta lại có một ngày trước
mặt để sử dụng sao cho tốt nhất, giống như nó là một cuộc đời mới.
Hãy tập nhìn mỗi buổi sáng như một sự hồi sinh, thì ta có thể
hiểu chỉ có một ngày này hiện hữu. Ta cũng có thể tạo ra thói
quen sử dụng mỗi ngày tối đa cho sự tăng trưởng - phát triển về
tinh thần, tâm linh, tình cảm. Không có nghĩa là lăng xăng làm thật nhiều
việc vào.
Sự tái sinh được nhìn dưới khía cạnh đó
thì ích lợi hơn là nghĩ đến kiếp sau. Việc gì sẽ xảy ra cho
chúng ta ở kiếp sau, hoàn toàn tùy thuộc vào những gì ta đang làm bây
giờ, vì thế chỉ có "hiện tại" mới quan trọng.
"Hiện tại" là nhân, kiếp sau là quả. Nó cũng quan trọng
hơn là ngồi suy nghĩ xem mình đã làm gì trong kiếp trước. Ðiều đó
đã qua rồi. Việc ta không thể nhớ những kiếp sống trước cũng là
một điều tốt. Ta đã đau khổ đủ trong cuộc sống này, làm sống lại làm
gì những nỗi đau cũ trong tiền kiếp. Một tâm hồn vẫn còn đau khổ
với những bất như ý trong cuộc đời này, làm sao có đủ sức chịu đựng
những nỗi đau khổ gấp đôi.
Sự hồi sinh mỗi buổi sáng cũng đủ
để mang đến cho ta cảm giác thúc bách, một yếu tố không thể
thiếu trong cuộc sống tâm linh. Tính cấp bách phát sinh khi ta nhận biết
được sự đau khổ thực sự. Tính cấp bách bắt ta phải bắt tay ngay vào cuộc,
và không thể chờ đợi nữa.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |