|
(6)
Năm Chướng Ngại
Phần lớn chúng ta
đều nghe danh hiệu Ma Vương, đều biết nó bằng cách này hay
cách khác. Nó chính là sự cám dỗ. Nó cám dỗ chúng ta vào các con
đường tội lỗi. Ma Vương đến khi Ðức Phật ngồi dưới cây bồ
đề tĩnh tâm tìm sự giải thoát. Rõ ràng Ma Vương không phải là hình
ảnh của lũ quỷ với lửa đỏ tuôn tràn ra hai lỗ tai, lôi kéo ta xuống
địa ngục. Ma Vương là sự cám dỗ đang ngự trong lòng ta. Nếu Ma
Vương có thể đến quấy rầy Ðức Phật trước khi Ngài nhập Niết
bàn - dấy khởi cám dỗ trong lòng Ngài - thì kể gì đến chúng ta?
Ðiều khác biệt là Phật biết đó
là Ma Vương - Sự cám dỗ. Ngài biết, trong khi chúng ta thì không.
Chúng ta lý giải và biện hộ cho nó. Tôi đã nhìn thấy những dòng chữ
dán trên một chiếc xe hơi như sau: "Cái gì đem lại cho ta sự thoải
mái cái đó đúng". Nhưng có bao nhiêu điều, bao nhiêu thứ đem lại
khoái lạc cho ta mà hoàn toàn sai, có người coi việc sát hại người khác
là niềm vui.
Sự cám dỗ trong lòng ta là ô trược của
chính chúng ta, chúng ẩn nấp ở đó để sẵn sàng tạo ra thêm tội lỗi.
Vì chúng ta không thích nhận tâm thân ta ô uế cần được tẩy sạch, ta
tìm đủ mọi lý lẽ để biện hộ cho các hành động của mình:
"Tôi cũng có quyền được hưởng thụ chứ", "Ðó là điều
tôi ước muốn, nên hẳn là tôi rất cần".
Sự cám dỗ có thể nói là luôn có
mặt trong ta, nhưng vì không nhận ra nó, ta luôn ở trong tình thế bối rối,
khó xử. Ta luôn bị nó lôi kéo vào thứ này, thứ kia. Thí dụ ngay bây giờ: ta
biết tốt hơn hết là ngồi đây nghe Pháp, nhưng cám dỗ bảo: giấc
ngủ cũng tốt vậy? Nếu không có người chung quanh chắc là ta đã trèo lên
giường ngủ rồi.
Ma Vương luôn kề cạnh bên ta. Nó kêu
gọi ta làm những gì mang lại sự thoải mái, khoái lạc, mà không nhận ra
rằng tất cả các khoái lạc do ngũ dục mang đến chỉ tạm thời, không thực
có.
Ðức Phật bảo rằng có 5 trạng thái tình
cảm là kẻ thù của mọi người: năm chứơng ngại hay năm triền cái.
Tất cả chúng ta đều có, tất cả chúng ta đều bị chúng cám dỗ.
Hai trạng thái đầu là tồi tệ nhất, đem đến những hậu quả trầm
trọng nhất.
1. Ái dục
Kẻ thù đầu tiên là ái dục. Là kẻ thù
khó nhận diện nhất vì nó được chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Tất cả
các mục quảng cáo, trên truyền hình, trong các cửa hiệu, các cửa kính
đều nhắm vào lòng khơi dậy ham muốn trong ta. Thật vậy con người càng
thỏa mãn được các ham muốn có xe to, nhà mới, quần áo đẹp, họ càng
được xem là thành công trong xã hội. Vì việc thỏa mãn các ham muốn đem
lại những sung sướng nhất thời, nó làm ta lầm tưởng nó là điều tốt.
"Ðiều gì đem lại cho ta sự thoải mái, điều đó hẳn là
đúng". Nó có hào quang giả tạo của nó. Không ai trách được người
luôn cố gắng để thoả mãn ham muốn của họ. Chính chúng ta còn chưa
biết mình đang làm gì. Thật kỳ lạ khi con người hoàn toàn không biết
mình đang làm gì.
Với kẻ thù thứ hai - sân hận - thì trái
ngược. Nó luôn bị trách móc. Nó không mang lại lạc thú gì. Mọi người
đều chối bỏ nó. Tuy rằng đôi khi chúng ta cũng tìm cách biện hộ cho
nó. "Tôi tức giận vì cô đó, anh kia, họ... làm những chuyện
đáng giận quá". Nhưng Sân không được xã hội chấp nhận, nó không đem
sự thoải mái, do đó nó không tạo ra ảo giác nó là điều tốt. Sân hận,
ghét bỏ, oán giận, sợ hãi, bứt rứt, thảy là phiền não, và người có
tánh hay giận dữ thường bị kẻ khác phiền trách.
Lòng ái dục khi được thỏa mãn ít
nhiều gì cũng mang đến cho ta sung sướng khoái lạc. Dù vậy nó cũng
là kẻ thù đáng ghê sợ như sân hận. Chúng chỉ là hai mặt của một đồng
tiền. có thứ này thì phải có thứ kia đi kèm theo. Dục vọng dấy khởi
những ham muốn thường khó thoả mãn được. Chúng ta không thể có tất cả
những gì ta muốn. Càng có nhiều ham muốn, càng dễ bị thất vọng. Từ
đó người ta trở nên sân hận vì không thể có được điều mình ước
muốn. Không ai lúc nào cũng có thể thoả mãn hết tất cả các ước
muốn của mình. Ðiều đó thật là không tưởng.
Ái dục và sân là hai kẻ thù gây nhiều
khốn khó cho chúng ta trong đời sống hàng ngày cũng như gây nhiều trở
ngãi cho việc tu Thiền của ta. Nếu có ai đó tự hỏi - mà tôi chắc
là có rất nhiều - tại sao họ thường gặp trở ngại khi tu thiền,
nhất là với người mới tu tập, thì đây là những lý do.
Dục vọng là kẻ nói "Tôi thích ngồi
thoải mái hơn". Dục vọng là kẻ nói: "Tôi muốn đi ngủ". Dục
vọng là kẻ nói: "Tôi muốn chuyện vãn. Tôi thích đi dạo một
chút. Nóng quá. Tôi phải đi tắm. Ðói quá. Tôi cần ăn môt thứ gì đó.
Khát quá. Tôi phải uống gì đó. Tôi khó chịu quá, làm sao ngồi
thiền". Ðó là tiếng nói của dục vọng, lúc nào cũng đòi hỏi
thứ này thứ nọ.
Dục vọng sẽ ngưng đòi hỏi khi kinh
nghiệm thiền định sẽ mang lại cho ta nhiều thích thú hơn sự thỏa
mãn các dục vọng. Khi Thiền định mang đến hạnh phúc và sự tĩnh
lặng. Lúc đó các dục vọng sẽ biến mất khi ta ngồi thiền, không
phải là mãi mãi, mà chỉ là trong khoảng thời gian ngắn đó.
Vì khi sinh ra chúng ta đã có các giác quan,
nên ta muốn nuôi dưỡng chúng. Giống như ta muốn nuôi dưỡng thân. Nếu
không, ta sẽ bệnh.
Trước khi các nhà phi hành đầu tiên được
gởi lên phi thuyền, một trong những phương pháp được dùng để huấn
luyện họ ở Mỹ là một căn phòng nơi đó không có sức hút nên không
có xúc giác. Phòng cách âm và không có gì để nhìn. Mọi thứ
đều có màu xám. Những món đồ ăn vô vị được chuyển tới bằng
những ống dẫn. Họ được dặn là khi nào không chịu đựng nổi nữa, họ
có thể rung chuông ra hiệu. Hình như người chịu đựng lâu nhất là
tám tiếng.
Thực phẩm sẽ ngon hơn nếu có sự kích
thích của các giác quan, ta đã quen như thế. Sự quen thuộc bám víu này
tạo cho ta cái ảo giác rằng đây là điều tối hệ trọng, đây là
hướng ta phải theo - nhìn cảnh đẹp, nghe những âm thanh dễ chịu, nếm mùi
vị ngon, ngửi mùi thơm, những xúc chạm mang đến sự dễ chịu và nghĩ
đến những điều làm ta thích thú.
Một cách sống như thế - và tất cả
những người chưa được nghe pháp, không tu tập thiền đều vướng phải
- không thể mang đến thành công. Ðó là châu báu của kẻ dại khờ. Nó
nhấp nháy sáng nhưng nó chẳng có giá trị gì vì nó quá ngắn ngủi.
Hãy tưởng tượng bạn được ăn một buổi
thật ngon, bạn tấm tắc: "Ngon, thật là ngon". Một ngừơi bạn nói:
"Nếu ngon vậy, xin mời bạn cứ tiếp tục ăn. Bạn có thể ở đây
ăn đến sáng hôm sau". Lúc đó cái ngon thành khổ thân khổ tâm. Một
bữa ăn dù ngon mấy chỉ có thể thưởng thức trong 20 hay 25 phút là cùng.
Cũng vậy, vào một ngày nóng nực bạn muốn được tắm mát. Khi được tắm bạn
thích thú nói: "Tuyệt quá. Tôi thấy mát mẻ dễ chịu làm sao".
Lúc đó người bạn lại nói: "Nếu thế, sao bạn không ở trong đó
thêm 5 hay 6 tiếng nữa?" Nếu làm thế thì hành xác còn gì.
Không ai muốn làm thế. Mười phút, mười lăm phút tắm là cùng.
Ðối với tất cả mọi ham muốn khác cũng
thế. Sự thích thú sẽ biến mất khi nó được kéo dài ra. Nó biến
thành cực hình. Vậy mà tất cả chúng sanh đều chạy đuổi theo các lạc
thú ngắn ngủi đó. Người ta tìm lạc thú trong rượu, nhưng khi say rượu làm
sao còn có được cảm giác vui thú nào. Tất cả những hạnh phúc con người
tìm kiếm qua thỏa mãn các giác quan của mình đều dần đến sự
thất bại. Các cảm giác chỉ là sự biểu lộ cụ thể của các giác quan
có cảm giác như tai, mắt, mũi, lưỡi, thân. không có gì đặc biệt về
chúng, không có gì tội lỗi hay không tội lỗi. Các cảm giác không tạo
ra nghiệp tốt hay xấu. Nghiệp xấu được tạo ra bên trong ta khi tâm
muốn duy trì hoặc tìm lại các cảm giác khoái lạc.
Có người tìm các cảm giác khoái lạc qua
các hành động như uống rượu, hành hung người khác, hút sách, tình dục.
Ðây là những khoái cảm thấp hèn tội lỗi. Kẻ khác lại tìm cảm giác
thích thú trong việc ngắm hoa, nhìn mặt trời lặn, nghe âm nhạc. Ðây cũng
là lạc thọ nhưng cao thượng hơn.
Khổ đau dấy khởi khi ta muốn chiếm hữu,
giữ chặt, hưởng thụ các cảm giác khoái lạc đó mãi. Khi nhìn thấy một bông
hoa đẹp, ta thường muốn ngắt hái cho riêng mình. Sao không để chúng đó
cho mọi người ngắm nhìn? Không. Tôi muốn chiếm hữu tất cả những gì
đẹp đẽ.
Khi con người biết sống thanh cao hơn,
các cách hưởng thụ cũng sẽ cao đẹp hơn. Một cảm giác hưởng thụ có
thể rất bình thường, nhưng nó trở nên nguy hiểm khi đi đôi với lòng
ham muốn. Sự ham muốn - lòng khao khát - mang đến phiền não vì lòng ham
muốn không bao giờ có thể được thỏa mãn. Chúng ta luôn cảm thấy
thiếu thốn. Lúc nào cũng có cái đẹp hơn để nhìn, nhiều
điều hay hơn để nghe, để xúc chạm. Lúc nào cũng có một cái gì
khác để ta chạy đuổi theo. điều này khiến ta trở nên chộn rộn,
bứt rứt vì ta chẳng bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn.
Khi trong lòng ta không được an bình, ta đổ
lỗi cho hoàn cảnh quanh ta. Ta nghĩ phải có một cái gì đó tuyệt
diệu hơn cần được khám phá. Vì thế ta đi khắp thế giới để
tìm kiếm. Một việc chẳng khó khăn gì hiện nay. Chỉ cần cái vé
máy bay. Người ta đi đó đi đây để tìm những xúc cảm mới, cảnh vật
mới, kinh nghiệm mới. Thu thập kinh nghiệm đã trở nên một phong trào.
nhưng rồi ta cũng không vừa lòng, vì kinh ngiệm nhanh chóng qua đi. Không
có kinh nghiệm gì còn ở lại. Tất cả đã qua. Tất cả đã thành ký
ức, không có gì có thể được lưu giữ. Sưu tầm tem thư có lẽ còn ích
lợi hơn là lưu trữ kinh nghiệm.
Ái Dục đã được Ðức Phật ví như mắc
nợ. Nếu bạn mua nhà, bạn vay tiền ngân hàng, mỗi tháng bạn phải
đến đó trả tiền vay và tiền lãi. Nhưng với nợ nhà, dần dần ta
còn trả hết. Chứ với dục vọng không có chuyện sẽ dứt nợ. Dục
vọng dấy lên tiếp, tiếp nhau. Chẳng bao giờ dứt. Ta luôn đói. Luôn
khát. Ta luôn muốn được nhìn, nghe, nếm, xúc chạm thêm lên nữa.
Ðức Phật cũng ví nó với một người lữ
hành không phương hướng. Anh ta đói khát. Nhìn thấy trước mặt là một ngôi
làng, mừng rỡ, anh thầm nghĩ "Ồ, kià có ngôi làng để ta xin đồ
ăn thức uống". Nhưng khi đến nơi đó chỉ là một ngôi làng hoang
vắng. Anh lại tiếp tục kiếm tìm. Lại một ngôi làng bỏ phế nữa.
Lòng hy vọng và ước đoán về
việc thỏa mãn các dục vọng làm dục vọng thêm hấp dẫn. Nhưng khi
đã thỏa mãn tất cả đã qua đi, ham muốn khác lại dấy khởi lên.
Ðức Phật cũng so sánh dục vọng như một
cái hồ với nhiều màu sắc được trộn vào đó. Lòng khao khát dục
vọng hiện ra dưới nhiều dạng, bao trùm cả tâm trí sáng suốt của
ta. Ðó là nỗi khổ của ta. Ta bị cuốn hút bởi lòng ham muốn, và không
còn thấy gì khác có thể quan trọng hơn. Ta chỉ thấy có sự ham muốn
và cơ hội để thỏa mãn nó. Ta tự đánh mất mình.
Ðức Phật đã cho ta rất nhiều ẩn dụ
về lòng tham dục. Nhưng ẩn dụ quan trọng nhất, trước tiên là phải
hiểu rằng dục vọng là kẻ thù có thể đánh qụy tâm ta, tạo ra
nỗi sợ hãi không đạt được điều mình mong muốn, lòng ganh ghét đối
với người được điều ta mong muốn - ghen ghét - ganh t - và những trạng
thái tâm hồn bất ổn, đau khổ mà ta không thể có nếu như không có
lòng muốn cái người khác có.
Ta phải hiểu đó là nguồn gốc của những
phiền não của con người: mong muốn được có cảm giác dễ chịu thích thú,
mong muốn được thỏa mãn, nhưng thường ta không đạt được chúng, hay
nếu có được cũng chẳng bao giờ có thể giữ chúng mãi. Buông bỏ ham
muốn có nghĩa là buông bỏ thất vọng. Nhưng điều đó không thể
thực hiện chóng vánh bằng lời nói, hay suy nghĩ suông. Ðó là một quá
trình huân tập lâu dài. Bước đầu tiên là phải biết ngồi trong tư
thế không được thoải mái. Không được nghiêng ngửa, đổi thế ngồi
để cho bớt khó chịu. Không thể trốn tránh sự đau khổ. Không thể
thoát khỏi đau khổ bằng cách ấy. Chỉ có một cách duy nhất là buông bỏ ham
muốn. Phải hoàn toàn dứt bỏ chúng.
Sự khó chịu trong tư thế ngồi thiền
là cơ hội để ta kiểm soát các dục vọng của mình. Nếu ta
không tìm hiểu chúng từ tư thế này, ta sẽ khó thể biết về
chúng cách nào khác. Không thể học ở trường học, giảng đường.
Cũng không ai dạy ta về chúng ở gia đình. Ở đó, ai cũng đang tìm
mọi cách để được sung sướng, thoải mái. Nếu bạn có thể
ngồi thoải mái, đó là điều tốt. Nhưng nếu bạn ngồi một cách khổ
sở, điều đó cũng không xấu. tựu trung là bạn đang có cơ hội để tu
tập ngay ở nơi chân, hay lưng hay bất cứ nơi nào.
Ước muốn được thoải mái và xoay trở
để đạt được điều này chính là việc mà mọi người đang
làm ở khắp mọi nơi. Và họ phải mất khá nhiều thời gian tiền
bạc cho điều đó. Ðó là lý do tại sao người làm tăng ca, đi du
lịch, tìm kiếm các thú giải trí, cũng là để xoay trở ra khỏi sự đau
khổ, phiền não. Nhưng đó là điều vô ích, tại sao ta đi tìm những
cái vô ích? Vì một khi ta vừa thoát ra khỏi các phiền não, bực bội này,
thì lập tức phiền não, bực bội khác lại dấy lên. Khi một thú tiêu
khiển vừa dứt, sự chán nản buồn bã lại đến. Chân mặt vừa dễ chịu
vì bạn vừa chuyển thế ngồi, thì chân trái lại đau nhức. Thật là dại
khờ để chạy theo những điều vô ích đó. Tốt hơn là nên làm theo
Pháp. Pháp đã được chứng nghiệm là sự thật. Ðức Phật đã chứng
nghiệm điều đó và tất cả những người giác ngộ sau Ngài cũng đã
chứng nghiệm điều đó.
Buổi chiều, khi bao tử bạn kêu đói, tâm
liền khởi nghĩ: "Không biết có nên bỏ ăn buổi tối không?"
Hoặc tâm đã lăng xăng chạy nghĩ đến nhà bếp với những món bạn có
thể làm đó là dục vọng. Nếu tâm cố gắng chống cự lại cám
dỗ thì bạn đã bị dục vọng lôi cuốn. Nhưng nếu bạn có thể
nhìn vào sự đòi hỏi vừa dấy lên, mỉm cười và nói: "Ðấy đúng là
cám dỗ của Ma Vương" thì bạn đã thấy được Pháp. Không cần phải
nghe nhiều, đọc nhiều về Ma Vương. Chỉ cần nhận biết nó
khi nó xuất hiện vì nó không có nơi nào khác để hoạt động trừ ngay
trong chính mỗi chúng ta. Nó rất sung sướng được ngự trị trong ấy vì
chúng ta luôn tòng phục theo nó.
Một trong những điều mà Ðức Phật
khuyên răn nhằm chế ngự sự tham dục là tiết độ trong ăn uống. Và
đó là lý do tại sao có giới luật không ăn sau 12 giờ trưa. Tiết độ
ăn uống không có nghĩa là không ăn uống gì. Mà chỉ ăn đủ để giữ sức
khoẻ cho cơ thể. Nhưng sự ham muốn này rất dễ được thỏa mãn, vì
thế nó liên tục dấy khởi. Ðối với một số người có khi bốn, năm hay
sáu lần ăn trong một ngày. Nếu chúng ta có khả năng chống lại được một
ham muốn, chúng ta sẽ có khả năng để chống lại những ham muốn khác. Vì
thế để bắt đầu, ta nên chọn sự ham muốn mà ta dễ dàng chịu thua
và nó luôn dấy khởi, đó là tiết chế sự ăn uống.
Một thứ thuốc giải độc khác để chữa
trị dục vọng mà Ðức Phật khuyên ta nên theo là nhìn sự vật từng phần
hơn là tổng thể. Có lẽ ta chẳng lạ gì với chuyện nhìn cơ thể
với ba mươi hai phần:
-- Trong thân thể này từ gót chân trở
lên, từ đỉnh đầu trở xuống đều được bao bọc bởi dãy da hôi thối,
trong cơ thể này có tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da,
thịt, gân, xương, tuỷ xương, thận, tim, gan, màng mạc, tỳ tạng, phổi,
ruột già, ruột non, cổ họng, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước
mắt, chất nhờn trên da, nước miếng, đờm dãi, dung dịch ở các khớp,
nước tiểu và óc.
Nếu bạn có lòng ưa thích một người
nào đó, thay vì nhìn vẻ đẹp bề ngoài của họ, hãy nhớ đấy chỉ là
lớp "giấy gói quà" màu sắc bên ngoài, bên trong con người đó có
bao nhiêu phần nhỏ khác. Ba mươi hai phần của cơ thể với "tóc trên
đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt..." Vì thế, thay vì
nhìn vẻ ngoài đẹp đẽ, chỉ nên nhìn răng, nhìn tóc... là thấy được sự
thật.
Có câu chuyện về một tăng sĩ, có
lẽ là một vị A la hán cùng thời với Ðức Phật. Có một đôi vợ chồng cãi
nhau rất dữ dội, và sau đó người vợ không còn muốn ở với chồng mình nữa.
Cô mặc tất cả những quần áo đẹp nhất, đeo các vàng bạc, nữ trang quý
giá nhất khi bỏ trốn đi vì cô muốn đem theo tất cả của cải. Người chồng
rượt đuổi theo nhưng không bắt kịp, có lẽ vì người vợ đã bỏ đi sớm hơn
anh ta tưởng. Khi người đàn ông chạy trên đường tìm kiếm vợ, anh ta
gặp vị sư. Anh liền đến để hỏi nhà sư có gặp một người đàn
bà tóc đen, đẹp đẽ mặc một chiếc sa ri đỏ, với rất nhiều trang sức
quý giá chạy trên đường không? Nhà sư trả lời: "Tôi không trông
thấy người đàn bà nào, chỉ thấy một hàm răng chạy qua thôi ".
Có lẽ nhìn được như nhà sư hơi khó cho
chúng ta, nhưng câu chuyện đã nói lên được điều Ðức Phật muốn
răn dạy chúng ta: Ðừng nhìn toàn bộ, thì có ai sẽ yêu đương nổi một hàm
răng. Ai đam mê nổi một bao tử? Thí dụ như khi ta khởi lòng ham muốn một
chiếc xe đắt tiền, nếu ta chỉ nhìn dáng vẻ bề ngoài của nó,
màu sắc của nó, ta dễ bị sa ngã phải mua chiếc xe ấy, để rồi phải
trả nợ trong vòng hai chục năm. Nhưng nếu ta nhận ra rằng chiếc xe ấy
cũng chỉ được tạo ra bởi tay lái, bàn đạp ga, bộ máy, ống lọc không
khí, với bao nhiêu là bù lon con tán trong đó, thì chắc ta không đến
nỗi mê đắm chiếc xe đó vì những bộ phận rời rạc đó, cũng như
không thể mê đắm một người nào đó vì từng bộ phận của họ.
Ðối với người dễ bám theo các vẻ đẹp
bề ngoài, có lẽ cần thiền quán về các bộ phận của chính thân
mình. Chúng ta cũng được làm bởi ba mươi hai bộ phận đó. Không ai khác ai.
Nếu bỏ lớp da bọc ngoài tất cả mọi người đều giống nhau.
Liều thuốc giải độc cho cả năm chướng
ngại - năm kẻ thù của ta - là có bạn tốt và có giao tiếp tốt. Có được
những người bạn mà ta có thể trao đổi về phương cách để áp
dụng Pháp Phật vào đời sống thường ngày, chứ không phải loại bạn để
nói về thời tiết, chính trị, đàm tiếu về người khác.
Thiện tri thức rất quan trọng trong cuộc đời ta. Khi A nan, người em bà
con của Ðức Phật và là thị giả của Ngài, nói: "Bạch Thế Tôn! Có
được một người bạn tốt là có được nửa cuộc đời thánh thiện".
Phật bảo: "Không phải thế A nan. Một người bạn tốt là cả cuộc đời
thánh thiện". Không có gì có thể thay thế một người bạn tinh
thần. Ðó là người quan trọng nhất trong đời bạn - người nhắc nhở ta đi
trên đường chánh đạo.
Vấn đề là phải nhập tâm. Khi ta nhớ
những điều này, ta có thể làm được, nhưng nhiều lúc ta quên.
Những cuộc đàm đạo hữu ích với thiện tri thức giúp chúng ta luôn soi
lại lòng mình, và nhận ra rằng phần lớn vấn đề của chúng ta xuất phát
từ lòng ham muốn, từ dục vọng của chúng ta.
Ta không muốn ăn các chất độc hại. Ta
không muốn cơ thể ta chứa đầy những thứ độc hại. Cũng thế, ta không
nên bỏ đầy tâm trí ta với các chuyện nhảm nhí, độc hại. Tâm ta chỉ
nên chứa những chuyện về Pháp, chuyện tốt, những câu chuyện
làm ta phấn khởi, giúp đỡ ta, xoa dịu ta, làm ta an lạc, chữa lành cho ta, và
quan trọng nhất là giúp ta thấy được con đường để thoát ra khỏi
những vấn đề làm khổ não tất cả chúng sanh.
Nếu chúng ta may mắn có được những
người thiện tri thức ở quanh ta, thì cách bày tỏ lòng biết ơn tốt
nhất là trở thành một thiện tri thức đối với người khác. Là bạn tốt
giống như phản ứng dây chuyền. Bạn không nên chỉ đi tìm bạn tốt. Chính
bạn cũng nên là người bạn tốt cho chính mình và cho người khác.
2. Sân hận
Chúng ta luôn phải đối đầu với bao kẻ
thù. Vì chúng trụ ở bên trong ta, ta khó nhận ra chúng. Do đó trước hết
ta phải ngó lơ chúng để chú tâm vào việc thanh tịnh hoá tâm, dần
dần chúng không còn là một phần của ta nữa.
Con đường tâm linh, con đường thanh tịnh
hoá, xả ly, tự do là con đường dẫn ta đến sự thay đổi bản tánh của
mình. Nếu ta không bắt đầu bằng bước đó, ta sẽ không thể bước vào
thế giới thanh tịnh. Mọi thứ khác đều là ngoại giới, chỉ có bản
tánh là nội tâm. Mặc dầu ngoại giới có thể đẹp đẽ, có thể mang cho
ta cảm giác thoải mái, nhưng chúng không thể thay đổi nội tâm ta. Và chỉ
có sự thay đổi đó mới phân biệt được một người cao cả với người
bình thường. Người bình thường hành động theo sự sai bảo của bản năng.
Người cao cả chuyển hoá chúng.
Chướng ngại thứ hai cũng như các tội
lỗi khác gây bao điều tai hại cho ta đó là sân hận, nóng giận. Mức
độ nóng giận có thể nặng, nhẹ. Khi bùng nổ ra ngoài khi gặm nhấm bên
trong. Khi nó được bộc lộ ra lời, thường làm người khác cũng sinh giận dữ.
Từ đó gây ra cãi vã trong gia đình, xích mích ở xóm giềng. Nảy sinh ra
oán thù giữa các cộng đồng, chiến tranh giữa các quốc gia hay trên cả
thế giới.
Tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ
trong tâm ta, nên ta phải nhận ra rằng thế giới không phải là tha nhân. Mà
mỗi chúng ta là một thế giới, do đó trừ khi ta tìm thấy an bình trong
chính tâm ta, ta sẽ không thể tìm thấy điều đó ở đâu khác. Không
cần kể là người khác đang tức giận, bực bội, sai quấy, hay ngã mạn.
Không có gì đáng kể cả.
Ðiều quan trọng chính là thái độ
của chúng ta trong hoàn cảnh đó. Không thể có sự an ổn tuyệt đối
trên thế giới này. Dưới thời Ðức Phật đã không có. Dưới thời các vĩ
nhân, các vị thánh đã không có. Trái lại lịch sử đã bày cho ta thấy bao
nhiêu cảnh tranh giành thế lực chính trị, chiến tranh, anh em xâu xé
nhau.
Sự bình an duy nhất ta có thể có được
là sự bình an tự trong trái tim ta. Sự an lạc Ðức Phật đã tìm thấy cho
chính mình, lại âm vang đến cả thế giới. Ngài là người đã tìm
thấy an bình với chính mình, với thế giới và sự an bình đó vẫn tồn tại
cho đến ngày nay, hơn hai mươi lăm ngàn năm sau trong Pháp của Ngài. Năm
trăm triệu người trên thế giới đã thệ nguyện làm đệ tử
của Ngài.
Rõ ràng là nghiệp của chúng ta không
giống nhau. Nhưng nếu ta có thể truyền cho người thân trong gia
đình, sự an bình, tự tại trong tâm ta, cũng đã quá tốt. Ðó cũng là một
thành tích có phải không? Khi tất cả mọi người trong gia đình đã được
truyền cho sự bình an, thì an bình cũng có thể lan truyền đến
hàng xóm, láng giềng. Ðược thế càng tốt hơn. Ta không cần là Phật
mới có thể ảnh hưởng sâu xa đến người khác.
Cái ảnh hưởng sâu xa đó chỉ có thể
nảy sinh khi trong tâm ta chỉ có sự bình an, tâm không còn dấy khởi sân hận.
Chỉ có các vị A-la-hán mới đoạn diệt được hết các niệm sanh ra
sân hận. Dầu vậy nếu ta có thể kềm chế sân hận vẫn hơn lúc
nào cũng giận dữ, cãi lẩy, hờn oán, thương tổn, trách móc người khác.
Sân hận dấy khởi cho ta cảm thấy bị thương
tổn, đau đớn, và phản ứng của con người lạ lùng thay, là cũng gây đau
đớn lại cho người khác. Ta sẽ không thể sửa đổi, nếu như không
nhận biết điều đó. Nhưng không phải ai cũng gây đau đớn cho người
khác, có người tự gây thương tích cho mình. Họ nuốt giận, chôn dấu nó,
nhưng nó vẫn sôi sục ở bên trong. Và rồi tất cả sự giận dữ đó sẽ phát
lộ ra bằng các chứng bệnh, thiếu nghị lực, trầm uất, tiêu cực,
thiếu hỷ lạc và bình an.
Rất ít người chúng ta gặp trên đường phố
có nét mặt vui vẻ, hạnh phúc. Bạn có nhận thấy không? Không chỉ ở đây mà
ở khắp nơi: Sydney, London, Amsterdam hay Paris. Bất kể ở đâu, con người
đều giống nhau.
Những đau đớn ta đã kinh nghiệm trong
cuộc đời, mà ta luôn phải chống trả, tạo cho ta cái ý nghĩ là nếu ta
trả đũa lại, thì sự đau đớn, tổn thất của ta sẽ mất đi. Sự thật thì
trái lại, điều đó chỉ làm cho sự đau đớn tăng lên gấp bội.
Ðức Phật đã so sánh sân hận như bịnh sôi
mật. Khi bạn giận dữ - và tôi đoán chắc rằng không ai thoát khỏi - bạn
hiểu cảm giác đó thế nào? Cảm giác khó chịu - vậy mà ta cứ mãi sân
hận. Nếu đó không là kỳ quái thì là cái gì? Giống như người tự đánh
mình, mỗi lần đánh đều thấy đau, nhưng vẫn cứ lập đi, lập lại.
Ðức Phật cũng ví giận dữ cũng như cầm
than đỏ bằng tay không, chọi vào người ta đang giận. Ai sẽ phỏng trước?
Dĩ nhiên là người giận.
Ngài cũng ví sân hận như cái hồ trong đó
nước sôi sục. Nếu nước sôi ta không thể có một mặt hồ tĩnh lặng
để soi mình vào đó. Khi ta giận dữ ta không còn biết tất cả vì mục
đích gì, sự tỉnh thức của ta bị chìm lấp. Ta quên hết mọi thứ, chỉ
còn biết cơn giận của mình. Nếu lúc đó ta có thể nhìn vào
kiếng thì gương mặt ta nhìn thấy sẽ xấu xí biết bao. Nhưng lúc đó
không ai còn thì giờ để nhìn vào kiếng. Họ bị cuốn lấp trong cơn
giận.
Ðức Phật dạy khi sân hận dấy khởi,
điều đầu tiên ta nên nhớ là "Ta là chủ nghiệp ta". Sự nhắc
nhở đó rất quan trọng ở giây phút căng thẳng nhất. "Tôi làm chủ
nghiệp của tôi, nên nếu như tôi tức giận, tôi sẽ lãnh nghiệp báo
của hành động đó". Bất kể người kia đã làm gì cho bạn giận.
Có một câu chuyện rất hay về
Khantivàdin, vị thầy của sự kiên nhẫn. Hay vì nó mô tả được sự vô lý
của lòng giận dữ. Vua Kausala là một vị vua rất giàu. Ông có rất nhiều
vợ. Một ngày kia vua báo cho các bà vợ là ông muốn đi chơi ở ngoại thành.
Các người đầu bếp sửa soạn thức ăn, đầy tớ lo sửa soạn voi, quân lính
sửa soạn quân phục.
Sáng hôm sau cả triều đình, vua và
đoàn tuỳ tùng ra đi. Ðến một khu rừng có những thảm cỏ thật đẹp,
họ dừng lại. Nhà vua ăn và uống quá nhiều. Ngay sau bữa ăn, Ngài
thiếp ngủ. Các bà vợ bảo nhau: "Ðây là dịp cho chúng ta dạo chơi
quanh đây, vì có mấy khi ta được ra tới bên ngoài". Nói rồi họ dắt
nhau đi bắt bướm, ngắm cây cảnh, tận hưởng vẻ đẹp của khu rừng.
Không lâu họ đến căn lều của
vị Thầy của lòng kiên nhẫn mà họ hằng nghe tiếng. Ngài Khantivàdin
(Khanti - lòng kiên nhẫn, Vàdin -Thầy). tất cả họ đều bái lạy, xin
Ngài ban cho những lời chỉ dạy. Vị thầy vui vẻ nói cho họ nghe về các
hành động thiện, lòng từ bi và rộng lượng.
Trong lúc đó, nhà vua tỉnh giấc,không thấy
bà vợ nào ở bên cạnh mình. Nổi giận. Ông sai lính đi kiếm các bà vợ.
Quân hầu trở về báo là họ đang ngồi nghe giảng thuyết. Nhà vua
không nghe lý lẽ gì, ông sai quân gọi các bà vợ về và bắt vị
thầy Kiên nhẫn trói vào gốc cây.
Sau đó nhà vua rút gươm giận dữ đến
nói với Khantivàdin "Ðồ khốn kiếp sao nhà ngươi dám dụ dỗ các
bà vợ của ta?" Ông chém vào chân của vị thầy và hỏi: "Bây giờ thì
lòng kiên nhẫn của ông ở đâu?" Khantivàdin trả lời: "Thưa Ngài, nó
không nằm ở chân tôi". Nhà vua càng tức giận, càng chém vị thầy và
tiếp tục hỏi cùng câu hỏi, trong lúc vị thầy cứ trả lời giống như cũ.
Khi Khantivàdin sắp chết, các quân lính
quỳ xuống xin Khantivàdin "Xin Ngài hãy thương xót, chúng con không có
lỗi, chính nhà vua là người đã ra lệnh". Và Khantivàdin trả lời:
"Không. Ta không oán hận ai. Ta cầu mong cho nhà vua sống lâu và hạnh
phúc". Nói rồi vị Thầy chết. Theo câu chuyện sau đó nhà vua bị
đất lấp chết.
Câu chuyện đã cho ta thấy dù đã bị
cắt ra từng mảnh, vị Thầy cũng không tỏ gì giận dữ. Có lẽ điều đó
khó chấp nhận đối với chúng ta. Rõ ràng Khantivàdin là một vị A la hán vì
khi ông nói "Lòng kiên nhẫn của tôi không có ở trong bàn chân của
tôi", ông muốn chứng tỏ rằng dù cho sự đau đớn thể xác có như
thế nào, tinh thần ông vẫn không nao núng. Ðối với chúng ta, điều
đó thật khó tưởng tượng. Sự đau đớn của thân luôn ảnh hưởng đến
tâm ta. Nếu như ta có thể nhớ được câu chuyện này cũng như lời
Ðức Thế Tôn dạy:"Kẻ nào không làm giống như thế, không hiểu
Pháp của ta", ta sẽ hiểu rằng lòng sân hận là chính là tội
nghiệp ta tự gây ra cho mình. Chẳng phải do hành động của tha nhân.
Hiểu được như thế, ta sẽ dễ sửa
đổi nếu như ta tỉnh thức và ý thức được khi nào sân hận dấy khởi.
Sự tỉnh thức giống như bàn thắng trên xe hơi. Thử tưởng tượng sự nguy
hiểm của một chiếc xe không có thắng. Không có sự tỉnh thức, cuộc
đời ta cũng nguy hiểm như thế đấy.
Mỗi khi sân hận nổi lên, ta đạp thắng
"tỉnh thức", và ta biết rằng mình vừa "phạm tội".
Biết rằng ta vừa làm một việc chẳng tốt đẹp, lợi lộc gì. Dựa vào
các nhận thức này, ta có thể làm giảm bớt khá nhiều sức mạnh của
cơn giận, giống như khi đạp thắng, ta đã giảm bớt được tốc độ của xe,
đi chậm lại. Biết rằng sân hận là không tốt, cũng có thể làm thay
đổi cả quá trình giận dữ, đôi khi còn làm vô hiệu hoá nó. Ta có
thể quan sát khi một sự giận dữ đã bị vô hiệu hoá, để nhận ra
sự vô ích của cơn giận. Bạn sẽ nhận ra sự đau đớn mình tự gây ra cho
mình, và sự u mê khi tự mình làm mình đau khổ.
Sự u mê lớn nhất của con người là tự làm
khổ mình bằng chính những hành động của mình. Cần phải có quyết tâm
sửa đổi để một ngày nào đó - có thể hôm nay, năm tới hay một cuộc
đời khác - để không tự gây đau khổ cho mình nữa. Hãy ngưng phản ứng
một cách tiêu cực đối với bất cứ việc gì xảy ra quanh ta, vì ta biết
rằng tất cả chúng đều ô trược, tội lỗi, và chính sự ô trược đó
khiến cho phiền não sinh ra.
Cả thế giới này đều ô trược. Thật
vậy hãy thử cầm một tờ báo như Newsweek. Bạn thấy gì? Không có gì ngoài
tội lỗi ô trược. Nếu chúng ta nhận thấy cả thế giới đều bị
nhiễm ô uế, thì tại sao ta không rẽ vào con đường chánh định, không
để mình đi theo đoàn xiếc tội lỗi? Tại sao ta không tách ra khỏi
đám đông và quan sát vạn pháp dưới mọi khía cạnh? Chúng ta chỉ có
thể hành động như thế khi ta không còn có những phản ứng tiêu cực
trong đó tệ hại nhất là lòng giận dữ và oán ghét.
Con người không bao giờ hết nói bậy,
làm bậy. Chỉ khi nào ta có thể huân tập cho mình luôn sống trong Pháp thì
ta mới mong sửa đổi được. Nếu ta phải đối mặt với việc làm sai
trái, thái độ bất nhã, ích kỷ, đòi hỏi ta nhiều hơn ta có thể
cho, thì đã sao? Quan trọng là sự bình an và hạnh phúc trong lòng ta. Tất
cả mọi thứ khác đều là phiền não, không nên có, mà ta lại
thường tự gán vào mình. Tất cả các phiền não khổ đau này phát sinh là
do hành động của chúng ta, nhưng ta lại có khuynh hướng đổ lỗi cho
người khác là nguyên nhân tạo tác. Ta nổi giận nên ta đổ cho người làm ta
giận. Ta buồn rầu nên ta đổ cho người khác hay hoàn cảnh làm ta buồn rầu.
Nhưng ta quên rằng nếu trong ta không có sẵn các mầm mống, khuynh hướng
giận dữ hay buồn rầu, thì không thể xảy ra chuyện gì cả.
Giống như món đồ chơi trẻ con Jack in the
box, là một cái hộp trong đó có một búp bê hình nộm mà hễ ta vừachạm tay
tới cái nắp, lập tức hình nộm nhảy phóc ra khỏi hộp. Nhưng nếu ta lấy
hình nộm ra khỏi hộp, thì dù ta có dùng búa để đập nắp hộp cũng không
có gì xảy ra. Không có gì ở bên trong đó, thì dù có nguyên nhân tạo tác
nào cũng không có gì ở bên trong để bật ra ngoài.
Cách duy nhất để tìm sự an bình cho
chính mình, tìm con đường đưa đến giải thoát, là tu sửa mình, không
phải thay đổi thế giới bên ngoài. Mọi người phải tự sửa đổi chính
mình. Ðức Phật không thể thay đổi chúng ta. Nhưng Ngài chỉ chúng ta
phương cách tu sửa. Chúng ta phải tự mình hành động thôi. Càng bắt đầu
sớm càng nhanh chóng có cơ hội tìm hạnh phúc cho chính mình mà không phải
phụ thuộc vào bất cứ thứ gì ở bên ngoài chúng ta.
Không mấy ai lại được tất cả mọi
thứù trong cõi đời này. Ai cũng có những điều bất như ý. Hoặc là
nhà cửa chật chội, lương bổng thấp kém hay bà con bạn bè xích mích, hay
hàng xóm quá ồn ào, hay không có bằng cấp cao... Lúc nào cũng có việc
gì đó trục trặc. Không ai có một hoàn cảnh hoàn toàn như ý cả, nhưng
nếu chúng ta không bắt đầu sửa đổi mà chỉ ngồi chờ đợi tốt hơn thì
chúng không bao giờ xảy ra cả. Môi trường lý tưởng chỉ có thể
hiện hữu trong tâm chúng ta. Ðiều đó có thể thực hiện được.
Ðức Phật bảo cõi người là cõi tốt nhất
để tu giải thoát. Vì chúng ta có những nỗi khổ, bất như ý
để thúc đẩy ta phải làm một điều gì đó. Mặt khác ta cũng có
những niềm vui, hạnh phúc để ta không đến nỗi hoàn toàn
tuyệt vọng vì những đau khổ của mình, nên ta còn có thể hy
vọng. Ðiều tai hại là ta chỉ hy vọng hão huyền, hy vọng
rằng hoàn cảnh sẽ thay đổi, hy vọng người không yêu ta sẽ yêu ta hay
người ta yêu sẽ ở mãi mãi bên ta, hy vọng ta sẽ giàu có. Hy vọng ta
sẽ khôn ngoan để không mắc phải lỗi lầm nào. Tất cả chỉ là những hy
vọng hão huyền.
Lòng hy vọng này có thể được sử
dụng một cách tích cực hơn. Ta hy vọng vì ta biết có gì đó không ổn
với ta, nhưng ta không bó tay. Chúng ta chỉ biết điều không ổn đó là
xấu xa, ô trược. Nhưng không biết phải làm gì. Chúng ta cần hy vọng
có thể sửa đổi chúng ngay bây giờ, không phải trong tương lai, vì tương
lai chỉ là tưởng tượng. Có ai biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì? Có
lẽ không có ai, nhưng ta có thể biết ngay lúc này khi nào phiền
não, ô trược dấy khởi trong lòng ta. Khi ta nổi giận, ta biết ta đang
giận. Ta chỉ có thể sửa đổi cái ta biết.
Khi bạn giận dữ về bất cứ điều gì,
điều đầu tiên phải nhớ là "Tôi làm chủ nghiệp căn tôi".
Thứ hai là đừng tự trách mình vì đã nổi giận. Thứ ba là thay đổi thái
độ.
Tình cảm khó chịu, bực bội nhất làkhi ta
nổi giận với ai đó. Nếu ta giận một vật gì đó, thì cái giận cũng nhỏ,
không đáng kể, không sâu xa. Trước khi để sự tức giận ai đó bùng
nổ, không thể thay đổi được nữa, ta có thể cố gắng thay tình cảm
đó bằng lòng từ. Chắc bạn sẽ phản đối rằng "Làm sao tôi từ bi với con
người đó được?" Ðiều đó cũng đúng.
Việc ta cần làm là phải đảo lộn tình
thế như làm xiếc vậy. Nói rõ ra là phải nhận biết giận dữ là vô
ích. Nó chỉ làm cho ta đau khổ. Làm người khác đau khổ. Không chỉ thế
nó còn tạo cho ta thói quen hay nóng giận, khiến càng ngày ta càng dễ nổi
giận hơn. Ðó là lý do tại sao nhiều người càng già càng hay càu
nhàu, giận dữ. Không có gì làm họ vừa lòng. Họ không bao giờ có
hạnh phúc vì thói quen giận dữ đã hằn nếp trong tâm họ, họ không
thể sửa đổi nữa.
Biết được sự nguy hiểm này, lần sau
khi ta giận dữ với ai, ta nên tìm điều gì tốt về họ: việc
họ làm tốt, lời nói lành của họ. Ðiều đó có thể thực
hiện được nếu ta biết về người đó. Ai mà không có điều
gì tốt.
Nhưng nếu ta đã quá giận dữ, không còn
tìm thấy điều gì tốt ở tha nhân, thì hãy nhớ là chỉ những kẻ khổ đau
mới làm việc độc ác xấu xa. Người hạnh phúc, vui sướng sẽ không hành
động, nói năng như thế, họ sẽ không làm cho người khác phải giận
dữ. Do đó, người đang làm ta giận hẳn là đang trải qua một sự đau khổ nào
đó. Chính họ đang đau khổ. Hãy thương xót người đang đau khổ vì một
vết thương thể xác hay vì họ chẳng bao giờ được nghe Pháp. Hay
vì điều gì đó ta không rõ lý do xác thực. Nhưng điều đó không
quan trọng, hãy tỏ lòng thương xót họ.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta đã quá
giận dữ, không còn nhớ điều gì tốt về tha nhân, cũng không thể
xót thương họ, thì hãy cố nghĩ ta như là cha mẹ đối với đứa con của
ta. Cha mẹ của người ấy thì phải thương yêu họ rồi. Nếu chúng ta
nhớ lời Phật dạy, như trong bài về lòng từ đã nói, ta sẽ nhớ là người
mẹ phải thương con mình, để cố gắng khởi lên tình thương đó trong ta.
Tất cả những sửa đổi đó trong tâm ta sẽ
mang lại kết quả. Cần phải có thời gian để có kết quả như mong
muốn. Nhưng nếu ta cứ tiếp tục thực hành, nó sẽ trở thành thói quen
hay quán tính. Sân hận vẫn còn dấy khởi, nhưng đã mất tính chất mãnh
liệt, cuồng nộ, vì ta đã luyện tập cách để chuyển đổi nó.
Người có thể kềm giữ cơn giận
đang dấy lên.
Như người đang cầm cương xe tuấn mã
Ðúng là một người giữ cương giỏi - tôi nghĩ
Những người khác chỉ là giữ dây cương cho nai. (Pháp Cú, 222)
Sân không nhất thiết phải là một tình
cảm mãnh liệt. Nó có thể là sự hờn dỗi ai đó. Có thể là sự
chống báng những người không cùng suy nghĩ, niềm tin hay hành động giống
như ta. Ðiều đó vẫn thường xảy ra trên đời. Nạn kỳ thị chủng tộc hay
tín ngưỡng là những ví dụ. Sự chống báng người khác đồng nghĩa với lòng
thù ghét.
Khi ta thiếu thốn vật chất, gặp các cơ
hội không thuận lợi ta cũng có thể oán trách người khác, nghĩ là họ
đã cản trở bước tiến của ta. Ðó cũng là sân, nhưng được đè nén.
Ðôi khi ta không dám chấp nhận sự thật với chính mình, điều đó càng
làm ta khó sửa đổi, trừ khi ta biết chấp nhận sự thật. Ðè nén có
thể đem đến cho chúng ta những nội kết, khiến ta không thể
phán xét sự việc bằng công tâm. Mọi thứ đều được nhìn dưới
con mắt của sự đè nén, của lòng sân hận.
Ðức Phật khuyên ta có các hành động từ
ái, thiền quán về lòng từ bi để chữa trị căn bệnh này. Tập
quán tưởng như thế cũng tốt, nhưng tựu trung lại nó cũng chỉ là lời
nói, và phần đông chúng ta đều có nghe qua những lời nói này nhiều
lần.Có người nhiếp tâm những lời này, nhiều người không. Ðó là sự
nguy hiểm của lời nói. Sự nguy hiểm của ngoại giới. Chúng ta thường
mắc phải lỗi lầm là vì chúng ta đã nói những lời ấy, nhiếp tâm
chúng, đã trì tụng chúng, đã nghe chúng được trì tụng, ta tưởng là mình
đã thực sự hành chúng. Tất cả chỉ là do ta đã sửa soạn tự trong lòng
những tình cảm dào dạt tình thương để thể hiện ra ngoài. Tình
cảm đó là lòng từ ái nhưng chúng không giúp ta sửa đổi được gì.
Những lời nói chỉ là các dấu mốc, một
bảng chỉ đường. Chúng chỉ cho ta một phương hướng phải đi tới. Lời dạy
của Ðức Phật cũng chỉ vạch cho ta con đường đúng phải đi. Chúng không
giúp ích gì cho ta, nếu như ta không tự thay đổi tâm, trí. Và ta biết
rằng ta có thể thay đổi tâm trí của mình. Hằng ngày ta vẫn chẳng thường
nói "Tôi đã đổi ý... " đó sao? Sao không thêm một lần đổi
ý?
Hành động từ ái là việc ta có thể
làm với chủ tâm, nhưng chúng cũng chỉ là phương tiện giúp ta thay đổi
tâm trí. Không phải là cứu cánh. Chúng chỉ là phương tiện. Quán tưởng
về lòng từ cũng như hành thiện, cả hai chỉ là các phương tiện,
công cụ. Chúng không phải là mục đích. Mục đích cuối cùng là sự thay đổi
từ bên trong tâm trí chúng ta.
Hành động từ ái -mà ta biết chỉ là
phương tiện - là chăm sóc người đau yếu, thăm hỏi sức khỏe,
viếng thăm họ ở bệnh viện, mang cho họ thực phẩm khi họ
không có khả năng tự lo, quan tâm về người khác, giúp đỡ người khác.
Càng giúp được ai càng nhiều càng tốt, dĩ nhiên là ta có thể bắt
đầu từ chính trong gia đình mình. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Vì giúp cho
gia đình mình thì cũng giống như giúp cho cái Tôi của ta được nhân rộng
ra. Có rất nhiều cách để giúp đỡ người khác. Không nên thu hẹp
hành động từ ái cho chỉ một nhóm người nào, hành động này phải cần
được trải rộng ra khắp nơi, tới khắp mọi người.
Ðây là những vị thuốc Ðức Phật cho ta
để chữa trị bịnh sân hận, bên cạnh các phương thức khác như kết
bạn với thiện tri thức, nói điều tốt lành, để giúp cho tâm hồn
ta được trong sạch hơn.
3. Hôn trầm và Thụy
miên
Tôi đã nói các bạn về hai kẻ thù của
chúng ta, bất hạnh, thay ta còn ba kẻ thù khác nữa. Hai kẻ thù đầu: tham và
sân, là chướng ngại lớn nhất của con người. Nói vậy không có nghĩa là ta
không có cái đối trị. Ðó là sự rộng lượng và lòng từ bi. Vấn đề là
ta phải biết gieo trồng cái tốt và trừ bỏ cái xấu.
Nói thì dễ nhưng hành khó lắm thay. Nhưng
nếu ta không cố thực hành chúng thì ta đã không đi theo con đường Phật
dạy. Ðó là những công việc ta phải làm không ngừng nghỉ. Những công
việc này không liên quan gì đến việc ngồi thiền. Chúng đòi
hỏi tất cả thời gian của ta. Giả thử ta ngủ nghỉ khoảng 5,6 hay 7 tiếng
một ngày, ta còn lại 17 tiếng. Nếu ta nghĩ rằng khi ngồi thiền một,
hai tiếng sáng chiều là đã thực hành được những điều này, nghĩ
như thế ta chẳng đi tới đâu cả. Nếu ta chỉ nhớ lời Ðức Phật dạy
trong vài tiếng mỗi ngày, còn lại không nhớ tới - điều này nghe
có vẻ lạ, nhưng vẫn thường xảy ra - thì ta khó thể tìm được sự Giải
thoát.
Kẻ thù thứ ba của ta là hôn trầm hay thụy
miên, uể oải, và mê ngủ, hai kẻ thù của ta lúc tọa thiền có phải
không? Chúng ta chắc ai cũng kinh nghiệm qua. Ðó là lúc tâm không ngủ,
nhưng cũng không thức. Trạng thái dật dờ khó thể làm nên chuyện gì.
Chỉ khác với cái ngủ là ta có thể dễ dàng ra khỏi đó hơn. Nhưng dầu
không mê man như khi ngủ, nó vẫn đáo đi, đáo lại.
Tâm trạng này ở ngoài đời được coi là
không có phương hướng, từ đó dẫn đến thiếu nghị lực. Nó là một
trạng thái thông thường đến nỗi, khi một người nào đó có nghị
lực, ta sẽ nhận ra ngay. Và Nghị lực là một trong bảy yếu tố dẫn đến
sự Giác Ngộ. Thật là một điều không thể thiếu trong việc rèn
luyện tâm.
Nghị lực nẩy sinh khi ta có một phương
hướng nhất định. Ta biết rõ con đường phải đi và miệt mài đi tới.
Nhưng khi ta không có mục đích gì rõ ràng hơn là giữ cho thân thể tứ
đại này sống, thì không có nghị lực gì có thể phát sinh. Sống như
thế không có gì hứng thú cả. Không ai có thể sống được như
thế! Dồn tất cả sức lực, tâm trí vào chỉ để sống không phải là
một việc làm hiệu quả, ta sẽ không thể có nghị lực để sống
như thế. Trái lại, ta còn cảm thấy bị đè nén trì kéo xuống.
Ðức Phật đã so sánh hôn trầm và thụy
miên giống như một nhà tù. Khi ta bị giam trong một căn phòng nhỏ, trong tù ta
khó có thể làm được gì cho đến khi được tự do. Khi tâm trí ta bị
sự uể oải, ngầy ngật (uể oải ở thân thể, và ngầy ngật trong tâm)
giam hãm, tù túng đến nỗi ta chỉ có đủ nghị lực để kéo lê một
kiếp sống.
Phần đông chúng ta không biết hay không
nghĩ hành thiền là một việc làm cần thiết cho ta, nên tâm ta dễ
dàng đầu hàng các trở ngại. Ta phải nắm thật rõ về sự lợi ích của
việc tọa thiền. Ta không chỉ cần ăn ngủ, tắm rửa, giặt giũ, là
những chuyện bình thường trong cuộc sống, không cần nhiều đến
năng lực. Chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng. Nhưng hành thiền
đòi hỏi ta phải có nghị lực, và nghị lực chỉ có thể phát sinh khi tâm
biết được tầm quan trọng của thiền, nếu tâm ta biết rõ
điều đó thì ta biết là ta phải làm gì.
Khi mê đọc một quyển sách, ta có
thể thức đến nửa đêm để đọc, mà không thấy mệt, ta chỉ
ngồi đó miệt mài đọc. Hay khi dự đám tiệc, ta có thể nói
suốt buổi mà không mệt vì ta vui thích.
Tu tập thiền cũng phải làm ta say mê. Khi
đó không còn lý do gì mà tâm không phấn khởi. Lúc đầu, tập thiền
thật không thú vị chút nào. Nó có vẻ phiền phức quá. Khó quá. Ðau quá.
Nhưng khi tâm đã hiểu ra được tầm quan trọng của việc ta làm,
biết từng giây phút tâm khởi niệm, ta sẽ thấy hứng thú để tìm
hiểu chính tâm ta. Còn gì hấp dẫn hơn thế chứ? Ðọc một quyển
sách hay trò chuyện với người khác, ta chỉ biết về người khác.
Nhưng nếu ta có thể theo dõi tâm từng giây phút, lúc nó dấy niệm,
lúc nó tĩnh lặng, rồi lại dấy niệm, lại tĩnh lặng, thì đó là một
việc hấp dẫn và lợi ích nhất mà ta có thể làm cho chính mình.
Một lần Ngài Mahà Moggallàna (Ðại
Mục-kiền-liên) đến sám hối với Phật rằng ông đã ngủ gục trong khi
tọa thiền. Ðức Phật đã khuyên răn ông điều gì? Phật dạy rằng
khi cảm thấy buồn ngủ, hãy mở mắt ra, nhìn ngọn đèn, chà xát mặt, kéo
tai, cử động thân mình để cho máu chạy đều, và nếu cần đứng
dậy đi. Gì cũng được miễn là đừng có nằm xuống ngủ.
Ðó là cách thức bên ngoài để chữa
trị bịnh buồn ngủ, nhưng ta cũng có những cách thức khác để dẫn tâm đi
theo đúng hướng đã vạch như là quán tưởng về cuộc đời thì vô
thường, sự chết thì bất ngờ. Ðây là cơ hội tốt nhất để ta tham
thiền. Ta có bạn đồng tu, có thầy dẫn dắt. Có đủ ăn, có nơi ở, thân
không bịnh hoạn. Tất cả các thứ này không phải ai cũng có được. Chúng là
kết quả của căn lành của ta. Ðó là phương cách giúp tâm ta tăng thêm
nghị lực.
Hãy nhớ là không còn lúc nào khác hơn là
lúc này. Tương lai dường như chắc chắn trước mặt nhưng đó chỉ là ảo
tưởng. Ta có thể chết bất cứ lúc nào. Khi ta chết - điều
không ai tránh khỏi - và tái sinh - ai cũng thế trừ khi ta là các vị A la
hán - để bắt đầu trở lại tất cả. Ta phải học đi, học nói, ăn,
mặc... Phải đi học trở lại, kết hôn, có con, gả con. Ðó là tất cả
những gì ta vẫn làm đi làm lại từ kiếp này qua kiếp khác. Vì
thế, hãy dùng thời gian còn lại cho những gì quan trọng nhất. Ta đã
trải qua tất cả những thứ đó. Ðã học đi, học nói, ăn mặc. Ðã qua
bao nhiêu trường học. Có con cái. Ðã chứng kiến con mình thành lập
gia đình. Vì thế ngay bây giờ là thời điểm để đổi thay. Không
có lúc nào tốt hơn lúc này.
Nếu ta dùng phương cách này để
tăng thêm nghị lực cho tâm thiền định, thì nghị lực sẽ tự phát sinh,
giống như khi ta bật công tắc điện lên, bóng đèn phát sáng, và một khi
còn có dòng điện thì ngọn đèn còn sáng.
Tu tập thiền cần rất nhiều năng lực.
Thật là lạ khi ta ngồi (tọa thiền) hay đi chậm rãi (thiền hành) mà
ta vẫn còn nhiều năng lực. Lý do tại sao ta cần nhiều năng lực vì
tâm ta không ngừng làm việc. Nếu tâm không luôn phát khởi các
vọng tưởng, hy vọng, ước nguyện, thì tâm đã không mệt
nhọc chút nào. Không phải do các hoạt động của thân thể hàng ngày,
mà tất cả chúng ta ai cũng mệt lử sau một ngày. Nhưng là vì tâm luôn
hoạt động lăng xăng, luôn phán đoán. Tôi thích cái này, tôi không thích
cái kia. Tôi phải có thứ này, tôi sẽ vất thứ kia - chính những thứ đó làm
mệt mỏi tâm trí ta. Vì thế người làm việc bằng đầu óc cũng
mệt như hay hơn cả người trồng cây hay làm đường.
Khi ta có thể chú tâm, giữ tâm lắng
đọng thì tâm được nghỉ ngơi. Nhưng trước khi ta có thể làm được
như thế, ta vẫn phải dùng tâm để tự nhủ ta không được bỏ cuộc.
Chịu thua trước cái đòi hỏi bản năng là thói thường tình của nhân
thế. bản năng ta là muốn được thoải mái, dễ chịu. Trong khi Ðức Phật
nói rằng: "Thắng một vạn quân, không bằng thắng lòng mình". Thắng
lòng mình có nghĩa là không chịu thua trước các đòi hỏi của bản năng,
không để tâm nghe theo những điều đó.
Muốn được ngồi yên tọa thiền phải
có một lý do chính đáng nào đó để tâm có đủ nghị lực làm
điều đó. Vì ước muốn được chứng ngộ, không phải là một lý do
chính đáng. Lý do đó không đủ mạnh để giúp ta tu tập thiền,
nhưng phần đông chúng ta đều tu thiền với mục đích đó. Do đó ta
sẽ dễ bị thất vọng, vì được chứng ngộ không phải là điều dễ dàng
đạt được. Lúc đó nghị lực để giúp ta thiền định sẽ biến mất
vì ta không đạt được điều ta muốn, lúc đó việc thiền quán
cũng là một thứ phiền não như bao thứ phiền não khác.
Thiền chỉ có một mục đích duy nhất là
sửa soạn cho tâm thoát khỏi những đau khổ, chuẩn bị cho tâm được giải
thoát. Ðó là cứu cánh của phương tiện này, chứ không phải là để
được chứng ngộ. Việc đó cũng sẽ xảy ra, tại sao không? Hãy cảm ơn
rằng việc đó có thể xảy ra, và coi đó như một động lực giúp ta
tiếp tục công việc của mình. Nhưng khi nó không xảy ra thì cũng chẳng
làm sao. điểm chính là tâm ta phải tu tập thiền để được giải
thoát.
Ðức Phật đã so sánh trạo cữ và hôn trầm
giống như ao hồ mà bùn đã nổi lên mặt. Mặt hồ đấy bùn thì ta không
thể soi mặt vào, chỉ có bóng đen. Trong trạng thái tranh sáng tranh tối
giữa ngủ thức ta không thể có sự tỉnh thức. Ngay trong đời thường, khi
tâm ta bắt đầu nói "Tôi chán ngấy.Khó khăn quá. Tôi không thể
tiếp tục. Tôi không muốn làm nữa. Tại sao tôi phải làm chứ? Ðâu có ai
làm giống như tôi đâu", đó là tâm đầy bùn, không có sự sáng suốt,
không có một phương hướng rõ ràng cho chính mình.
Một phương hướng rõ ràng đem lại cho ta
nghị lực cần thiết. Khi ta biết đường ta đi, nơi ta đến. ta có
thể hăng hái sánh bước. Khi ta không có đích đến, ta không có
niềm say mê, hứng thú với điều gì. Thật khó tìm được một hướng
đi đúng trong cuộc đời này, nhưng Ðức Phật đã chỉ cho ta con đường mà
Ngài đã chứng nghiệm, để đi đến sự tự do, đoạn tiệt khổ
đau, giải thoát, Niết bàn.
4. Trạo cữ_
Kẻ thù kế tiếp là trạo cữ, lăng
xăng lo lắng hay lo ra. ai cũng bị đau khổ vì kẻ thù này, nên nó rất quen
thuộc với chúng ta. Thực ra, cả năm chướng ngại đều rất quen thuộc với
chúng ta. Ai cũng mắc chúng ở những mức độ khác nhau. Vì thế ta cần phải
suy gẫm xem chướng ngại nào là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với ta. Tất cả
đều nằm trong ta chờ cơ hội để lộ diện. Nhưng có một hay hai
chướng ngại chỉ cần ta khẽ động tịnh là nhảy ra ngay, làm chủ ta. Ðó là
những chướng ngại ta cần đối đầu tu sửa.
Tâm lăng xăng khiến thân cũng chẳng
yên. Thân là tên đầy tớ ngoan ngoãn của tâm. Thân chỉ là một xác chết
khi không có tâm. Bất cứ thân làm điều gì cũng là do tâm điều
khiển, dầu ta có ý thức về điều đó hay không. Thông thường
các phản ứng của ta xảy ra tức thì, theo bản năng nên ta không biết rằng
tâm đã ra lệnh: "Làm cái này, làm cái kia", ta nghĩ là thân ta
hành, nhưng không thể có thân hành, nếu không có tâm khiển.
Tâm sinh ra lăng xăng phần lớn là do những
kinh nghiệm xảy ra trong quá khứ, những chuyện ta đã làm, hay đã không
làm, tất cả những thứ ta ước muốn thực hiện trong đời, nhưng đã không
thực hiện. tâm lăng xăng khó tập trung vì niệm cứ dấy khởi liên
tiếp.
Ðức Phật đã so sánh nó với một mặt hồ
đầy sóng gió. Khi tình cảm ta đầy sóng gió, ta sẽ chết đắm vì nó. Ta
không còn thấy sự việc rõ ràng nữa.
Lo lắng thường vì tương lai, và nhiều
người trong chúng ta rất hay lo lắng, mà quên ngừng lại để suy nghĩ sự lo
lắng đó thật vô ích và kỳ quặc. Lo lắng về tương lai là điều vô
ích. Vì có lo lắng về tương lai, ta cũng chẳng thể sống cho tương lai
đó. Vì cuộc đời là vô thường luôn có sự thay đổi, không những ta sẽ già
hơn, khôn ngoan hơn - hy vọng là thế - mà hoàn cảnh cũng đổi khác,
tình cảm, suy nghĩ của ta cũng khác. Thì lo lắng về tương lai thật vô
ích.
Nếu bạn có những tấm hình khi bạn ở
lứa tuổi 4, 8, hay 12,15, hãy lấy chúng ra và soi gương, so sánh gương mặt
nào là của bạn. Bạn là chú, cô bé 4 tuổi, 8 tuổi, 15 tuổi hay là người
đang nhìn vào kiếng bây giờ, hay tất cả cũng là bạn? Nếu tất cả là
bạn, thì bạn đã là hàng ngàn con người khác nhau. Và đó chính là chúng
ta, luôn biến đổi. Thì cô, chú bé 15, 20 tuổi đi lo về chuyện gì
sẽ xảy ra cho một người già 60, có phải là vô ích không? Ta sẽ không
thể nhớ cô, chú bé đó đã suy nghĩ, lo lắng điều gì. Cũng thế
đối với sự lo lắng cho ngày mai. Dầu cho ta cố nhớ được mình đã lo lắng
điều gì, cũng chẳng ích chi. Một con người hoàn toàn khác ngày hôm nay
sẽ sống ở ngày mai.
Ðiều đó không có nghĩa là ta không
thể dự định điều gì. Dự tính và lo lắng là hai việc khác nhau.
Dự tính sẽ trở thành lo lắng khi ta tự hỏi không biết những dự tính của
ta có thành sự thật không. Không có gì sai với sự dự tính, nhưng sau nó hãy
quên nó đi cho đến ngày ta có thể thực hiện được mà không cần
phải lo lắng với những chuyện gì sẽ xảy ra ở tương lai.
Lo lắng làm ta đau khổ, tâm ta bấn loạn. Nó
tách ta ra khỏi thế giới thực tại, ngay giây phút này, là khoảnh khắc duy
nhất ta thực sự sống trong đó. Những giờ phút ta đã đắm chìm trong lo lắng,
là những giờ phút bị đánh mất đi. Nếu ta không sống cho từng giây phút
hiện tại, có nghĩa là ta đánh mất cuộc sống. Khi ta hối tiếc dĩ
vãng, lo lắng cho tương lai, ta không thực sự sống. Ta chỉ hoài niệm và
phỏng đoán. Ðó không phải là cuộc sống. Cuộc sống không phải để suy
tưởng về nó, mà để ta sống trong đó. Chỉ có như thế thì cuộc
đời mới có ý nghĩa, và kinh nghiệm sống mới có thể xảy ra từng
giây phút. Ðó là một trong những nghệ thuật, thiền có thể
truyền cho chúng ta, sống trong giờ phút hiện tại mới thật là sống.
Tâm ta sẽ chẳng bao giờ được an bình, hạnh
phúc hay tĩnh lặng nếu ta không sống trong giờ phút hiện tại. Tâm sẽ
đắm chìm trong đấu tranh tư tưởng để làm những việc ta nghĩ đáng
lý ra ta phải làm, để đến những nơi ta nghĩ là ta phải có mặt,
để bảo vệ những tài sản ta cho là quý giá. Một cuộc chiến
đấu gay go, đau khổ không ngừng nghỉ. Hạnh phúc, an lạc hình như không thuộc
số phận chúng ta. nhưng ta có thể đạt được những thứ đó nếu ta cố
gắng, nếu ta biết nhận diện kẻ thù và đuổi chúng ra khỏi nhà tâm
của ta.
Căn nhà nội tâm của ta là nơi có bao vị
khách không mời mà đến. Vì lòng hiếu khách ta để họ vào.
Ðể rồi ta khám phá ra họ làm hư bàn ghế, đánh cắp đồ quý,
phá hỏng cửa nẻo. Nhưng thay vì đóng cửa và không để họ vào lần
nữa, hôm sau ta lại để họ vào. Ðó là nội tâm của ta, bị xâm
chiếm bởi bao kẻ thù. họ tạo ra bao rối loạn trong tâm ta, không
để ta có được an lạc, hoà bình mà ta không biết tại sao. Ta luôn đi
tìm những lý do ở bên ngoài để tự biện hộ. Mỗi người có
những lý do khác nhau nhưng đều giống nhau ở một chỗ. Chúng không
thật, tất cả đều do ta tưởng tượng ra. Lý do chính là vì ngôi nhà
tâm của ta không được yên ổn. Bên trong không an ổn thì căn nhà bên ngoài
làm sao yên. Ta phản chiếu ra bên ngoài, những gì chứa đựng bên trong
chúng ta.
Lăng xăng lo lắng không những vô ích mà
còn là dại khờ. Ðức phật bảo chúng ta hành động u mê vì không nhìn thấy
sự thật. Nhưng ta có thể thay đổi điều đó có phải không? Lăng xăng
và lo lắng được gọi chung là lơ đãng. Chúng ta lơ đãng trong công
việc mình làm, như là thiền quán. Nhưng điều đó cũng không chỉ
thu hẹp trong việc thực tập thiền, nó còn ảnh hưởng đến đời
sống thường ngày của ta. Ta quên chìa khoá, không biết để nó nơi
nào. Ta không nhớ mình đang làm gì, vì ta xao lãng, lo lắng vấn đề gì
đó. Ta khó hoàn thành công việc của mình tốt đẹp, an toàn khi tâm ta
đang ở một nơi nào khác.
Ðức Phật chỉ cho ta năm cách để đối
trị những tư tưởng xao lãng, lo ra, bằng các câu chuyện ẩn dụ. Như một
người thợ mộc đóng hai khúc gỗ vào nhau và thấy là chúng không vừa
nhau. Ông lấy ra và thay khúc gỗ khác vừa hơn. Ðó là nhờ có thay đổi.
Nếu tâm ta cứ lo lắng về tương lai, tiếc nuối quá khứ thì cũng
có sự không ăn khớp. Không có hạnh phúc không có an bình trong đó. Vậy thì
hãy thay đổi! Hãy thay bằng cái vừa vặn, ăn khớp hơn. Khi tu thiền hãy
để tâm thiền lắng sâu vào ta. Trong đời sống hàng ngày hãy để
cho tâm được trọn vẹn hữu ích. hãy thay đổi!
Ẩn dụ thứ hai là về một người thanh
niên và một cô thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ để đi ra ngoài. Khi ra tới
đường, họ mới nhận ra có ở cổ mỗi người toòng teng xác một con thú
chết. Quá xấu hổ, họ vội vã chạy về để gội rửa. Ta cũng nên
xấu hổ khi tâm ta không trong sạch. Xấu hổ khi tâm ta đầy tiêu cực. Ðức
Phật nói sự xấu hổ và sợ hãi là những chiến sĩ bảo vệ cho thế
giới. Không có chúng, thế giới sẽ càng tồi tệ hơn. hầu hết chúng
ta nghĩ rằng chỉ có bụi bặm, vết nhơ trên quần áo, hay thân thể mới
có thể thấy được, nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Những vết nhơ trong
tâm ta cũng có thể nhìn thấy được, không phải bằng con mắt thường mà
bằng mắt tâm. Ta biết khi nhìn một người giận hờn dù không nói lời nào.
Ta biết khi một người ngã mạn. Hành động của họ, lời nói của họ
đã mách với chúng ta điều ấy. Vì hành động cũng như lời nói đều
xuất phát từ trong tâm chúng ta. Nhất là hành động, ta thường không để
ý đến lời người khác nói, trong khi hành động của họ mới chính
là phản ảnh của nội tâm họ, tốt hay xấu. Hãy nhớ là những vết bẩn
trong tâm ta cũng giống như xác thú chết ta đeo trên cổ. Nhưng ta có
thể gỡ bỏ nó ra, và chỉ đi ra ngoài khi ta đã sạch sẽ, đẹp đẽ trở
lại.
Một ẩn dụ khác của Ðức Phật để ví
những tư tưởng xao lãng, lo ra giống như gặp người quen ở bên kia đường.
Không nên băng qua đường để chào hỏi, bắt chuyện, mà cứ giữ con
đường mình đang đi. Không nên để ý! Ðiều đó hơi khó. Vì khi
ta không để ý đến chúng thì ta cũng đã bắt đầu có sự thay
đổi. Làm được như thế đòi hỏi phải có một tâm cứng rắn. hai trường
hợp đầu dễ xử hơn. Người ta có thể dễ xấu hổ vì ai cũng có lương
tâm. nhưng bỏ qua coi thường các tư tưởng đi qua đầu không phải là
điều dễ, nó đòi hỏi nhiều nghị lực hơn.
Ẩn dụ tiếp theo kể về một
người đàn ông đang chạy trên đường, bổn phận thấy mình không được
thoải mái, và nghĩ:"Tại sao ta phải chạy? Ta có thể đi mà". Nên
anh ta bắt đầu đi, vẫn thấy khó chịu anh đứng lại. Rồi cũng không mấy tốt
hơn, anh quyết định ngồi xuống, cuối cùng anh quyết định nằm xuống,
và thấy thật là thoải mái.
Hãy nhận biết những khó chịu trong tâm,
trong cả con người ta, khi những ý nghĩ vô ích, lo lắng, lăng xăng, xao
lãng dấy khởi trong ta. Chúng không mang lại cho ta niềm vui, sự thoải mái
nào, trái lại thì có. chúng làm ta lo lắng bực dọc. Hãy nhận ra sự
phiền não này và biết rằng không ai ngoài ta trên thế gian này có
thể đem lại sự thoải mái cho chính ta. Ðức Phật không làm được, giáo
lý giải thoát của Ngài không làm được, cha mẹ ta, các thầy ta, bạn bè
ta, tất cả đều không thể làm thay cho ta được. Chính chúng ta phải
tự làm cho tâm mình được thoải mái, vui vẻ.
Ðó là bốn phương cách ta có thể sử
dụng, nếu một cách không thành công, ta dùng cách kia, cách kia nữa.
Nếu tất cả cách đều thất bại thì ta phải dùng đến biện pháp
đè nén. Ðức Phật dùng ẩn dụ về một người mạnh mẽ, to lớn, nắm cổ
một người yếu hơn, dìm xuống nước. Cũng thế ta dùng sức mạnh của
mình để đẩy các ý nghĩ vô bổ ra khỏi tâm mình, và buộc tâm không
nghĩ về chúng. Ðó là biện pháp tối hậu, nhưng ta có thể thấy
rằng thà là đè nén những ý nghĩ xấu, tiêu cực hơn là tiếp tục
nghĩ về chúng. Dần dần ta sẽ học được cách thay thế chúng bằng
những ý nghĩ cao đẹp hơn. Khi đè nén những tư tưởng thấp hèn, có
nghĩa là ta không cho phép chúng tạo nếp, tạo rãnh trong tâm ta. Ta không
thể để cho tâm ta có thói quen chứa đựng những tư tưởng này. Tâm
mà cứ luôn nghĩ lăng xăng, lo lắng một cách tiêu cực, một cách giận dữ,
ích kỷ thì khó mà bỏ được thói quen này. Trong trường hợp đó, sự đè
nén là giải pháp tốt nhất.
Ðể đối trị các tư tưởng lăng xăng,
lo lắng, Ðức Phật dạy ta hãy học Pháp, học kinh nhiều hơn. Khi ta
thấu hiểu được lời dạy của Ngài, ta có thể hướng tâm mình đến
đó. Nhớ được lời Phật dạy, thuộc kinh điển Phật, khi ấy hình như ta
dễ tìm ra những lời giải đáp rõ ràng, dứt khoát cho các vấn đề của ta
hơn. Các câu trả lời của Phật đều dẫn ta đến chỗ giải thoát.
Dẫn ta ra khỏi ngã mạn, nhưng không phải dễ dàng để theo. Ðó là lý
do tại sao ít người làm theo lời Ngài, ai cũng muốn được thoải mái, cũng
dễ dãi với chính mình.
Cách đối trị khác nữa là làm bạn với
người khôn ngoan, đứng đắn, bên cạnh những người bạn đạo. Có nghĩa là ta
phải cẩn thận trong việc chọn bạn mà giao tiếp. Ðiều đó không
có nghĩa là ta phải bỏ hết những người bạn cũ của mình, nhưng ta phải
tìm những người ta có thể trao đổi với họ những câu chuyện tinh
tế, phấn chấn ta. Ta chọn bạn như thế nào cũng nói lên được con
người ta thế ấy.
5. Nghi hoặc
Kẻ thù cuối cùng của ta là lòng nghi hoặc.
Ðức Phật đã ví nó giống như một cuộc hành trình đến sa mạc mà không
mang theo vật dụng, không có bản đồ, do đó ta cứ đi lẩn quẩn để rồi
bị cướp, bị đói khát.
Ngài cũng ví lòng nghi hoặc như một mặt hồ
phủ đầy cỏ cây. Làm sao ta có thể nhìn thấy đáy nước với một mặt hồ
như thế.
Lòng nghi hoặc thường có mặt như khi ta nghi
ngờ về sự Giác ngộ của Ðức Phật, về sự thật của Pháp, về sự
diễn giảng Pháp của Tăng đoàn. Nhưng ảnh hưởng nặng nề hơn cả cho sự
tiến bộ của bản thân là nghi ngờ về chính khả năng của mình, về
trực giác tâm linh của mình.
Lòng tự tin sẽ phát sinh khi ta có thể
làm được những điều mà ta đã vạch định. Trong thiền, điều đó
có nghĩa là ta có thể ngồi cho đến khi tâm ta chìm sâu trong tĩnh
lặng. Như thế ta sẽ có thêm lòng tự tin trong lần tọa thiền sau,
vì ta biết là ta có thể làm được điều ta muốn làm với tâm. Ta
biết là phần nào ta đã làm chủ được tâm.
Lòng tự tin có nhiều khía cạnh. Ðó
không phải là sự càn bướng, mà là một cảm giác tin tưởng rằng mình có
thể hoàn toàn dựa vào chính mình. Sự nương tựa đó chỉ có thể xảy
ra khi ta có thể làm chủ được tình cảm mình. Không thể có lòng tự
tin, khi ta còn lệ thuộc vào tình cảm của mình. Khi ta còn bực tức, giận
dữ, lo âu, sợ sệt, thèm muốn, ghen ghét, tham lam, khi tất cả những thứ
tình cảm này còn làm chủ ta, thì khó thể tìm được sự an bình. Và khi
không an bình, ta đâm ra thiếu tự tin. Chỉ khi nào mọi thứ tình cảm
sân si trong ta đã được điều phục, ta mới có được nội tâm cứng rắn,
mới chắc rằng dù bất cứ chuyện gì xảy ra ta sẽ phản ứng nhẹ nhàng, tự
chủ, lúc đó ta mới thực sự có lòng tự tin.
Ðó là một khía cạnh quan trọng của
lòng nghi hoặc vì chỉ khi ta có lòng tự tin về chính bản thân, lúc đó ta
mới có đủ lòng tự tin để đi theo con đường đạo cho đến tận cùng.
Tóm lại nhờ vào lòng tự tin, ta mới có thể nói: "tôi có thể làm
được, tôi sẽ theo đuổi việc đó tới cùng".
Lòng nghi hoặc thường dấy khởi trong những
người không có lòng từ. Nếu không có từ tâm, ta không thể phụng sự
một lý tưởng nào, dốc lòng tin theo một con đường đạo nào. Không có
từ tâm, ta khó thể dâng hiến cả đời mình cho một lý tưởng nào
đó. Nếu ta không thể dâng hiến đời mình cho con đường ta đã
chọn thì cũng giống như ta đã thành hôn, nhưng nghĩ mình sẽ gặp được
một người tốt hơn người bạn đời của mình. Không thể có một hôn nhân
tốt đẹp được khi ta có những ý nghĩ như thế.
Con đường tâm linh còn đòi hỏi một sự
dốc tâm hơn thế nữa. Vì chỉ có ta, không có người thứ hai nào bên cạnh
góp sức vào để vun bồi cho sự hoà hợp này. Ta phải hiểu con đường
từ trong trái tim mình. Như thế sẽ không có nỗi nghi hoặc nào có
thể xen vào. Ta sẽ không cần tự hỏi: "không biết Ðức Phật có
Giác Ngộ không?". Ðó là một câu hỏi thừa thãi. Khi chúng ta đi theo con
đường của Ngài, thì tự ta sẽ khám phá ra thôi.
Muốn trọn vẹn đi theo con đường của
Ðức Phật là một việc làm trọn cả cuộc đời. Ðiều đó không có
nghĩa là ta không thể có cuộc sống riêng, hay làm những chuyện khác,
nhưng nó có nghĩa là tất cả phải làm được trong tinh thần của Pháp. Lúc
đó bất cứ ta làm gì cũng là cơ hội để ta học hỏi thêm.
Ðức Phật chỉ cách đối trị cho lòng nghi
hoặc cũng giống như trạo cữ, lo lắng; đó là học hỏi thêm Phật Pháp,
giao tiếp với bạn hiền, bạn đạo.
-oOo-
Ðức Phật nói người đã bỏ hết được
năm điều chướng ngại kể trên là người đã hoàn tất cuộc đời
mình, không còn gì để làm nữa. Năm chướng ngại này là tờ hộ chiếu
đưa ta đến cõi tái sinh. Chúng là thông hành vĩnh cửu của ta. Ta phải
làm một điều gì đó, nếu ta muốn thoát ra khỏi vòng sanh tử này. Chỉ
cần một sự thay đổi nhỏ cũng làm cuộc đời ta dễ chịu hơn. Và đó chẳng
phải là điều mà tất cả chúng đều đang kiếm tìm sao? Sự thoải
mái, hạnh phúc. Nhưng không phải là thứ lạc thọ ta có tìm thấy qua
việc thỏa mãn vật chất. Hạnh phúc mà ta kiếm tìm chỉ có thể có
được qua tâm an lạc và năm kẻ thù này là nguồn gốc của tâm không an lạc.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |