IV - NGHI
THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
(Gihii
Puujaasikkhaapadavidhii)
Tiến Sĩ Tỳ Kheo
DŨNG CHÍ
NGHI
THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
(Phần này trích bài soạn của Tỳ Kheo Dũng Chí)
Trong gia đình, người
con phải chu toàn bổn phận, phải cư xử với mọi người
nhất là những bậc sinh thành, như cha mẹ, thế nào cho đúng
cách của một người con lễ giáo. Trong xã hội một người
công dân tốt phải hành xử sao cho vẹn toàn mọi bổn phận
trung quân ái quốc. Trong mọi lãnh vực chúng ta đều phải
theo đúng qui tắc, khuôn thước lễ giáo riêng, để hành theo
cho thành một người trọn vẹn. Xét về lãnh vực tôn giáo,
thì vấn đề lễ nghi đối với Phật tử chân chính rất
quan trọng, nếu người Phật tử biết tôn kính chư Tăng,
xử sự cho hợp lẽ đạo đúng nghi thức, lúc nào cũng vâng
lời và giữ đúng cương vị của mình thì mục đích cao thượng
mới đoạt thành. Mặt khác vui thích trong việc học đạo, làm
phước và dẫn dắt mọi người để có cùng chung một lý tưởng,
có thế trí tuệ ta mới phát sinh và mới có thế giữ vững
mức quân bình giữa cuộc sống tinh thần và vật chất hiện
tại.
Nói về nghi thức trong các
buổi lễ dành riêng cho tín đồ, ta nhận thấy hầu hết các
tôn giáo nhỏ lớn đều có. Nhưng khác hẳn các tôn giáo
ấy, đạo Phật có những nghi lễ thường thức rất giản
dị, bởi theo kim chỉ nam của đạo thì càng giản dị càng
tốt. Ðạo Phật không quan trọng hóa tha lực mà tin tưởng
ở tự lực, chỉ có tự lực mới tìm ra chơn lý. Sở dĩ có
một số nghi thức giản dị là vì để đáp ứng cho tinh
thần vị tha của người Phật tử, mà không ngoài chính tín
và bất vụ lợi. Chúng tôi xin tuần tự trình bày một cách
khiêm tốn những phần nghi thức và lễ giáo sau đây
PHẦN NGHI THỨC
NGHI LỄ QUY
Y
Lễ quy y theo Phật giáo
là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập
thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể
tổ chức tại gia, chùa chiền và bất cứ ngày giờ nào không
nhất định, lúc nào chúng ta muốn nương theo Tam Bảo, vui thích
và trong sạch để được trở thành một người Phật tử chơn
chánh. Trước hết chúng ta cung thỉnh một vị sư hay chư Tăng
đến dưới chân Phật đài, xin thọ phép quy y Phật, Pháp, Tăng.
Khi đối diện chư Tăng người quy y phải đọc bài quy y:
"Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng tôi là người thiểu trí
lầm lạc... (Xin xem quyển kinh Nhật Hành của Hòa Thượng
Hộ Tông.)", kế đó vị sư hướng dẫn người quy y học
theo câu lễ Phật, rồi tuần tự đọc lời nguyện quy y Tam
Bảo "Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật..."
Sau khi đã thọ phép quy y xong rồi, vị sư đại diện cho Tăng
Bảo sẽ hướng dẫn người quy y tụng theo lời thệ nguyện
thọ trì ngũ giới.
Cuối cùng vị sư giảng
giải sự lợi ích của sự nghiêm trì giới luật cũng như
khuyến khích Phật tử nên duy trì cho được trong sạch, vì
khi đã quy y thọ giới rồi là chúng ta đã trở nên một người
Thiện nam hoặc Tín nữ tức là con hoặc đệ tử Phật, thì
giới luật phải chấp nhận và nghiêm trì suốt đời, khi đã
giảng về sự lợi ích của giới luật xong, vị sư tụng bài
kinh phúc chúc cho tân đệ tử được dồi dào sức khỏe, tu
hành tinh tấn. Sau đó Phật tử đọc lên bài hồi hướng phước
báu phát sinh do lòng trong sạch của mình đến chúng sanh.
Nói đến một người
Phật tử đúng nghĩa trong Phật giáo, là người phải được
quy y và thọ giới trước Phật đài có chư Tăng chơn chánh
chứng minh. Vì đạo Phật quan niệm giới luật đóng vai một
vai trò rất quan trọng, cũng như lời răn dạy của cha mẹ
trong gia đình vậy. Trong Phật giáo, ngoài những giới luật mà
chư Tăng phải nghiêm trì, Ðức Phật còn lưu ý đến hàng
tại gia cư sĩ, cần có giới luật để duy trì và nhớ rằng
mình đã quy y Tam Bảo nên tuyệt đối thi hành giới cấm, khi
có sự sân hận, lòng muốn giết hại chúng sanh, thì giới
luật là giáo điều ngăn trở không cho chúng ta vi phạm, được
vậy tam quy mới bảo đảm và duy trì.
NGHI THỨC
LỄ BÁI TAM BẢO
Lễ bái Tam Bảo là một
nghi thức công phu sáng chiều ở tại chùa chiền, tư gia và
những nơi công cộng trong các buổi lễ Phật giáo. Dưới chân
Phật tổ hay trên lễ đài phải được trang hoàng theo nghi
thức Phật giáo chơn truyền, nghĩa là ta chỉ tôn thờ duy
nhất một tượng Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Những vật cúng dường
được bày trước tượng ảnh Phật tổ là hương, đèn và bông
hoa, ngoài ra chúng ta không nên dâng những vật thực để cúng
dường.
Trở lại vấn đề lễ
bái, trước hết chúng ta đảnh lễ 3 lần, rồi bắt đầu
tụng những bài kinh được phổ thông áp dụng như sau:
- Bài kinh dâng hoa cúng
Phật (Phạn, nghĩa).
- Lễ Phật (đọc 3 lần).
- Lễ bái Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng
(Phạn, nghĩa).
- Rải tâm từ bi
- Hồi hướng phước báu đến tất cả chúng sanh (Xem
quyển Nhật Hành của Ngài Hộ Tông.).
Trên đây là nghi thức
giản tiện nhất được phổ thông áp dụng khắp thế giới
theo Phật giáo Nam Tông và rất đúng theo chánh pháp.
NGHI LỄ
THỌ NGŨ GIỚI, BÁT QUAN TRAI GIỚI
Nghi thức thọ giới
của người cư sĩ chia làm hai phần:
a) Nghi thức được chưng
bày cho người Phật tử xin thọ trì ngũ giới, sự trang hoàng
và lễ vật rất giản dị, Phật tử khi thọ giới có vài điều
kiện nhu:
- Hết lòng thành kính
Tam Bảo.
- Tùy khả năng, mua sắm chút ít hương, hoa đến chùa cúng
dường Ðức Phật.
- Thành kính cung thỉnh chư Tăng đến trước Phật đài.
Ngũ giới người Phật
tử có thể thọ bất cứ lúc nào cũng được. Song theo thói
thường thì lễ thọ ngũ giới được bắt đầu vào trước
mọi cuộc lễ, những cuộc lễ ấy như: lễ cầu an, cầu siêu,
trai Tăng, thuyết pháp v.v... Bởi theo Phật giáo người Phật
tử trước khi làm việc gì phải nghĩ tới giới hạnh của mình,
vì vậy mà người Phật tử xin thọ trì giới hạnh cho trong
sạch khi bắt tay vào việc, để hòa điệu với thời gian công
tác phước thiện.
Người thọ giới cũng có
thể cung thỉnh chư Tăng về tư gia hành lễ. Phật tử khi
thọ trì ngũ giới nên đọc bài cung thỉnh chư Tăng truyền
giới: "Bạch hóa Chư Ðại Ðức Tăng chúng tôi xin thọ
trì ngũ giới...(Xin xem quyển Nhựt Hành của Ngài Hộ Tông.)".
Ðiều cần yếu là họ phải thật tâm thệ nguyện trước
Tam Bảo có chư Tăng chứng minh, dù bất cứ hoàn cảnh nào,
hay gặp những biến cố tai hại đến đâu cũng nguyện một
lòng trung thành với lời nguyện.
b) Nghi thức thọ trì Bát
quan trai giới cũng tương tự như trên, Bát quan trai giới có
hai lối thọ trì:
- Phật tử nguyện
thọ trì Bát quan trai kỳ một tháng 8 ngày.
- Nguyện thọ bát quan trường, tức suốt đời gìn giữ Bát
quan trai hay còn gọi là trường trai.
Ðến ngày giới người
Phật tử khi thọ trì phải đọc bài xin thọ Bát quan trai
giới: "Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng con xin thọ trì tam
quy và Bát quan trai giới...." Có điều bất cứ nghi lễ nào,
không chỉ lễ thọ giới, bao giờ cũng dành nơi danh dự cao ráo
cho chư Tăng an tọa, vì chư Tăng là một trong ngôi Tam Bảo,
chúng ta cần phải tôn kính.
NGHI THỨC
THỜ PHƯỢNG TẠI GIA
Ngày xưa người Việt
Nam ta tin tưởng rằng hình tượng Phật mà họ thờ phuuợng
đều có quyền năng ban bố phước lành, hành phạt con người.
Vì thế ông cha ta không dám cho thờ phuuợng hình ảnh Phật
tại tư gia, cho rằng nhà thế tục thường có bệnh hoạn, ô
uế, e có tội với đấng thiêng liêng.
Nhưng ngày nay khi Phật
tử học hỏi giáo lý cao siêu của nhà Phật được chu đáo
và sâu rộng, nên ta đã hiểu rõ thế nào là tội phước. Riêng
sự thờ phuuợng tại gia không có gì là trở ngại cả. Hình
tượng chỉ là những vật vô tri vô giác, không có gì gọi là
linh thiêng đáng sợ. Song, có sợ chăng là ở chổ kim ngôn quí
báu của Ngài được tôn kính đúng đắn hay không. Ta là
Phật tử con của Phật, tại tư gia có tôn thờ hình ảnh Ngài
là để những khi trong gia đình có chuyện gì, hay lo sợ, ngước
lên bàn thờ, ta nhìn thấy gương mặt từ bi của Ðức Phật
thì sự lo đó cũng bớt đi phần nào, cũng như những lúc ta
cảm thấy có gì hơi lỗi đạo, nói năng cộc cằn, chửi
rủa nhau hay đánh đập, âm mưu hãm hại kẻ khác là điều
không xứng đáng đối với người con Phật. Hằng ngày khi ra
vào ta nhìn thấy gương mặt từ bi vô lượng của Chí Tôn,
ta cũng cảm thấy biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, ta
sẽ không dám hành động những điều sai trái với lương tâm.
Cách thờ phuuợng thì ta
nên thiết lập bàn thờ Phật ngay giữa nhà, nơi danh dự và
trịnh trọng nhất, nơi ấy cũng phải cao ráo hơn các bàn
thờ tổ tiên. Trên bàn thờ chỉ được tôn thờ một vị Thích
Ca mà thôi, trước là một lư hương, bên cạnh là một bình
hoa, cùng hai chưn đèn nến là đủ. Nên lưu ý theo truyền
thống Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận dùng chuông mõ,
vì vậy không cần thiết phải sắm những vật không hợp
lệ này.
LỄ SÁM
HỐI LỆ
Theo nghi thức Phật giáo
Nam Tông thì mỗi tháng có hai kỳ Sám hối, đó là ngày 14 và
30, nếu tháng thiếu thì 14 và 29. Ðây là một trong các phương
pháp Sám hối, nó có tác dụng nhắc nhở cho chư Phật tử
biết rõ điều nào là tội lỗi, điều nào nên tránh, điều
nào nên làm, và như thế nào để gìn giữ thân khẩu ý cho
trong sạch.
Có lẽ trong chúng ta ai cũng
sẽ có một nghi vấn về vấn đề này thì phải? Ðúng vậy,
vì lẽ Sám hối lệ đọc lên bài Sám hối vào những ngày
nhất đinh như đã ghi ngày 14, 29, 30, thì chỉ có ở Phật giáo
Nguyên Thủy Việt Nam mà thôi, chứ các nước cùng một tôn
phái không có lễ này. Phật tử thay vào đó những ngày
giới Bát quan, những ngày bát giới rất quan trọng đối
với các hàng tín đồ Phật giáo thế giới. Phật tử vào
những ngày ấy thường mang vật thực đến chùa, làm lễ
trai Tăng và sống suốt thời gian nghiêm trì bát giới 24
tiếng đồng hồ tại chùa.
Như vậy, nghi lễ sám
hối ta có sai chơn truyền chánh pháp hay không? Xin thưa là hoàn
toàn không sai, có lẽ quí Ngài truyền giáo nghĩ rằng trong
những ngày trên là ngày sám hối và làm lễ Phát lồ của chư
Tăng có trong kinh Luật. Thế thì thiết tưởng ngày sám hối,
để Phật tử tại gia có dịp chính mình thốt lên bằng
khẩu trước Phật đài lời sám hối tội lỗi. Cũng nhờ cơ
hội như thế để Phật tử tập họp đến chùa nghe kinh thính
pháp hầu sớm lãnh hội được chơn lý.
Còn vấn đề sám hối có
hết tội hay không là còn tùy ở sự ăn năn hối lỗi của
đương sự. Nếu chúng ta hối hận và làm lành trở lại thì
đó cũng là một phương pháp giúp ta không tái phạm nữa.
Nghi thức lễ sám hối
thì chẳng có chi rườm rà cả, trong những ngày kể trên, sau
khi lễ Phật quí Phật tử chỉ cần đọc bài sám hối và
nguyện từ nay sẽ không dể duôi để bị tái phạm những điều
tội lỗi (nếu có).
NGHI LỄ
THUYẾT PHÁP
Theo Phật giáo thì sự
hoằng pháp độ sanh là một vấn đề tối cần cho nền đạo
giáo. Có sự thuyết pháp giảng đạo thì quảng đại quần
chúng mới được hấp thụ giáo lý từ bi vô lượng của nhà
Phật. Nên các Giáo hội Phật giáo đã và đang đặt vấn đề
phổ biến giáo lý được phổ cập khắp nơi, khuyến khích
mọi người Phật tử ý thức việc thuyết pháp giảng đạo
là một trong những điều trọng yếu để phổ biến và sự
hiểu được phước báu của việc truyền bá Phật pháp.
Nên muốn được thông
hiểu dồi dào trí tuệ, người Phật tử trước hết cần
phải có sự tôn kính Pháp Bảo. Khi tổ chức thuyết pháp ta
cần trang hoàng nơi pháp tọa được cao ráo, sau đó tuần
tự những nghi thức chúng ta phải thực hiện như:
- Khi thỉnh Pháp sư an
tọa, Phật tử đảnh lễ 3 lần.
- Ðọc bài xin thọ trì tam quy ngũ giới hay Bát quan trai
giới.
- Khi Pháp sư đã truyền giới xong, chư Phật tử đọc bài
cung thỉnh Pháp sư. (Xin xem quyển Nhựt Hành của Ngài Hộ Tông)
- Khi Pháp sư thuyết pháp xong Phật tử đọc sám hối
Phật, Pháp, Tăng, vì e thân, khẩu, ý, bất tịnh trong khi
nghe pháp.
- Kế đến Pháp sư phúc chúc, sau khi xong chư Phật tử hồi
hướng phước báu đến các bậc ân nhân và tất cả chúng
sanh.
Trên đây là nghi thức
rất giản dị, song người Phật tử cũng cần phải thông
hiểu. Chúng tôi hy vọng rằng dù sao cũng giúp ích quý vị
một vài ý niệm về nghi lễ truyền đạo theo nhà Phật.
NGHI LỄ
NHIỄU PHẬT
"Nhiễu Phật"
tiếng Sanskrit gọi là Pradaksina, trong quyển kinh Mahaavessantarajaataka
hay Mahaajaataka (Chương Juujaka), Pradaksina hay
nhiễu vòng, là sự tỏ lòng cung kính hay thương yêu, đi
nhiễu chung quanh người hay vật ba vòng. Xưa kia có vị Bà La
Môn tên là Juujaka (Juujaka tên một vị hành khất
Bà la Môn có trong sự tích Mahaavessantarajaataka. Ông là 1
kẻ tham ăn quá độ, 1 hôm vì thọ thực quá nhiều, bể tung
dạ dày chết tại chỗ. Bởi lòng quá tham lam sau khi chết Ông
còn bỏ lại nhiều tiền của, do Ðức Vua Srii Saijaya
xuất cho Ông để chuộc lại Karisna và Paajalaa.)
của xứ Kaalinga. Ông Juujaka là người rất thương
vợ, để chứng tỏ sự yêu thương đó, trước khi ông rời
khỏi nhà ông đã đi nhiễu ngôi nhà và vợ ông ta là nàng Amittataapanaa
ba lần rồi mới ra đi, trong chuyến đi đến Bồ tát
Vessantara để xin hai đứa con của vị Bồ tát là Krisna
Paajaalaa đem về làm tôi tớ phụng sự bà vợ (Juujaka
VI. 521 - 4).
Do tích của vị Bà La Môn
thời Ðức Thế Tôn còn tại tiền, là một mẫu chuyện điển
hình cho sự tôn kính người hay vật đáng tôn kính thời xưa,
cho nên về sau Phật tử Ấn Ðộ và các nước Phật giáo trên
thế giới thấy việc làm có ý nghĩa nên chấp nhận và phổ
biến.
Ngày nay chư Tăng và
Phật tử bốn phương nhiễu Phật đi ba vòng ngôi chánh điện,
điển hình như: Lễ dâng y Ca sa, lễ xuất gia, thiện nam tín
nữ thường đội y, bát, tứ vật dụng đi nhiễu chung quanh
chánh điện để tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Pháp Bảo và
chư Tăng, trước khi đem vào chánh điện cúng dường, vậy chúng
ta nên hiểu rõ nghi lễ nhiễu Phật chỉ là môt phong tục
của người Ấn Ðộ thời xưa chứ không phải theo kinh
luật.
LỄ AN VỊ
PHẬT
An vị Phật là một nghi
thức do các hàng tín đồ xưa tổ chức là một nghi lễ rất
rườm rà, lắm khi sai lệch tôn chỉ từ bi và giáo lý chơn
truyền của Ðạo Phật, điển hình như: làm lễ khai nhãn,
hay truyền oai lực từ tượng Phật cũ sang tượng Phật mới
v.v... đây là những việc làm không cần thiết và không liên
quan đến việc thực hành theo giáo lý của Ðức Phật.
Tại sao chúng ta thờ
phuuợng và lễ bái Ðức Phật, trong khi Ngài không có mặt để
thọ lãnh sự lễ bái đó, mà chỉ là một hình tượng vô
tri vô giác. Ðứng trước pho tượng Phật người Phật tử
chỉ hồi nhớ lại những đặc tánh của Ngài, chúng ta phải
tri ân vì Ngài đã khám phá chơn lý và vạch ra con đường
giải thoát cho chúng sanh. Do đó không có việc xem tượng
Phật là một thần linh cần phải truyền oai lực.
Vậy người Phật tử
muốn làm lễ an vị Phật, chỉ cần thỉnh tượng Phật về
tư gia, tịnh xá, niệm Phật đường hay chùa chiền, an vị
một nơi trang nghiêm và thỉnh chư Tăng chứng minh lòng thành
của mình đối với Tam Bảo bằng thân, khẩu, ý, cúng dường
đến chư Tăng sau khi các vị tụng kinh như: Lễ bái Tam Bảo,
Phật cảm thắng ma vương... Ðó là một cách an vị Phật
rất giản dị và đúng theo nghi thức Phật giáo.
LỄ DÂNG CÚNG
TÀI SẢN CHÙA, ÐẤT, VẬT DỤNG
Cũng như các cuộc lễ dâng
cúng như y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc ngừa bệnh,
chư Tăng cũng có quyền thọ nhận tài sản của chư Phật
tử như: Ðất đai, chùa chiền, cốc liêu v.v...
Người Phật tử vì tin
rằng Tăng là phước điền của nhân loại, thì với lòng
trong sạch khi họ có bất cứ vật dụng nào mà chư Tăng
thọ dụng được, và có lợi ích cho Tăng già, thì họ sẵn
sàng cúng dường. Vì đó cũng là một cách dứt bỏ lòng
bỏn xẻn dâng cúng tài sản đến chư Tăng. Người Phật tử
tin rằng khi dứt bỏ tài sản mà mình quí mến thì sẽ giúp
cho tâm dứt được lòng keo kiệt mắc dính với tài sản.
Mặt khác sẽ được phước báu do công lao của họ tạo nên,
hầu gặt hái được phước lành, hồi hướng đến thân nhân
quyến thuộc đã quá vãng cũng như còn tại tiền được
những phần phước cao quí.
Nhưng tài sản dâng cúng
như cốc, liêu đến chư Tăng cũng phải làm đúng theo luật
lệ nhà Phật, nghĩa là: phải đúng thước tấc bề ngang,
bề dọc như luật dã quy định. Khi dâng cúng người Phật
tử phải đến trước Phật đài và phải có chư Tăng chứng
minh người Phật tử đọc lên bài dâng cúng và hài tên trước
chư Tăng những vật mình hiến dâng cho Tam Bảo bằng Paali
hay nghĩa.
LỄ THỌ ÐẦU
ÐÀ
Tiếng "Ðầu Ðà"
âm từ Phạn ngữ Dhuta"nga nghĩa là: Chi pháp của người
dứt phiền não. Có 13 pháp đầu đà dành cho các vị Tỳ Khưu
tinh tấn hành đạo:
1- Mặc y xấu.
2- Mặc Tam y.
3- Thường xuyên đi khất thực.
4- Ði khất thực từng nhà.
5- Khi thọ thực chỉ ngồi dùng một chỗ.
6- Thọ thực trong bát.
7- Không dùng vật thực mình đã từ khước không nhận.
8- Trú ngụ trong rừng.
9- Trú ngụ gần dưới cội cây.
10- Ngụ nơi đồng trống.
11- Ngụ nơi mộ địa.
12- Ngụ nơi Tăng đã cho phép ở đầu tiên.
13- Ngăn oai nghi nằm.
Ðầu Ðà là phương pháp
hành đạo dành cho chư Tỳ Khưu Tăng, là một lối tu tích
cực, mục đích giúp cho thiền định có hiệu lực nhiều.
Bởi càng thu thúc trong giới hạnh và đề mục thiền định,
con người càng định tâm được dễ dàng. Nhưng về sau các
hàng cư sĩ khi hành thiền định cũng đem một phần trong phương
pháp đầu đà ấy ra áp dụng. Như thọ đầu đà ngăn oai
nghi nằm, vì Phật tử tại gia cũng gặt hái được nhiều
kết quả trong pháp thiền quán, nên nay đã được phổ thông
áp dụng cho mọi giới Phật tử. Nhất là áp dụng vào hai ngày
Ðại lễ kỷ niệm là rằm tháng giêng và rằm tháng Tư...
Trong những ngày ấy Phật tử thường tổ chức một đêm không
ngủ không nằm, chỉ đi đứng và ngồi để kệ kinh, luận
đạo, tham thiền hầu suy xét công đức sâu dày của Ðức
Phật. Ðây cũng là phương pháp cúng dường Phật một cách
cao thượng và trau dồi cho thân tâm trở nên thanh tịnh.
PHƯƠNG PHÁP
THỌ ÐẦU ÐÀ
Khi đức Thế Tôn còn
tại tiền, chư Tăng phải đến trực tiếp thọ Ðầu đà
với Ðức Phật. Ðến khi đ?c Thế Tôn viên tịch, nghi thức
thọ trì Ðầu đà được các đại Thinh Văn phụ trách, khi
chư đại Thinh Văn không còn, lễ thọ Ðầu đà do các bậc A
La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Huờn truyền giáo. Sau đó
lễ thọ Ðầu đà do chư phàm Tăng giáo truyền đến những
Phật tử nguyện thọ, Phật tử cũng có thể tự phát
nguyện trước Phật đài.
Ðầu đà có ba bậc,
lời nguyện thọ trì như sau:
- Bậc hạ: Tôi xin
nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc hạ, ngăn oai nghi nằm
(có thể dựa vào giường, ghế v.v...).
- Bậc trung: Tôi xin
nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc trung, ngăn oai nghi nằm
(được phép dựa).
- Bậc thượng: Tôi xin
nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc thượng, ngăn oai nghi
nằm (ngồi không dựa).
Ba phép này hành giả không
được phép nằm trước khi mặt trời mọc, ngược lại gọi
là đã phá phép Ðầu đà mà mình đã nguyện thọ trì.
LỄ DÂNG Y
(KA.THINA)
Lễ này được tổ
chức một năm chỉ có một lần từ ngày 16-9 đến 15-10 âm
lịch. Nếu có thí chủ phát tâm trong sạch, muốn tổ chức
lễ dâng y đến chư Tăng ở chùa nào, thì phải đến bạch
với vị trụ trì ấy biết. Thí chủ trở về lo sắm y và các
lễ vật phụ tùng như: mùng, mền, chiếu, gối và thuốc
ngừa bệnh v.v... Một buổi lễ trai Tăng và bữa cơm thân
mật của chư Phật tử tùy theo khả năng của thí chủ, còn
nếu gia cảnh túng thiếu thì thí chủ có thể mua một ít
vải về làm lễ dâng y cũng được. Với tâm trong sạch vui
thích thì phước báu cũng bằng nhau, ngoài ra chúng ta cũng có
thể rủ bạn bè tổ chức lễ dâng y, thì phước báu càng tăng
thêm. Ðến ngày lễ thí chủ đem lễ vật đến chùa rồi
chia ra mọi người mỗi phần đội đi nhiễu Phật ba vòng. Cách
nhiễu Phật thì thường thường ta cho người đội Ðại y đi
trước, kế bình bát, đến y vai trái sau đến lễ vật phụ
tùng, nếu không còn vật chi chúng ta có thể cầm nhang, hoa
xếp thành hàng đi nhiễu Phật ba vòng chung quanh chánh điện,
giữ tâm vui thích với phước báu mà mình đang làm, và vừa
đi vừa đọc bài kệ dâng y Ca sa (Bài kệ đã được phỏng
theo Phật ngôn và phổ biến rộng rãi trong giới Phật tử
Nam Tông). Sau đó đem y và các vật phụ tùng vào chánh điện,
thỉnh chư Tăng và xin thọ tam quy, ngũ giới, xong rồi đọc bài
dâng y như sau:
"Maya.m bhante ima.m
ka.thina dussa.m sapparikkhaara.m bhikkhu sa"nghassa dema amhaaka.m
diigharatta.m atthaaya hitaaya sukhaaya. Dutiyampi, Tatiyampi."
Nghĩa: "Bạch hóa chư
Ðại đức Tăng chúng tôi xin thành kính dâng y Kathina này đến
chư Ðại đức, cầu xin chư Ðại đức nhận lãnh cho chúng tôi
được sự tấn hóa, sự lợi ích và sự bình an lâu dài.
Lần thứ nhì, lần thứ ba".
Sau khi dâng cúng đúng
luật lệ xong, chư Tăng hành lễ Tăng sự đứng theo luật, trước
Phật đài nơi có kiết giới để thọ dụng y Ca sa. Ðây là
một cách cúng dường đúng theo luật tạng, thí chủ sẽ hưởng
được nhiều phước báu.
LỄ THÀNH HÔN
Hôn lễ theo Phật giáo,
thông thường trước ngày chánh lễ, Phật tử cung thỉnh chư
Tăng về tư gia trai Tăng, hoặc có thể đến chùa để cử hành
hôn lễ.
Hôn lễ khởi đầu
Phật tử lễ bái Tam Bảo, xin thọ trì Tam quy, ngũ giới, kế
đó chư Tăng tụng kinh phúc chúc, nhất là Hạnh Phúc kinh, sau
đó vị Pháp sư thuyết Pháp đại ý nêu lên gương sống lý
tưởng trong gia đình, nhiệm vụ chồng đối với vợ và vợ
đối với chồng theo kinh điển nhà Phật.
Sự cử hành hôn lễ
tại chùa có rất nhiều sự lợi ích là: Ðôi tân hôn được
chiêm ngưỡng dung nhan của Ðức Phật, cung thỉnh chư Tăng đến
quy y, trì giới, để thực hành phận sự của người tại
gia cư sĩ đúng đắn. Khi có sự buồn phiền trong gia đình
hay muốn làm tội, nhớ ngày thành hôn tại nơi tôn nghiêm và
những lời dạy của chư Tăng dưới Phật đài, mà không dám
vi phạm điều tội lỗi.
LỄ MA CHAY
Mỗi khi trong gia đình có
người lâm chung, tang quyến cung thỉnh chư Tăng quang lâm đến
tư gia hoặc đến nghĩa địa để làm lễ cầu siêu độ.
Thoạt tiên chư Tăng tụng kinh lễ bái Tam Bảo, thiện tín xin
thọ trì ngũ giới, kế đó tang quyến mang vải trắng đến
đắp lên nhục thân người quá váng để chư Tăng tụng kinh
cầu siêu, và nhận lãnh vật dụng ấy.
Sau đó chư Tăng tụng
kinh thích hợp với hoàn cảnh đại ý như:
"Tất cả các vật
hữu lậu đều là vô thường.
Sanh lên và diệt hoại, đó là bản chất của tất cả.
Sanh ra kiếp chúng sanh rồi, nối tiếp hành trình.
Thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, là hạnh phúc tối thượng
"...
Sau khi tụng kinh xong,
vị Pháp sư thuyết pháp, ngụ ý nhấn mạnh đến tánh cách vô
thường của vạn hữu. Tất cả chúng sanh, người lúc thiếu
thời, người trưởng thành, cũng như lúc tuổi hạc đã cao
tất cả đều phải chết, chúng sanh đều có sự chết là điểm
cuối cùng.
Cuối cùng Phật tử
hồi hướng phước báu đến người quá vãng như:
"Xin hồi hướng công
đức này đến thân quyến tôi.
Ước mong các bậc ân nhân được thọ hưởng".
LỄ GIỖ
TỔ
Giỗ tổ là phong tục
tế lễ ông bà trong những ngày kỵ cơm. Hằng năm cứ đến
ngày giỗ ông bà cha mẹ đã quá vãng, thì con cái trong gia đình
tổ chức ngày lễ giỗ. Theo tục lệ người Việt Nam, cứ đến
ngày ấy là con cháu đến nhà một người chỉ định trông
nom phần hương khói để làm mâm cao cỗ đầy, đem lên bàn
thờ và cùng nhau cúng vái.
Nhưng đối với Phật giáo
thì Ðức Phật dạy Phật tử nên làm phước cúng dường đến
chư Tăng, nhờ tạo được phước lành ấy, rồi hồi hướng
đến ông bà cha mẹ, như vậy người quá váng có thể thọ
nhận phần phước ấy. Nếu họ bị sa đọa thì sẽ được
vơi bớt phần đau khổ ở cảnh địa ngục, bằng họ được
sanh vào cõi an vui thì nhờ phần phước ấy họ sẽ được tăng
thêm phần phúc huệ. Nhưng người Phật tử nên lưu ý sự
hồi hướng phước báu đến người quá cố, không phải
dợi đến ngày kỵ cơm, mà bất cứ ngày nào chúng ta tạo
được phước lành, cũng có thể hồi hướng đến người
ở bên kia thế giới. Vì Ðức Phật không cho sự tế lễ
theo phong tục là có lợi, làm như thế người quá vãng
chẳng được biết, nghe những điều ấy, việc làm đó
chẳng qua là chúng ta tụ họp để tổ chức một buổi tiệc
vui trong gia quyến. Ấy là không nói đến những buổi tiệc có
sát sanh làm cỗ, rượu chè say sưa, đó là việc chẳng
những vô ích đến người quá cố còn tạo thêm nhiều tội
lỗi.
LỄ CẦU SIÊU
ÐỘ
Buổi lễ tổ chức có
thể thỉnh chư Tăng đến tư gia để tụng kinh cầu siêu cho
những người quá vãng, không giới hạn thời gian. Buổi lễ
cũng có thể tổ chức vào lúc Tang lễ đang tiến hành, khi
quan tài của người quá vãng đang còn quàng tại tư gia,
Niệm Phật đường hay chùa chiền.
Ta nên lưu ý trong những
buổi lễ cầu siêu, chư Tăng sẽ tụng niệm những gì để
cầu siêu cho người quá cố. Ở điểm này chúng ta nên hiểu
rằng chư Tăng chỉ tụng những bài kinh như: năm điều quán
tưởng, vô thường khổ não vô ngã v.v... mục đích tụng
những bài kinh vừa kể là dành cho những người còn sống
nghe để quán tưởng đời là vô thường, khổ não, vô ngã,
chứ không phải tụng để cầu siêu cho người quá cố, người
quá cố có thể siêu độ hay không là do chính họ tạo từ
khi họ còn sinh tiền. Còn buổi lễ tạo phước lành để
hồi hướng đến người quá cố, nhờ phần phước của tang
quyến, có thể giúp người quá vãng được vơi phần nào
khổ sở dưới địa ngục hay sẽ tăng thêm phần phước ở
nhàn cảnh mà thôi.
LỄ CẦU AN
LÀNH
Theo kinh Paritta (Paritta:
Nghĩa là bảo vệ, hộ trì.) gồm những bài kinh sưu tầm
trong Tam tạng Paali, là những bài kinh tụng để cầu
cho người bệnh hay người gặp những nghịch cảnh. Ðây là
những bài kinh đã được Ðức Phật tán thành cho các hàng Tăng
chúng tụng niệm trong những dịp trên. (Dict. Pali Proper
Names. G.P.Mallasekera, Vol. II trang 157.)
Thông thường buổi lễ
được tổ chức tại tư gia hay chùa chiền. Phần nghi thức,
trước hết Phật tử làm lễ Tam Bảo, xong quay trở lại đối
diện chư Tăng đảnh lễ và xin thọ tam quy ngũ giới hay Bát
quan trai giới (nếu là ngày giới). Ðoạn thỉnh chư Tăng
tụng kinh Paritta hay cầu an. Buổi lễ diễn ra trong một
giờ đ?ng hồ hay ít hơn, có thể tổ chức vào buổi chiều
hay những giờ khác nếu thấy thuận tiện. Nếu buổi lễ
tổ chức vào những buổi chiều thì Phật tử cúng dường
những món giải lao như café, nước mía, mật ong v.v...
Người Phật tử tin
rằng chư Tăng là các bậc nghiêm trì giới đức trong sạch,
đáng cho người lễ bái cúng dường. Khi thỉnh chư Tăng đến
tụng kinh cầu an và dâng tứ vật dụng đến chư Tăng, nhờ
phước báu của lòng trong sạch đó, thí chủ xin cầu nguyện
cho người bệnh hoạn hay cho những điều lo sợ trong gia đình
đuợc tiêu tan và được an vui hạnh phúc.
ÐỂ BÁT CHƯ
TĂNG
Theo Luật tạng, vị Tỳ
Khưu xuất gia phải thệ nguyện trước Phật đài có chư Tăng
chứng minh, là sẽ sống suốt đời bằng những món ăn đi trì
bình, khất thực, tức là phải sống với Tam y bình bát, đó
là tài sản duy nhất của các vị Tỳ Khưu. Chư Tăng là các
bậc thừa hành theo giáo pháp từ bi của đức Thế Tôn. Về
phần người Phật tử khi muốn bảo tồn Tam Bảo, thì công
việc giúp ích cho chư Tăng duy trì ngôi Tam Bảo là bổn phận
thiêng liêng, do đó khi chư Tăng đến nhà để trì bình, chúng
ta hoan hỉ cúng dường những vật thực đến các Ngài. Nhưng
điều cần ghi nhớ là những vật thực dâng cúng đó phải
được nấu chín. Nếu trong nhà có dù một vá cơm hay đĩa
muối với lòng trong sạch cũng có thể dâng cúng đến chư Tăng.
Sự cúng dư?ng như thế người Phật tử sẽ có nhiều phước
báu, vì Tăng và giới luật còn thì Phật Pháp mới trường
tồn hưng thịnh.
Nghi lễ cúng dường để
bát, muốn được nhiều phước báu thì người Phật tử
phải mau mắn, khi chư Tăng đến, tự mình phải đem những
vật thực sẵn có đến trước vị Sư, sau khi đã bỏ giày dép,
xá chào và cung kính ta từ từ để vật thực vào bát một cách
nhẹ nhàng. Khi để bát xong người Phật tử lui ra và xá chào.
Ðó là cách để bát cúng dường đến chư Tăng đúng đắn.
-ooOoo-
PHẦN LỄ GIÁO
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ PHỤC SỨC
Nói đến cách phục
sức là chúng ta liên tưởng ngay sự ăn mặc hay trang điểm
cho hợp thời trang. Ta nhận thấy, mỗi quốc gia đều có bộ
quốc phục riêng để dành khi ra đường hoặc vào những
dịp hội hè đình đám hay những ngày lễ mang tính cách tôn
giáo, cổ truyền của dân tộc. Tuy nhiên, ngoài bộ quốc
phục, chúng ta còn thấy rất nhiều loại y phục khác theo
thời trang đã lan tràn khắp trong xã hội trên thế giới.
Loại y phục này càng ngày càng trở nên thông dụng trong
mọi tầng lớp dân chúng, khiến cho những ngày Quốc lễ hay
Tôn giáo lễ cũng được mang ra sử dụng, điều này thật
tai hại nếu chúng ta không ý thức được hoàn cảnh để tùy
nghi phục sức.
Ðối với những nơi
phồn hoa đô hội hay những cuộc vui chơi thì sự ăn mặc không
nhất thiết, miễn sao thích hợp tánh ý mọi người thì thôi.
Còn ở nơi trang nghiêm thờ phuuợng của các tôn giáo thì
phải khác. Ðối với Phật giáo, sự phục sức rất quan
trọng, vì dù sao bộ y phục gọn gàng và kín đáo cũng là
một thể thức để phô bày cá tính và tư cách của mình.
Mặt khác, với bộ y phục chỉnh tề tuy nó là lối phục
sức cho thân xác bên ngoài, nhưng cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến tinh thần trừu tượng bên trong.
Tóm lại, người Phật
tử muốn cho mục đích tu hành được trong sạch và trang nghiêm
cần phải dè dặt mọi hành vi, cử chỉ kể cả lối trang
sức cũng nên thận trọng. Cách ăn mặc tốt nhất trong
những ngày lễ tôn giáo là nên mặc Quốc phục. Bởi vì sự
đua đòi là điều có thể khiến cho ta khó tập trung tư tưởng
về với qui luật của tôn giáo cũng như gây trở ngại cho bước
đường tu và giải thoát nữa.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ ÐẾN CHÙA
Sự tôn sùng ngôi Tam
Bảo là bổn phận thiêng liêng của người Phật tử. Khi chư
Phật tử đến chùa thì phải tỏ lòng tôn kính Ðức Phật,
Pháp Bảo và chư Tăng tuần tự như sau: trước tiên khi đến
chùa ta phải cởi giày dép, khăn, nón rồi vào chánh điện để
dâng hương cúng Phật. Sau đó tùy theo công việc riêng tư
của mỗi người có thể làm bất cứ công quả nào như quét
tước, lau chùi, hay lo những công việc khác như hộ độ chư
Tăng hoặc những công việc cần thiết cho nhà chùa. Chúng ta
cũng có thể tìm chư Ðại đức Tăng để học đạo; trong
suốt thời gian có mặt tại chùa thì tâm hồn người Phật
tử phải hướng thượng, lời nói nhã nhặn, đối với chư
Tăng cũng như người liên hệ.
Vậy, mỗi người Phật
tử khi đến chùa, cần phải học hỏi những gì mà chư Tăng
chỉ bảo, hầu tô điểm thêm nghi thức đứng đắn và tạo
cho mình được nhiều phước báu trong ngày vị lai.
LỐI XƯNG HÔ
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ ÐỐI VỚI CHƯ TĂNG
Người Phật tử cũng có
lối xưng hô đối với chư Tăng, cũng như trong gia đình con cái
gọi các bậc sinh thành hay cách xưng hô với người thân kẻ
sơ. Trong Phật giáo người Phật tử cũng có các bậc Thầy
Tổ mà mình đã thọ quy giới, hay các vị Tăng, ni; trên phương
diện xưng hô người Phật tử gọi các Ngài bằng Ðại Ðức,
Sư, Thầy, Ni sư v.v... Bởi vì luật lệ đối với Tôn giáo
nhất là Phật giáo chúng ta, về tôn ty trật tự như người
nhỏ kẻ lớn rất quan trọng và dân chủ thật sự đối
với thế hệ hiện tại.
Ví dụ: Một nhà vua khi
xuất gia đầu Phật phải đảnh lễ hoặc xem một vị thứ dân
xuất gia trước mình dù một giây phút và lối xưng hô cũng
phải thưa gởi đối với bậc cao hạ hơn. Cũng vậy, Phật
tử khi tiếp xúc với nhà sư thì cũng phải xưng hô với
tất cả lòng thành kính. Chẳng hạn như khi đối diện với
quý Sư ta chắp tay vái chào xưng hô con và nói những câu như
"Thưa Sư" hay "Bạch Sư" con xin đảnh lễ
v.v...
Người Phật tử muốn
cho tôn giáo mình có một lối lễ giáo thanh nhã thì chúng ta
là những người Phật tử cần phải chính mình thực hành
theo cách xưng hô trình bày trên, và dạy dỗ cho con cái sớm
biết lối xưng hô đối với nhà sư, đó là một việc rất
tốt và lợi lạc.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ ÐỐI DIỆN VỚI CHƯ TĂNG TRÊN ÐƯỜNG ÐI HAY NƠI
ÐÔ HỘI
Trong Phật Giáo có câu
"Trọng Phật thì phải kính Tăng", qua câu nói trên ta
thấy rằng sự kính trọng Tăng là một viêc rất đúng đắn.
Vì chư Tăng là các bậc đã dứt bỏ tất cả vương vấn
của đời thế tục, để đi theo con đường mà trước đây
đức Thế Tôn đã đi và tìm ra chân lý. Do đó sự kính
trọng chư Tăng đối với người Phật tử cần phải có. Nhưng
sự kính trọng chư Tăng bằng cách nào? Ðối diện với các
Ngài tại chùa và lúc gặp ở giữa đường hay nơi đô hội,
phải vái chào làm sao? Ðó là những vấn đề đôi khi chúng
ta không nghĩ đến, song nó cũng không kém phần quan trọng.
Trong khi đến chùa, chúng ta phải đảnh lễ như ta cung kính
đức Phật, sau đó ta hỏi thăm chư Tăng những việc gì cần
thiết, về giáo lý nếu có thắc mắc, ta cũng có thể xin chư
Tăng giải đáp những gì mình muốn biết. Nhưng khi gặp chư
Tăng ở giữa đường hay những nơi đô hội ta chỉ chắp tay
vái chào, thay vì quỳ xuống đảnh lễ. Vì làm như thế ta có
thể gây cho những người chung quanh cảm thấy chướng mắt,
dù hành động ấy vẫn được xem là sự tôn kính chư Tăng
hiệp theo lẽ đạo.
KHI NGƯỜI
TÍN ÐỒ CUNG THỈNH CHƯ TĂNG VỀ TƯ GIA
Giới luật đối với chư
Tăng là việc tối cần. Vì trong kinh cũng có câu: "Giới
luật còn, thì Phật Pháp mới còn". Bởi vậy, chư Tăng
triệt để theo dõi từ hành vi, cử chỉ của mình từng sát
na. Còn người Phật tử khi giao thiệp cũng phải dè dặt e
phạm đến giới luật hay phẩm giá của nhà tu. Chẳng hạn
khi thiện nam tín nữ cung thỉnh chư Tăng đi đến tư gia,
một cách thành thật và tôn kính thì chư Tăng mới được phép
đến tư gia ấy. Vì vậy để bảo tồn giới luật và tinh
hoa tươi đẹp ấy của nhà Phật, Phật tử phải hết lòng
thành kính đối đãi với chư Tăng khi đến tư gia của mình,
bằng cách ta không nên ngồi nơi cao quý và dành chỗ thấp kém
cho chư Tăng, không nên dùng những món ăn quý và dâng cho chư
Tăng những món ăn không ngon, kém giá trị. Nếu sự việc có
xảy ra chư Tăng không bao giờ tỏ thái độ, vẫn điềm nhiên;
nhưng lần thứ nhì, có sự cung thỉnh chư Tăng sẽ không đến
dự, mặc dù theo giới luật các Ngài không có quyền đòi
hởi, phải xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Song vì
phạm hạnh hay Tăng tướng của tôn giáo bị xúc phạm, nên
luật bắt buộc chư Tăng phải xử sự như thế.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ CÚNG DƯỜNG TỨ VẬT DỤNG ÐẾN CHƯ TĂNG
Sự dâng cúng vật dụng
đến chư Tăng là cách tạo nên nhiều phước báu của người
Phật tử. Vì chư Tăng là những vị xuất gia, thì sự hộ độ
của chúng ta đến các Ngài cũng là điều cần thiết. Hằng
ngày ta dâng tứ vật dụng đến chư Tăng. Nói đến tứ vật
dụng người Phật tử phải hiểu ngay là những món cần dùng
cho tu sĩ Phật giáo như:
- Y phục: Tam y và
những đồ phụ tùng.
- Vật thực: Các món ăn nhà Sư có thể dùng từ sớm mai
cho đến giờ Ngọ
- Chỗ ngụ: Cốc, liêu, mền, chiếu, gối v.v...
- Thuốc ngừa bệnh: Sữa nước mía, mật ong, các thứ
thuốc trừ bệnh.
Trong bốn món vật
dụng, có thực phẩm là chúng ta dâng cúng đến chư Tăng từ
bình minh vừa ló dạng cho đến 12 giờ trưa, còn ba món vật
dụng còn lại người Phật tử có thể dâng cúng bất cứ lúc
nào, nhưng điều đặc biệt chúng ta cần nhớ là:
a) Nếu là vật thực như
trái cây có hạt nhỏ như: trái ổi, cam, lựu, ớt v.v... Khi cúng
dường chúng ta cần phải làm cho đúng luật chế định
tiếng Phạn gọi là Kappiya.
Ví dụ: Một dĩa trái cây
vừa kể, trước khi dâng đến tay nhà sư ta chỉ cần cắt
một trái để lên trên rồi dâng cả dĩa trái cây ấy, như
thế được gọi là hợp lệ, nhà sư có dùng mà không sợ
phạm tội giết hạt giống.
b) Tất cả các món vật
dụng nhẹ, một người có thể bưng hoặc cầm được thì dâng
đến gần nhà sư lối một hắc, một gang đưa tận tay chư sư.
Còn những món vật dụng nặng nề hay không thể cầm được
như cốc, liêu, giường, tủ v.v... chúng ta dâng chư Tăng
bằng khẩu, nghĩa là đem những món ấy đến chùa và bạch
với chư Tăng rằng: "Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chúng
con xin dâng những món (hài tên) này đến chư Tăng xin các ngài
hoan hỷ thọ lãnh, cho chúng con được sự lợi ích. "
Lưu ý: Người Phật tử
khi dâng cúng vật dụng phải là những vật dụng phát sinh
hiệp theo lẽ đạo, được vậy thì phước báu mới được
dồi dào, Bồ đề tâm mới phát triển.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ TỔ CHỨC LỄ
Bất cứ cuộc lễ nào
thuộc Phật giáo, điển hình như dâng y, chúc thọ, trai Tăng,
cầu siêu, cầu an v.v... Người Phật tử đều có thể tổ
chức, muốn tổ chức những buổi lễ nói trên, trước hết
chúng ta đến chùa bạch với vị trụ trì hoặc một vị tăng
trưởng để xin được tổ chức.
Thí dụ: Như lễ trai Tăng chẳng hạn.
Công việc đầu tiên là
lễ bái Tam Bảo, kế đó xin thọ tam quy và ngũ giới (có
thể đọc Phạn ngữ hay nghĩa cũng được), sau khi thọ giới
xong thí chủ đọc bài kinh dâng cúng rồi bắt đầu đem
những món cần thiết mà thí chủ đã chuẩn bị, xin dâng cúng
đến chư Tăng. Tiếp theo chư Tăng tụng kinh phúc chúc, lúc chư
Tăng tụng kinh thì thí chủ phải thành tâm chắp tay tỏ lòng
thành kính và chăm chú nghe kinh. Chư Tăng phúc chúc xong rồi
thí chủ nên hồi hướng phước báu đến thân bằng quyến
thuộc và sau đó đến tất cả chúng sanh.
Tóm lại, buổi lễ trên
là buổi lễ thường xuyên được Phật tử lưu ý, nhưng khi
bố thí tâm phải trong sạch, những vật dâng cúng đều
hiệp theo lẽ đạo thì phước báu mới được tròn đủ.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ THÍNH PHÁP
Pháp bảo là ngôi quý báu
thứ hai trong Tam Bảo. Chúng ta là tín đồ hay cư sĩ bao giờ
cũng phải tỏ lòng tôn kính, vì Pháp bảo là kim ngôn cao thượng
của đức Thích Ca Mâu Ni. Sự tôn kính đối với Pháp bảo có
nhiều cách và trường hợp khác nhau. Sự tôn kính qua lời nói
như chúng ta không bao giờ xem thường, hay phỉ báng Pháp bảo
bằng cách chê bai làm hạ giá trị của Phật ngôn. Sự thính
Pháp, bố thí Pháp có rất nhiều phước báu, là trí tuệ chơn
chánh phát sanh, nên hằng ngày chúng ta đến chùa nghe pháp
hoặc đóng góp ít nhiều công của để in kinh, phổ biến.
Chúng ta cũng có thể
thuyết pháp hay giảng đạo, phiên dịch kinh điển nhà Phật,
mục đích giúp ích cho mọi người thông hiểu giáo lý từ bi
vô lượng của đức Phật. Khi thính Pháp thì chúng ta cũng
phải tỏ lòng thành kính chăm chú nghe, suy luận những lời
Phật ngôn mà Pháp sư trùng tuyên lại. Không nên nói chuyện
làm ồn hoặc tỏ vẻ khinh thường Pháp thí hoặc có thể
bất bình hay sân hận vì bài Pháp có ý xây dựng chung.
Nói tóm lại, khi thính
pháp người Phật tử phải tỏ thái độ sùng kính Pháp
bảo, ngồi nghiêm trang hai tay chắp lại ngay ngắn, tâm hồn
tập trung theo dõi lời giảng dạy, hãy xuy xét, đắn đo điều
hay lẽ phải hầu ghi nhớ để áp dụng trong đời sống thường
nhật của chúng ta.
KHI NGƯỜI
PHẬT TỬ TẠO PHƯỚC BÁU
Chúng ta là người Phật
tử, đối tượng thiêng liêng của chúng ta là Tam Bảo. Ðặc
biệt trong ngôi Tam Bảo, ngôi thứ ba tức Tăng bảo có một
giá trị liên hệ mật thiết với chúng ta. Ðức Phật gọi Tăng
bảo là phúc điền của chúng sanh, tức là ruộng phước, nơi
mà chúng sanh đem những hạt giống lành gieo trồng trên
những thửa ruộng ấy và sẽ gặt hái hoa quả ở ngày vị
lai. Nhưng chúng ta cần phải sáng suốt, tìm những thửa
ruộng màu mỡ trước khi gieo trồng hạt giống lành ấy. Nghĩa
là phải tìm những vị tu hành đúng theo chơn truyền chánh pháp
và nghiêm trì giới luật trong sạch mà bố thí cúng dường.
Khi bố thí tâm phải trong sạch, ta cúng dường với ý niệm
dứt lòng tham lam. Ðược vậy ta sẽ tạo được phước báu
cao quí. Những người không hiểu biết giáo lý hành động
theo ý muốn riêng tư, họ bố thí đ? cầu danh, trục lợi thì
chắc chắn kết quả sẽ không được cao đẹp, mà lắm khi còn
có tội hay tốn công mất của vô bổ nữa là khác.
Vậy, khi bố thí ta cũng
nên ý thức trách nhiệm để xứng đáng là một người
Phật tử ngoan đạo.
PHẬT TỬ
KHI NGHE KINH
Trong các nghi lễ Phật
giáo, tụng niệm cũng là một nghi thức của chư Tăng như:
Tụng kinh cầu siêu, cần an, kinh chúc thọ cho các bậc ân nhân,
kinh chúc an lành cho nhà vua v.v...
Theo Phật giáo Nguyên
Thủy thì bất cứ các nghi thức tụng niệm nào nói trên đều
được một người hay một nhóm đông Phật tử tổ chức và
cung thỉnh chư Ðại đức đến tham dự. Trước hết Phật
tử cần phải trang hoàng nơi hành lễ cho trang nghiêm, nơi chư
Tăng an tọa phải cao ráo hơn tín đồ. Sau khi hoàn tất các
việc trên, chúng ta làm lễ thọ trì Tam quy ngũ giới, rồi
thỉnh chư Tăng tụng kinh. Khi chư Tăng đang tụng kinh Chư
Phật tử phải chắp tay tỏ lòng tôn kính, chăm chú nghe, cũng
như giữ gìn sự yên lặng. Ðó là cử chỉ tỏ cho mọi người
thấy sự sùng kính Pháp bảo và nội tâm mình cũng giữ được
đức tánh trang nghiêm không xao lãng.
Chư Tăng hết lòng tụng
niệm, Chư Phật tử thành tâm ngưỡng mộ nghe theo, nhờ sự
hòa hợp một lòng tôn sùng Pháp Bảo đúng đắn như vậy, chúng
ta mới có thể chính mình hưởng được phước báu đầy đủ
và hồi hướng đến các bậc ân nhân có hiệu lực.
PHẬT TỬ TÂM
NIỆM TRONG NHỮNG NGÀY BÁT QUAN TRAI GIỚI.
Bát quan trai giới định
kỳ là một phương pháp xuất gia tạm cho các hàng tại gia cư
sĩ, những kỳ Bát quan 8 ngày trong tháng là ngày mùng 5, 8, 14,
15, 20, 23, 29, 30, trong những ngày giới các hàng cư sĩ phải
đích thân đến chùa, hoặc cũng có thể phát nguyện tại tư
gia dưới điện thờ Phật từ rạng đông, để sự thọ
giới được trọn vẹn phước báu.
Nếu chúng ta không bận
bịu cho cuộc sống hàng ngày, thì 24 tiếng đồng hồ ngày
giờ nên đến chùa xin nguyện thọ và trong suốt thời gian
nghiêm trì Giới Luật tại chùa, Phật Tử khép mình vào khuôn
khổ như đọc kinh, niệm Phật, chú tâm vào đề mục thiền
định, bốn oai nghi đi, đứng, nằm ngồi phải yên tịnh,
kiểm điểm những giới cấm và quán xét xem đã có phạm điều
nào trong 8 giới. Ðồng thời theo dõi từng sát na trước khi
hành động và ngăn cản không để phạm điều luật.
Ngoài việc trau giồi cho
thân, khẩu, ý được trong sạch và thanh tịnh, chúng ta cũng
có thể làm công quả trong chùa như: quét tước, lau chùi,
hộ độ chư Tăng tạo thêm phần phước thanh cao và gieo duyên
lành để trở nên người Phật tử đúng đắn, hầu làm gương
cho kẻ thế.
PHẬT TỬ TÂM
NIỆM HẰNG NGÀY
Khi đã nói là người
Phật Tử, thì bao giờ cũng phải ý thức trách nhiệm và
bổn phận của một người con Phật. Dù sống ở nơi phồn
hoa đô hội, những đền chùa, thánh tích, hoặc bất cứ
trong hoàn cảnh vui buồn nào, người Phật tử vẫn phải ghi
nhớ và biết mình là người con Phật, tất cả những hành
vi, cử chỉ đều phải được kiểm soát, tự phê phán khi mình
hành động sai, quấy để đúng với tư cách của người đã
thệ nguyện nương theo Tam Bảo. Hằng ngày ta nên tâm niệm,
trước hết chỉ có Tam Bảo là đấng Tối thượng đáng cho
ta nương theo, để lòng sùng kính được bảo tồn. Ta cần
phải luôn nhớ đến 5 điều giới cấm, kiểm điểm từng
giới một xem ta đã giữ gìn được trong sạch không.
Ngoài ra, ta còn phải
kiểm điểm từng động tác qua tam nghiệp hay thân, khẩu, ý
ta sẽ phạm chăng, nếu ta hành động như thế này hay thế
kia. Mặt khác, chúng ta phải nhận thức cuộc đời là vô thường,
khổ não và vô ngã và từng giây phút trong bốn oai nghi, tâm
đều phải khắn khít trong đề mục thiền định. Khi có tâm
niệm đúng đắn thì cuộc sống chúng ta không bị nhàm chán
và lo âu, nỗi khổ niềm vui đối với người Phật tử là
lẽ thường, không khiến cho chúng ta quá nông nổi khi có điều
bất trắc xảy đến hay không quên mình để vui quá độ.
PHẬT TỬ
ÐỐI VỚI CÁC NGHI LỄ THUỘC TẬP TỤC
Phật giáo là một tôn
giáo, giáo hóa chúng sanh theo con đường giải thoát của Ðức
Phật. Mục đích cứu cánh là Niết Bàn; người Phật tử
chỉ nương theo hai Pháp học và Pháp hành, để tự tạo cho mình
một hướng đi đến Chân Thiện Mỹ. Vì vậy những nghi
thức trong Phật giáo được trình bày rất giản dị, không bày
biện hay bịa đặt rườm rà, những sự chưng bày phuút tạp
ấy không mang lại lợi lộc gì cho sự giải thoát.
Trước muôn ngàn phong
tục tập quán của dân tộc, điển hình như ma chay, giỗ
tổ, thí vàng v.v... Người Phật tử phải ý thức việc làm
và cải cách như thế nào để những nghi lễ ấy hợp theo
lẽ đạo.
Ví dụ: Ngày giỗ tổ xưa
kia, ta mang vật thực lên giường thờ thắp hương đèn cúng
vái, khi nhang đã tàn, vật thực được mang xuống rồi gia đình
hội họp tất cả quây quần dự tiệc vui vầy. Thế là đã
xong một nghi lễ theo thế hệ xa xưa. Nhưng với người Phật
tử, chúng ta cho việc làm ấy xa chơn lý nhà Phật, và không
ích lợi cho người quá cố, nên thay vì tổ chức như trên,
người Phật tử cung thỉnh chư Tăng cúng dường vật thực
hay để bát rồi hồi hướng phước báu cho người quá vãng.
Riêng phong tục có tính
cách dị đoan, mê tín như cúng cô hồn, hay thí vàng là một
tục lệ chung được phổ biến các nơi, do các nhà lãnh đạo
mê tín ngày xưa bày ra, không ích lợi cho người quá vãng, cũng
như người tại tiền, và sai chân lý nhà Phật, Phật tử không
nên tham gia.
PHẬT TỬ
KHI THỆ NGUYỆN
Nói về sự thệ nguyện
trong Phật giáo thì dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc
khác trên thế giới, khi đến đền, chùa và những nơi thờ
phuuợng các thần linh, hay trong khi bố thí cúng dường đến
ai người ta thường phát nguyện. Lời nguyện cầu của mỗi
người tùy ở đức tin, sự hiểu biết và lòng hâm mộ của
riêng tôn giáo mình. Lời thệ nguyện của một số người mê
tín dị đoan thì họ thường xem các tượng Phật hay các
thần linh là những đấng tối cao có quyền năng có thể ban
ơn cho mình; họ nguyện cầu các đấng thiêng liêng ấy phò
hộ cho tai qua nạn khỏi, tài lộc phát sanh, thành công như ý....
Họ xem các vị thần linh ấy như là những thần tượng có
nhiều oai lực, thưởng phạt loài người, tin rằng với
những lễ vật mà họ thành kính hiến dâng, lòng ngưỡng
mộ tha thiết, van vái trước các hình tượng ấy thì các
vị sẽ ban ơn bố đức cho họ. Với những cử chỉ và lòng
tin sai lầm như vậy đã lưu truyền từ cổ chí kim, từ ông
cha ta cho đến chúng ta ngày nay, cứ tin tưởng và làm như
vậy. Rất hiếm có người hiểu rõ chơn lý từ bỏ các điều
sai ấy thậm chí còn phổ biến tư tưởng dị đoan mê tín không
căn cứ trong tôn giáo như Phật giáo để Phật tử hành động
theo.
Phật tử là người
hiểu rõ chơn lý ngày nay, đã ý thức được chánh tà, nên
tự mình từ bỏ mê tín dị đoan, Không tin tưởng các vị
thần linh, không lễ bái cúng dường, không cho rằng những
vị đó có thể ban bố phước lành. Song đứng trước Phật
đài, hay trong những khi làm việc lành người Phật tử có
thể có những lời nguyện như:
a) Dưới ánh hào quang
của đức Thế Tôn có Chư Tăng chứng giám lòng trong sạch
của con, hôm nay con xin cúng dường trì trai giữ giới,
phụng sự Tam Bảo và thực hiện pháp lành hợp theo lẽ đạo,
qua hành động ấy con xin nguyện được đạo quả viên thành
và Bồ đề tâm viên mãn.
b) Trước Phật đài có
chư Tăng chứng kiến, do lòng trong sạch cúng dường hợp
theo lẽ đạo, do nhờ oai lực phước báu ấy con xin nguyện
sớm diệt trừ được lòng tham lam, khi tái sanh kiếp nào
con hằng gặp chánh pháp, để sớm được giải thoát.
c) Dưới chân Phật
Tổ có chư Tăng chứng minh, phước báu phát sinh do lòng
trong sạch hành đạo hay cúng dường tài và pháp thí hợp
theo lẽ đạo con xin hồi hướng đến cửu huyền thất
tổ, Ông bà, cha mẹ, nội ngoại hai bên. Do phước báu ấy
con cầu xin các vị ấy thoát khỏi khổ cảnh hay phúc được
tăng bồi.
Người Phật tử có
thể nguyện một trong những lời thệ nguyện trên, hoặc
những lời phát nguyện tương tự nhưng không ẩn ý có tính
cách mê tín dị đoan. Vì những lời thề nguyện sai trái ấy
chẳng những không có hiệu quả mà còn có thể phạm tội là
đàng khác. Hoặc chúng ta không cần phải nguyện chi cả mà
chỉ cầu mong được thoát khỏi kiếp luân hồi.
BỔN PHẬN
ÐỐI VỚI CHA MẸ
Theo Phật Giáo đối
với cha mẹ cái ơn mà người con mang trong lòng không thể nào
lường được, dù cho con có phải vì cha mẹ hy sinh đến tánh
mạng đi nữa cũng chỉ có thể đáp lại phần nào trong muôn
một công ơn sanh thành dưỡng dục mà thôi. Vì vậy đức
Thế Tôn có dạy b?n phận làm con đối với cha mẹ có 5 pháp:
1. Nuôi dưỡng cha mẹ
(Bhara.na).
2. Làm việc thay thế cha mẹ (Kiccakara.na).
3. Gìn giữ gia tộc được bền vững (Kulava.m sa.thapana).
4. Nết hạnh xứng đáng hưởng gia tài (Dayajjaa
hapa.tipajjana).
5. Tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá vãng (Dakkhinaa.nuppadaana).
Cha mẹ là nguồn hạnh
phúc vô bờ bến của các con, vậy bổn phận làm con, chúng
ta hãy tôn trọng ý muốn của cha mẹ, trong lời nói, trong
việc làm, cách đi đứng, trong tác phong hằng ngày, phải
tạo cho cha mẹ đời sống an nhàn, làm việc giúp đỡ cha
mẹ hy sinh những thích thú riêng mình để làm vui lòng cha
mẹ. Giữ tiếng tốt cho gia đình, dù cha mẹ khuất bóng, luôn
luôn tôn trọng thanh danh gia tộc như vật thiêng liêng cao
cả.
Về mặt tinh thần, chúng
ta không phải chỉ lo cho cha mẹ được đầy đủ tiện nghi
vật chất là đủ, mà còn phải cố gắng tạo lập cho cha
mẹ một đời sống tinh thần an vui hạnh phúc; hướng dẫn
cha mẹ sống một cuộc đời đạo hạnh, bố thí, trì giới,
tham thiền. Khi cha mẹ quás vãng, các con làm điều thiện,
hồi hướng những quảr lành đó cho cha mẹ, vì khi cha mẹ
qua đời đôi khi thọ sanh vào khổ cảnh, hằng ngày mong chờ
thọ hưởng những phần phước cao quí của thân nhân quyến
thuộc để có thể được siêu thoát, những hành động đó
vẫn đem lại hạnh phúc cho người con hiếu thảo và cũng để
tỏ lòng tri ân cha mẹ, hầu nêu gương hiếu đạo cho con cháu
noi theo. Nếu người con có đầy đủ năm điều Phật dạy trên
sẽ tạo cho mình trở nên một người con hiếu để, được
mọi người kính vì và tạo cho mình một sự hạnh phúc cao
thượng hiệp theo lẽ đạo.
CHA MẸ ÐỐI
VỚI CON
Lòng thương lai láng
của cha mẹ tựa hồ như nước mưa từ không trung rơi
xuống, đem lại bao nhiêu hạnh phúc cho các con, không màng đến
sự biết ơn. Thật vậy người làm cha mẹ không bao giờ trông
dợi sự đền ơn trả thảo của con, một người cha lành,
một người mẹ cao quí bao giờ cũng dành để cho con tất
cả cái gì quí báu nhứt của mình, hy sinh tất cả và tìm
hạnh phúc an vui của chính mình trong sự an vui hạnh phúc
của con, dù giàu hay nghèo cha mẹ luôn luôn nghĩ đến vấn đề
giáo d?c cho con, nếu phải tiêu xài bao nhiêu tiền của cũng
không tiếc. Niềm vui sướng nhứt đời của cha mẹ là thấy
con được nên người và sống đầy đủ trong sự yên lành
vui vẻ.
Một khi cha mẹ muốn
dắt dẫn con đi con đường thiện, cha mẹ phải làm gương,
sống cuộc đời hiền lương đạo đức, con cái sẽ xu hướng
theo hành động của cha mẹ và làm những việc của cha mẹ làm
không cần hiểu lý do. Rất khó gặp được đứa con cao thượng
khi cha mẹ hư hèn, cũng như cha mẹ đạo đức mà con cái hư
hỏng, đó cũng do nghiệp lực của tiền kiếp, nhưng cũng
ảnh hưởng một phần nào của cha mẹ mà thôi.
Vậy làm cha mẹ phải
thận trọng trau dồi thân, khẩu cho trong sạch để tránh
truyền nhiễm những tật xấu cho con về tinh thần và thể xác.
Theo Phật giáo sau khi sinh thành, lúc dưỡng dục cha mẹ còn có
năm đức độ đối với con:
1- Ngăn cấm không cho
con làm điều ác (Paapaa .nivaarenti).
2- Hướng dẫn con làm điều lành (Kalyaa.no nivesenti).
3- Cho con học hỏi nghề nghiệp (Sippa.m sikkhaapenti).
4- Dựng vợ gả chồng cho con tùy gia phong (Pa.tirupena
daarena sa.m yojenti).
5- Chia của cải cho con hợp thời (Samaye daayajja.m a
niyyaadenti).
Trên đây là năm điều
căn bản của cha mẹ đối với con nam, nữ với tất cả lòng
bao dung độ lượng. Ngược lại nếu thiếu năm điều căn
bản trên, kẻ làm cha mẹ không thể hiện đầy đủ bổn
phận của mình đối với con cái.
BỔN PHẬN
ÐỐI VỚI CHỒNG
Ðức tánh tự nhiên
thuộc về những gì gọi là mềm mại, yếu ớt hay nhu mì
v.v... thì thường thường tượng trưng cho nữ giới. Nên xưa
nay nữ giới được xem như đại diện cho thành phần vừa
kể.
Hôn nhân là cuộc sống
chân thành giữa người vợ và người chồng, nhưng nhiều người
đã làm cho đời sống gia đình trở thành một tội khổ, vì
thiếu hiểu biết, thiếu khoan hồng và thiếu kiên nhẫn.
Nếu chồng có một vài khuyết điểm vợ có thể sửa đổi
bằng cách êm ái, dịu dàng, nhắc nhở và chịu đựng. Ngoài
ra người vợ cũng phải biết đỡ đần những công việc để
không làm phiền đến chồng..., được vậy đời sống gia đình
mới hạnh phúc. Theo Phật giáo đức Phật có dạy người
vợ cần phải có năm đức tính sau đây:
1. Biết sắp đặt việc
nhà vén khéo (Susanvihitakammantaa).
Như đã nói vợ là nhân
vật quan trọng trong gia đình. Bởi mỗi khi có người xa
gần thăm viếng gia đình, nhà cửa được khen bị che là vén
khéo hay vụng về cũng do người nội trợ.
2. Sự tiếp đãi và giúp
đỡ quyến thuộc chồng như của mình (Susangahitaparijanaa).
Sự lo lắng, cung
phụng của người vợ, cũng như kính trên nhường dưới đối
với thân tộc của mình như thế nào thì người vợ kính
mến chồng cũng áp dụng đối với quyến thuộc nhà chồng
như của mình, đó là một đức tính tốt của người vợ
hiền trong gia đình.
3. Biết giữ của chồng
giao phó (Sambaha~nca anurakkhati)
Của cải chồng giao phó
cất giữ, không nên tùy tiện xài phung phí, cờ bạc, đút
lòn, cho riêng thân quyến mình. Bởi sự lén lút không thành
thật với nhau, hạnh phúc sẽ bị đổ vỡ, sợi dây thân
ái của đôi tâm hồn được bền chặt hay không đều do
sự khôn khéo của người vợ trên lãnh vực này.
4. Không tư tình (Anaticaarinii).
Ðiều tà dục là một
trong năm giới cấm trong Phật giáo. Vì là nguyên nhân
khiến cho hạnh phúc gia đình tan nát và từ đó sẽ đưa
con người sa vào bốn con đường ác đạo.
5. Giỏi dắn, siêng năng
mọi việc trong gia đình (Dakkaa ca hoti analasaa sabbakiccesu).
Mọi việc trong gia đình
là bổn phận của người vợ, từ việc nhỏ đến việc to
đều phải chu toàn.
Trên đây là những Pháp
của vợ hiền đối với chồng, là những đức tánh không
thể khiếm khuyết được của bất cứ một người vợ lý tưởng
nào. Nếu họ muốn cho gia đình được bảo tồn hạnh phúc
thì phải học hỏi và áp dụng cho gia đình mình.
BỔN PHẬN
ÐỐI VỚI VỢ
Nói về một người
chồng đúng nghĩa trong gia đình phải có nhiều tư cách tốt
đối với người vợ, để xứng đáng cho vợ hiền kính
mến và thương yêu. Người chồng cũng không nên đối xử
với vợ như người làm trong nhà, mặc dù chính mình là người
"Tạo nồi cơm" cho gia đình, phải giúp vợ tạo hòa
khí yên vui. Trong kinh Sangàlodasutta. Ðức Phật có dạy rằng
đối với gia đình muốn được thành công như ý, người
chồng phải có năm pháp sau đây:
1- Thương mến và nói
lời dịu ngọt đối với vợ (Sammaana~naaya).
Phàm người chồng đứng
đắn, ở với nhau đến răng long tóc bạc con đàn cháu đủ
cũng luôn luôn có hành vi lịch sự đối với vợ hiền, dù
bất cứ ở hoàn cảnh nào.
2- Không khinh bỉ hà
hiếp vợ (Avimaana~naaya).
Người đàn ông không
bao giờ sử dụng quyền thế khinh bỉ hay đánh đập vợ, dù
có thiếu một trong những phận sự của người đàn bà đối
với gia đình: Tòng phụ, tòng phu, tòng tử.
3- Không tư tình khiến
vợ ghen tương sầu não (Anaticariyaaya).
Chồng đứng đắn luôn
luôn một lòng thương vợ, không tư tình để hạnh phúc gia
đình tránh khỏi sự tan nát đổ vỡ.
4- Phải tin cậy và phó
thác cho vợ các công việc nội trợ (Issariyavossaggena).
Tâm lý người đời ai
cũng vậy, riêng đối với gia đình thì vợ chồng đều
phải có bổn phận đối với gia đình riêng của mình, khi
có bổn phận tức là họ phải có quyền hành. Mọi việc
trong ngoài có liên quan với gia đình, người chồng chẳng
những giao trọn quyền cho vợ và trực tiếp khuyến khích mà
phải bàn bạc trước khi quyết định một công việc gì.
Phải tin cậy vợ không để sự nghi kỵ nẩy nở khiến tình
thương yêu đầm ấm đối với vợ bị lợt lạt hay mai
một.
5- Sắm cho vợ những
vật trang điểm tùy sức (Alankaaraanupadaanena).
Ở đời con người dù
thuộc lãnh vực nào của cải đều có giới hạn, nên nói
rằng tùy sức hay khả năng, là vì ý muốn dạy con người
phải thực hiện cho bằng được dù ít hay nhiều cũng
phải có cho những điều cần thiết, vì thiếu nó thì
hạnh phúc sẽ không thành đạt.
Trên đây là những pháp
mà bất cứ người đàn ông nào cũng phải học hỏi, cũng có
thể nói đó là năm đức tánh tốt của người chồng đối
với vợ. Ðó là đức tánh không thể thiếu được nếu ai
muốn gia đình đuợc dồi dào hạnh phúc hiệp theo lẽ đạo.
BỔN PHẬN
HỌC TRÒ ÐỐI VỚI THẦY
Ðể đáp lại đức độ
cao cả của một vị thầy đã dày công dạy dỗ dù văn hay võ,
đời hay đạo cũng là thầy. Nhưng theo Phật giáo thì Thầy
giáo dục đạo đức là vị thầy rất cao quí, vì thầy dạy
có tánh cách hướng dẫn học trò ra khỏi thế gian, không như
thầy giáo dạy chữ nghĩa hay võ nghệ vì còn luân chuyển
trong thế gian. Chúng ta hãy ghi nhớ dù một giờ hay một ngày
người giúp ta mở mang trí tuệ, học những điều hay cũng là
một vị thầy đáng cho ta kính trọng và biết ơn. Theo Phật
giáo học trò đối với thầy phải có đầy đủ năm điều
sau đây:
1- Ðứng dậy tiếp rước
khi thầy đến (Utthaanena).
2- Hầu hạ thầy y như thì giờ được ấn định (Paccuppa.t.thaanena).
3- Nên vâng lời thầy dạy bảo (Sussusaaya).
4- Hầu hạ giúp đỡ công việc lặt vặt cho thầy (Paricariyaaya).
5- Phải kính trọng thầy trong giờ học (Sakkacca.m
sippuggaha.nena).
Qua năm điều vừa kể,
chúng ta cũng đã nhận rõ được vai trò của mình là những
đứa học trò phải làm gì để đối với thầy Tổ. Chúng
ta chỉ y cứ bấy nhiêu lời đã được thốt ra kim khẩu
của Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã lưu tâm, đã rải
lòng từ bi, tế độ chúng ta để trở nên những người
học trò tốt, đối với đức dộ khả kính của một vị
thầy. Chúng ta nên hết lòng học hỏi và thực hành để
vẹn toàn tài đức mai hậu.
BỔN PHẬN
THẦY ÐỐI VỚI HỌC TRÒ
Người đời ai cũng có
bổn phận. Ðối với gia đình cha mẹ có bổn phận lo cho con
nên người; đối với quốc gia thì một vị Vua phải có
bổn phận lo cho công dân an cư lạc nghiệp. Cũng vậy, đối
với học trò thì thầy phải làm sao cho vuông tròn, xứng đáng
là một vị Tổ sư.
Một vị thầy là người
phải hết lòng tận tâm, tận lực dắt dẫn học trò, có
bổn phận chỉ dạy và thương yêu chúng, giúp chúng mở mang
trí tuệ hầu trở nên một người con ngoan trong gia đình và
một công dân tốt cho quốc gia. Thầy có một trách nhiệm tương
đương như cha mẹ, nên cần đòi hởi có một đức tính cao
cả, một trách nhiệm và lòng vị tha như nhau. Theo Phật giáo
thầy đối với học trò có năm điều:
1- Dạy dỗ để chúng
trở nên người học trò tốt (Suviniitama.m vinenti).
2- Giảng dạy, huấn luyện chúng trở nên tài giỏi (Suggahita.m
gaahaapenti).
3- Cần mẫn, giảng dạy đầy đủ (Sabbasippesu
tamsamakkhaayinobhavanti).
4- Khen thưởng học trò trước bạn bè và những người có
chức phận (Mittaamaccesu pativedenti).
5- Có thiện ý bảo bọc học trò mọi phương diện (Disaasu
parittaana.m karonti).
Vì vậy, nếu muốn trở
nên một vị thầy tốt đối với học trò thì trên đây là
năm yếu tố căn bản để giúp một vị thầy thành công.
Vậy ta nên suy sét và nhận định rõ ràng những điều ấy
để được kết quả như ý theo Phật ngôn.
BỔN PHẬN
CHỦ ÐỐI VỚI TÔI TỚ
Ðạo đức là nền
tảng của con người. Người có đạo đức đối với đời
hay đạo là những đóa hoa tươi thắm giúp cho con người nhìn
thấy an vui và hạnh phúc. Vì thế, là chủ có đầy đủ oai
quyền đối với tôi t?, dù ta có hành hạ, chửi mắng, đày
đọa thế mấy kẻ tôi đòi cũng phải dằn lòng chịu đựng
vì biết thân phận mình. Vậy là chủ hơn bao giờ hết chúng
ta phải mở lòng rộng lượng đối với kẻ dưới tay, nên
thưởng phạt công minh, dù sao họ cũng là một con người, mà
là con người kém may mắn sống một cuộc sống vất vả, đi
làm hầu tìm kiếm đồng lương để nuôi nấng kiếp sống
tạm bợ này mà thôi, thì sự giúp đỡ hay thương yêu họ cũng
là một đức tánh thể hiện lòng từ bi, nhân ái của ta đối
với họ. Theo đạo Phật người chủ phải có năm điều đối
với tôi tớ:
1- Phân công tùy sức
lực người (Yathaa-balam kammanta savidhaanena).
2- Cung cấp thực phẩm và tiền công đúng mức (Bhattavettanaanuppadaanena).
3- Ân cần săn sóc tôi tớ khi có bệnh (Gilaanuppa.t.thanena).
4- Chia sớt món ngon vật lạ khi có (Acchariyaana.m rasaana.m
sa.m vibhaagena).
5- Nên cho dưỡng sức trong khi mệt nhọc (Samaye vossaggena).
Chúng ta xét thấy năm pháp
vừa kể chứa đựng đầy tình thương của con người đối
với con người, là những câu Phật ngôn vô cùng quý giá
rất đáng cho chúng ta noi theo. Nếu con người ý thức được
lời cao cả ấy của đức Như Lai thì chúng ta đương nhiên có
một đức hạnh đáng khen vậy.
BỔN PHẬN
TÔI TỚ ÐỐI VỚI CHỦ
Làm người khó, chịu khó
để trở nên một con người trọn vẹn, nhất là làm tròn
bổn phận của mình đối với mọi người, mọi giới, để
được vuông tròn thì ít nhất ta cũng phải ý thức được
trách nhiệm của mình đối với phận sự mà mình gánh vác.
Nên bổn phận tôi tớ đối với chủ là một việc khó, vì
phải thực hiện đúng mức trách nhiệm của mình để khỏi
phụ lòng chủ và cũng để xứng đáng ở đồng lương mà mình
đã thọ hưởng và sự tin cậy ở những người chủ xứng
đáng. Theo giáo lý nhà Phật có dạy tôi tớ đối với chủ
có năm pháp:
1- Phải luôn thức
sớm làm việc trước chủ (Pubba.t.thaayino).
2- Phải luôn nghỉ sau chủ (Pachaanipatino).
3- Chỉ lấy vật nào chủ đã cho (Dinnaadaayino).
4- Nên chú ý cẩn thận và kỹ lưỡng khi làm việc (Sukatakammaakaarakaa).
5- Nên nói những điều tốt của chủ (Kittiva.n.nharaa).
Muốn thể hiện bổn
phận của một người tôi tớ cao đẹp, thiết nghĩ không gì
hơn ta hãy căn cứ theo lời Phật dạy trên. Bởi nếu là
một Phật tử chân chính thì bao giờ cũng phải lấy pháp
Phật để áp dụng cho đời sống hiện tại, sự thành công
tốt đẹp của một người Phật tử thì đối với kẻ tôi
tớ dù là Phật tử hay ngoại đạo cũng sẽ thành công ít
nhiều tùy đức tin của mỗi cá nhân.
Vậy thiết tưởng chúng
ta cũng nên lấy kim ngôn cao thượng của Chư Phật để làm
mẫu mực, và tin rằng sẽ được thành công không khó.
BỔN PHẬN
ÐỐI VỚI BẠN HỮU
Tục ngữ ta có câu:
"Học thầy không tày học bạn", thầy là người
dạy mình, lẽ tất nhiên học thầy rất nhiều, nhưng bạn là
người ở gần mình hơn, khi tâm sự, lúc vui đùa, bạn ảnh
hưởng tới mình rất nhiều, nếu bạn hay thì mình tiêm
nhiễm được cái hay của bạn, nếu bạn dở mình cũng bị lây
cái dở của bạn nên ta học bạn nhiều hơn học thầy. Nghĩa
bóng câu này nói tới ảnh hưởng của bè bạn đối với
nhau là mạnh, người ta có thể nhờ bạn mà tấn tới được.
Vậy, bạn bè rất hệ
trọng đối với đời sống con người, chúng ta nên giữ tình
bạn được bền chặt để khi hữu sự trên bước đường
đời không bị lẻ loi. Phật giáo có dạy rằng đối với
bạn bè bằng những pháp sau đây:
1- Cho tiền của đến
bạn (Daanena).
2- Nói lời tao nhã với bạn (Piyavajjena).
3- Tạo nên điều lợi ích cho bạn (Atthacariyaaya)
4- giữ tâm tính bình đẳng đối với bạn (Samaanattataaya)
5- Không có ý dối để giấu giếm chuyện riêng với bạn (Avisa.m
vaadanataaya)
Thiết tưởng không phép
lạ nào hơn lời vàng ngọc của Ðức Chí Tôn. Ngài là thầy
chẳng những của nhân loại mà của cả chư Thiên nữa.
Vậy, nếu chúng ta căn cứ theo Phật ngôn để áp dụng cho đời
sống thường nhật thì tưởng không có gì quí báu cho bằng.
Nên để sự duy trì tình bạn được tốt đẹp, chúng tôi
khuyên mọi người nên thành tâm y theo lời được miêu tả
trên.
BỔN PHẬN
ÐỐI VỚI CHÚNG SANH
Chúng ta là người Phật
tử ai cũng biết rõ tôn chỉ từ bi của đức Thích Tôn. Lòng
từ bi bác ái của nhà Phật không hẹp hòi như của kẻ phàm
phu, là một tinh thần rộng bao la chẳng những riêng đối
với gia đình, với giống nòi, với quốc gia, với nhân loại
mà đối cả với toàn thể chúng sanh không giới hạn. Vị
Phật Tổ ra đời trước đây 25 thế kỷ, Ngài trước tiên cũng
vì nhận thấy sự khốn khổ triền miên của chúng sanh; nên
Ngài hy sinh cuộc đời vương giả, nhung lụa để đổi lấy
màn trời chiếu đất, còn da bọc xương, để mưu cầu hạnh
phúc cho muôn loài vạn vật chứ nào phải của riêng Ngài,
của Hoàng tộc hay của Trung Ấn Ðộ. Chúng sanh vì không
hiểu được sự vô thường biến đổi của vạn vật, khổ
não, vô ngã của thể chất và tâm hồn, vì là phàm tình
chỉ biết mê say trụy lạc với cảnh phù du mà lầm tưởng
rằng vĩnh cửu.
Sanh ra ở đời con người
đã phải chịu thọ hưởng những cảnh khổ của sự sanh, già,
đau chết. Chúng ta có cùng một kiếp sống tạm bợ, thì sao
chúng ta không thương yêu nhau?
Ðối với Phật giáo, chúng
sanh là những con người, những con vật có thức tánh, song
sở dĩ khác nhau ở giàu, nghèo hay người, thú lớn, nhỏ là
vì nghiệp lực của mỗi chúng sanh đã tạo tác mà thôi. Vì
vậy, đức Thế Tôn nhắn nhủ chúng ta hãy thể hiện lòng
từ bi của người con Phật, chẳng những riêng cho cá nhân
hay nhóm người, mà đối với chúng sanh vô hạn định, có như
thế sự an vui tuyệt đối mới đến với ta. Trên đây là
một vài nét đại cương về bổn phận của người Phật
tử đối với chúng sanh, Phật tử chúng ta đã, đang và sẽ
mãi mãi duy trì đức tính từ bi. Chúng ta áp dụng cho ta, cho
mọi người không phân biệt thân sơ hay màu da chủng tộc, thú
hay người; đó là đức tính đại từ bi của chư Phật Tổ
và Phật tử khắp năm châu.
PHẬT TỬ
VỚI PHÁP LỤC HÒA
Phật giáo dạy người
Phật tử phải đối đãi với nhau bằng pháp Lục Hòa. Từ
việc nhỏ đến việc lớn, đạo cũng như đời đều phải có
sự hòa hợp mới thành tựu. Trong gia đình có sự hòa hợp
thì sẽ có hạnh phúc; một quốc gia có sự hòa hợp sẽ được
thịnh vượng; nhân loại có sự hòa hợp thì sẽ có hòa bình
an lạc.
Lục Hòa có sáu pháp, cư
xử với nhau cho thuận hòa, sự hòa thuận của đạo Phật là
để đoạt được mục đích giải thoát; sau đây là sáu pháp
Lục Hòa:
1- Thân hòa: Cùng ở
chung hòa hợp một nơi (Metta.m kaayakamma.m).
Con người nếu biết hòa
hợp thì dù không cùng huyết thống, nhưng khi đã sống
chung, có chung một ý tưởng, một mục đích cao cả, dù ở
chung bao nhiêu và bao lâu cũng có thể hòa thuận được.
2- Khẩu hòa: Lời nói ôn
hòa không tranh cãi (Metta.m vaciikamma.m).
Chúng ta chỉ có thân hòa
nhã với nhau chưa đủ, mà cần phải có cả khẩu hòa
nữa. Khẩu luôn luôn nói lời dịu dàng, hòa nhã, không
tranh cãi. Người có khẩu hòa gặp việc gì đem ra bàn cãi
cho ra lẽ, thì cũng dùng lời nói ôn hòa nhã nhặn để bàn
luận.
3- Ý hòa: Ý kiến hay tán
thành (Metta.m manokamma.m).
Người Phật tử phải
luôn luôn có tâm tánh hòa hiệp vui vẻ không thù hiềm ganh
tỵ, bên trong tâm tính không còn thắc mắc, ganh ghét chất
chứa. Muốn có ý hòa thì phải có tâm hỷ xả bỏ những
điều buồn phiền, tư tưởng chơn chánh thì tâm mới hòa
hợp.
4- Lợi Hòa: Lợi lộc
hợp pháp nên chia nhau thọ hưởng (Laabhaa dhammikaa).
Khi có được sự lợi
lộc chơn chánh phát sanh ta nên sống hòa hợp, nghĩa là cân
phân đồng đều và chia xẻ cho nhau thọ hưởng, không thiên
vị, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu.
5- Giới hòa: Ðồng y
giới luật tu hành (Siilasaama~n~nagato).
Giới luật là phần
hệ trọng đối với người tu Phật cũng như trong xã hội,
các đoàn thể, các nhà trường hay gia đình, đều cần
phải có kỷ luật. Nếu một người hay một đoàn viên không
giữ kỷ luật thì đoàn thể, gia đình hoặc nhà trường đó
sẽ gặp nhiều trở ngại và sẽ bị tan rã. Mặt khác
giới hòa cũng có ý muốn ám chỉ tùy một luật lệ nào
của một tôn giáo.
Theo Phật giáo người
Phật tử tại gia phải có Ngũ giới, Bát quan trai giới. Ðối
với Tăng sĩ: Sa di có Thập giới, Tỳ Khưu Tăng: 227 giới,
Tỳ Khưu Ni: 311 giới. Mọi giới tu hành đều phải biết
bổn phận của mình gọi là Giới hòa.
6- Kiến Hòa: Kiến thức
chân chánh (Di.t.thisaama~n~nagato).
Phật tử nên chỉ
dạy cho nhau cùng hiểu biết kinh luật nhà Phật; người
hiểu biết trước có bổn phận chỉ vẽ cho người sau cùng
lãnh hội. Ðiều này rất hệ trọng, vì sự hiểu biết
cần phải hiểu rõ chắc chắn chánh tà. Nếu sự hiểu
biết sai lầm, truyền giáo lại không đúng chánh pháp sẽ
trở thành tà vạy. Ngược lại sự hiểu biết chơn chánh
sẽ giúp cho ta những người liên hệ được an vui hạnh phúc
và phát sanh trí tuệ.
Vậy, người Phật tử
chúng ta áp dụng y theo pháp Lục Hòa mà đức Thế Tôn đã giáo
hóa, sẽ sống an vui và hợp theo lẽ đạo.
- HẾT -
-ooOoo-
Ðầu
trang | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| 06 | Mục lục |