BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


THẬP ÐỘ

HỘ TÔNG TỲ KHƯU
(VANSARAKKHITA MAHA THERA)


  

[06]

NEMIRÀJA JÀTAKA
TRUYỆN NEMIRÀJA

BỒ TÁT TU HẠNH QUYẾT ÐỊNH BA LA MẬT


Thuở nọ, đức Thế Tôn ngự nơi vườn xoài của Ðức vua MAGHADEVARÀJÀ tại kinh đô MITHILÀ, Ngài hán rằng: "Này ANANDA! đây là kinh đô mà ngày xưa Như Lai đã sanh ra là Hoàng Ðế MAGHADEVARÀJA", rồi Ngài nín thinh.

Ðức ANANDA bèn quỳ bạch, cầu đức Thế Tôn từ bi giảng tiếp cho chúng tôi nghe.

Ðức Phật thuyết rằng: ATÌTE KÀLEBHIKKHAVE... Này các thầy Tỳ khưu! Trong thời quá khứ, Như Lai sanh ra là Hoàng Ðế MADHADEVARÀJA, thống trị tại thủ đô MITHILÀ này, tuổi thọ rất lâu. Nhưng Hoàng Ðế đó không say mê danh lợi, có bảo người thợ cạo nhớ, khi thấy có một sợi tóc bạc thì cho Ngài hay.

Một hôm, người thợ cao nhỗ tóc bạc trình bày, Ngài bèn ban thưởng thợ cạo, rồi dạy Hoàng Tử vào để truyền ngôi báu. Trước khi ra đi xuất gia hành đạo. Ngài dặn dò Hoàng Tử rằng: Khi thấy có tóc bạc, con nên xuất gia ngay, đừng quên, con chớ bỏ qua tục lệ nhà ta. Vua cha dạy xong cạo tóc mặc y, tu đạo sĩ tham thiền tứ vô luợng tâm. Sau khi tan rã ngũ uẩn Ngài được sanh lên cõi Phạm Thiên.

Hoàng Tử nối ngôi, khi được biết có một sợi tóc bạc, cũng xuất gia theo lời vua cha dạy bảo. Các con cháu phụ truyền tử như vậy được tám ngàn bốn trăm vị.

Ðức vua xuất gia trước hết là MAGHADEVARÀJA khi đã sinh lên cõi Phạm Thiên, xét thấy dòng dõi ta đã tu hành theo tục lệ, trãi qua được tám ngàn bốn trăm vị nay còn 2 vị nữa sẽ không theo thói cũ, như thế sẽ mất dòng họ nhà vua và mất cả điều hạnh phúc. Vậy ta nên giáng sanh để nối dòng ngõ hầu tiếp độ quần sanh. Lập tức Ngài xuống thọ thai vào lòng Hoàng Hậu. Ðến ngày khai hoa là một Hoàng Tử xinh đẹp khác thường, màu da như vàng. Nhà chiêm tinh của vua cha xem tướng và tâu rằng: "Hoàng Tử có tướng rất quý, sau này sẽ nối dòng vua được lâu dài, là noi chí ông cha xuất gia tìm đạo". Vì thế nhà vua đặt tên là NEMIRÀJAKUMÀRA.

Khi được lên ngôi cửu ngũ, đức NEMIRÀJAKUMÀRA Bồ Tát dạy cất 5 phuớc xá (tại 4 cửa thành và một giữa đền) trữ sẳn vật dụng thí cho mọi người cần dùng, mỗi ngày 5 ngàn lượng. Ngài thọ trì ngũ giới và bát quan trai giới rất trong sạch. Ngài dạy về tội phước chánh tà, làm lành được vui, gây dữ chịu khổ. Dân gian đều hoan hỷ hưởng ứng theo lời dạy của Ngài nên sau khi mệnh chung đều sanh lên Thiên cung cả.

Những người được sanh lên cõi trời nhiều vô số, và thường hội họp nhau, tán dương công đức của vua NEMIRÀJAKUMÀRA Bồ Tát rằng: "Tất cả chúng ta đều nhờ đức Bồ Tát chỉ dạy tu hành, nay mới được hưởng quả vui như vầy. Thật hiếm có người đức tính như Hoàng Ðế NEMIRÀJAKUMÀRA Bồ Tát này. Ðến ngày bát quan trai giới, đức NEMIRÀJAKUMÀRA Bồ Tát nguyện thọ trì rất trong sạch, Ngài hằng suy nghĩ không biết giới và bố thí điều nào cao quý hơn. Ngài tìm hiểu mãi không ra, khiến cho đức Ðế Thích khó chịu, rồi xét biết. Ðức Ðế Thích bèn hiện xuống, ngự trên hư không cho đức NEMIRÀJAKUMÀRA Bồ Tát thấy, Bồ Tát bèn hỏi: - Ngài là ai xin cho Trẫm rõ?

- Ta là vua trời, đến đây để giải đáp câu hỏi của Ðại Vương.

- Tâu Ðại Vương, giới và bố thí, cái nào cao quý hơn?

- Kẻ trì giới được làm người, không tà dâm gọi là giới thấp, có thể sanh vào nhà vua, được quả người như ý nguyện. Nếu trì giới mà đắc cận định, gọi là bậc trung sẽ sanh lên Dục giới thiên. Tham thiền đắc định, là bậc thượng, sẽ sanh lên cõi Phạm Thiên.

Tỳ khưu trong Phật giáo, hành đạo trì giới trong sạch, mong lên Dục giới thiên, gọi là giới thấp. Vị nào đã có giới trong sạch, cố gắng tham thiền đắc định, sẽ thọ sanh trong Phạm Thiên, gọi là giới bậc trung. Những bậc trì giới, tham thiền và quán tưởng pháp minh sát sẽ thấy rõ Niết Bàn là giới bậc thượng.

Còn những người bố thí trong sạch cũng sanh lên dục giới thiên, nhưng khó lên cõi Phạm Thiên. Song, hạng cư sĩ cần phải bố thí, trì giới mới trong sạch được.

Có tích 7 vị vua là: SÀGARA, SELA, BHAJJA, BHÀGISARA, USINARA, ATTHAKA, ASSAKA, PUTHUJANA, cả 7 vị vua cố gắng bố thí rất nhiều, sau khi thăng hà đều được sanh lên cõi Dục thiên, không thể lên Phạm Thiên giới được. Ngoài ra có nhiều vị vua tinh tấn bố thí cũng không qua khỏi đời ma quỉ, tức là Lục Dục giới thiên.

Có lời Chú giải rằng: Ðiều mà đức Ðế Thích gọi Lục Dục giới thiên và nhân gian chỉ danh là "cõi ma quỉ" (PETA LOKA) thật là đúng lắm. Vì Chư Thiên và người đều có tâm mong mõi ưa thích tình ái trong sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu đã ước mong trong ngũ dục rồi, dù không phải là lìa nơi nương tựa cũng gọi là cô ái tử (con mồ côi cha mẹ) trong đời này. Nếu không có nơi nhờ cậy, mà không phải là ma quỉ, thì Lục Dục giới Thiên và nhân gian cũng đáng gọi là đời ma quỉ thật.

Ðúng theo Phật ngôn như vầy:

YEADUTIYÀ NARAMANTI... NASUKHÀVA RAVÀ...

"Người nào ưa thích, cố gắng tìm phụ nữ, khi kiếm được đem về làm bạn trăm năm cùng nhau thì vừa lòng, nhược bằng không thì rầu rĩ. Người hạng này dù có của cải như Trời Ðế Thích, được vui nhờ kẻ khác cũng đáng gọi là mồ côi thật.

Hơn nữa, kẻ nào không gặp, không thấy, không được, không tìm hương vị của phỉ lạc phát sanh từ cái tâm an tĩnh, tức là nhập định. Người như đây, dù có tài sản nhiều như đức Ðế Thích, cũng đáng gọi là cô ái tử thật"

Ðức Ðế Thích giảng thuyết nhiều sự tích, đem so sánh để phá nghi Ðức vua NEMIRÀJAKUMÀRA cho thấy rõ rằng: Quả báo của giới, cao quý hơn phước bố thí. Song muốn trì giới được trong sạch, cần phải bố thí để dứt lòng tham lam bỏn xẻn.

Ðức Ðế Thích lại dẫn thêm tính như sau.

Thuở trước, có vị Hoàng Ðế trong thủ đô BÀRÀNASÌ, hằng ưa thích bố thí. Có một đạo sĩ thường ưa đến trì bình tại nhà vị cố vấn (PUROHITA) của Ðức vua. Vị PUROHITA thấy đạo sĩ, có giới hạng trang nghiêm bèn tín thành thỉnh vào nhà để bát luôn ba ngày. Vị cố vấn nghe được giáo lý, xin xuất gia. Ðạo sĩ dạy phải chờ lệnh vua. Vị cố vấn vào đền xin, vua cho phép và dặn dò, nên trở lại tế độ Trẫm với. Vị cố vấn theo đạo sĩ tu hành chẳng bao lâu cũng đắc định, được tự do đi khất thực. Bữa nọ, vị đạo sĩ mới này, nhớ tới lời yêu cầu của Ðức vua, bèn xin phép thầy vào thành trì bình. Ðức vua nhìn biết rồi thỉnh vào đền nội. Khi cúng dường xong, Ðức vua bạch hỏi: - Bạch đạo sĩ, Ngài ngụ một mình trong rừng hay sao?

- Tâu đại vương, trong rừng có cả 10 ngàn vị.

- Cầu Ngài thỉnh các vị đạo sĩ ấy đến cho tôi cúng dường.

- Không tiện. Các Ngài không mong hưởng thực phẩm quý, nên khó thỉnh. Nếu Ðại Vươngvào rừng gần đó, tôi sẽ thỉnh cho.

Ðức vua hoan hỉ vâng lời, liền dạy quan quân sắm sửa đầy đủ thực phẩm quí, để vào rừng dâng cúng 10 ngàn vị đạo sĩ

Sáng hôm sau, vua đồng cùng triều thần vào đến rừng, được cúng dường như nguyện. Ðức vuaphát tâm trong sạch thỉnh tất cả 10 ngàn vị đạo sĩ cúng dường mỗi ngày, như thế đến một muôn năm [1].

Tâu đại vương, mặc dù Ðức vua ấy có tâm trong sạch bố thí không trọn vị nào cao hoặc trung hay thấp hạ, cũng không phân giai cấp xã hội, cho rằng vị này trước nghèo, giàu hay sang hèn chi cả. Như thế, mà sau khi Ðức vua đó thăng hà, chỉ được sanh lên cõi Dục giới Thiên mà thôi. Còn 10 ngàn vị đạo sĩ toàn là hạng xuất gia, song có giới trong sạch, tham thiền đắc định. Sau khi mệnh chung, các Ngài đều thọ sanh lên cõi Phạm Thiên cả.

Tâu Ðại Vương, Ðức vua trong thủ đô BÀRÀNASÌ thuở đó, chính là tôi đây. Giải cho đức NEMIRÀJAKUMÀRA biết rõ giới có phước cao quý hơn bố thí như thế, đức Ðế Thích liền trở về Ðạo Lợi thiên cung.

Khi về đến, thấy Chư Thiên hội họp đông đủ tại phước xá, đức Ðế Thích bèn phán rằng: Các ông tụ hội nơi đây nên chú ý nghe Trẫm giảng thuyết. Trẫm xuống cõi người, để phá nghi cho Ðức vua NEMIRÀJAKUMÀRA. Ðức NEMIRÀJAKUMÀRA thật là một vị Hoàng Ðế đạo đức, bố thí, trì giới và khuyên nhân dân lánh dữ làm lành vô số kể. Ngài là một bậc trí tuệ hiếm người sánh kịp. Ngài không phân biệt giới với bố thí điều nào cao quí hơn. Trẫm đã giải phân minh cho đức NEMIRÀJAKUMÀRA hiểu rồi, nên mới trở về đây.

Chư Thiên đồng tâu rằng: Ðức NEMIRÀJAKUMÀRA là thầy của chúng tôi, nhờ Ngài khuyên bảo, chúng tôi mới tạo nhiều nghiệp lành, nên sau khi thác đều được lên đ?o lợi Thiên cung này, hưởng phước cõi trời như mong muốn.

Tất cả chúng tôi đồng khẩn cầu Hoàng Thượng từ bi cho vị trời MÀTALÌ xuống rước Ðức vua NEMIRÀJAKUMÀRA lên đây cho chúng tôi thấy mặt, vì chúng tôi nhớ ân đức của Ngài lắm.

Ðức Ðế Thích hoan hỉ nhận lời yêu cầu của Chư Thiên, đòi vị MÀTALÌ đến phán rằng: Người hãy đem xe Rồng xuống rước Ðức vua NEMIRÀJAKUMÀRA.

Khi xe trời xuống gần tới, nhằm ngày rằm trăng tỏ, chúng dân thấy rõ xe trời bay xuống, rất lấy làm lạ, rồi chờ xem xe ấy đến. Họ tin chắc là xe trời xuống rước Ðức vua, vì Ðức vua chúng ta bố thí, trì giới trong sạch, trong đời chưa ai sánh bằng.

Xe trời xuống tới đền vua, vị trời MÀTALÌ tâu thỉnh Ðức vua NEMIRÀJAKUMÀRA, theo lời dạy của đức Ðế Thích.

Ðức NEMIRÀJAKUMÀRA liền từ giả và dặn triều thần, ân cần xem xét việc triều chính và thay thế Ngài làm việc bố thí mỗi ngày, rồi lên xe trời đi cùng MÀTALÌ. MÀTALÌ tâu rằng: - Bây giờ Hoàng Thượng muốn đi ngã nào, nếu Hoàng Thượng muốn xem địa ngục, cho biết trong đó tội nhân bị hành phạt cách nào, tôi xin hộ giá đưa Ngài đi xem.

Ðức NEMIRÀJAKUMÀRA đáp: Như thế, nên đi xem địa ngục trước, rồi sẽ lên Thiên cung.

Vị trời MÀTALÌ liền lái xe đi qua những địa ngục như:

1) ÐỊA NGỤC CƯỜNG THỦY [2] trong địa ngục này nước vẫn sôi hoài. Tội nhân bị quỷ sứ dùng đủ thức vũ khí cháy đỏ (gươm, dao, đao, búa, riều...) đâm, chém, đập, bửa tội nhân té nhào trong địa ngục. Khi ở trong địa ngục, cũng có các khí giới chém đâm v.v... và bị nước chưa sôi thấm vào mình, chịu muôn vàn lần đau khổ, không kể xiết,cả ngày lẫn đêm chỉ nghe tiếng kêu la, than khóc không dứt.

Tâu Hoàng Thượng, những tội nhân đó, ở thế gian ỷ mạnh hiếp yếu, chưởi, mắng, đánh, đập, hành hạ người, nên nay phải sa địa ngục này, thọ khổ như vậy.

2) ÐỊA NGỤC CHÓ DỮ: - Trong địa ngục này có chó to bằng voi trắng, đen, đỏ, vàng đủ màu, chúng rượt cắn và xé tội nhân la khóc vang rền. Tội nhân chạy trống đường nào cũng không khỏi, chó cắn xé thịt, ăn đến xương, lại bị lửa cháy hoả hào thiêu đốt, rồi hườn hình sống lại liền, để chịu hình phạt như thế nữa, vì nghiệp duyên chưa hết.

Tội nhân trong địa ngục này, vì kiếp trước bỏn xẻn, không bố thí giúp đở kẻ đói khác tật bệnh và khinh rẽ chưởi mắng bậc tu hành, lại còn khuyến dụ kẻ khác làm theo họ, nay phải chịu trị tội như vậy.

3) ÐỊA NGỤC SẮT LỬA CHÁY ÐỎ: - Tội nhân trong địa ngục này bị quỷ sứ đánh bằng cây sắt cháy đỏ và đâm bằng lao trước mặt thấu đến lưng, đầu đến trôn, té ngã trong địa ngục, toàn thân thể bị cháy đỏ.

Tội nhân trong địa ngục này, hà hiếp người vô tội

4) ÐỊA NGỤC THAN LỬA: - Tội nhân bị quỷ sứ đánh bằng cây sắt đỏ, rồi liệng trong địa ngục than lửa. Quỷ sứ lấy búa, riều bửa đầu, chẻ thân hình ra nhiều đoạn, bị lửa than đốt cháy. Tội nhân la khóc kêu vang không kể xiết.

Tội nhân trong địa ngục này, kiếp trước giả dối quyên tiền để cất chùa, xây tháp cúng dường Tam bảo, nhưng đem tiền về nuôi sống, nên phải sa đọa địa ngục này.

5) ÐỊA NGỤC ÐỒNG SÔI: - Tội nhân bị bỏ vào đó, trôi qua, lại, chìm xuống tận đáy, bị nước đồng sôi, chịu khổ kêu la thảm đạm.

Tội nhân trong địa ngục này, trước kia chưởi mắng khinh rẻ bậc tu hành, sa môn, Bà La Môn, nên nay phải thọ quả khổ như thế.

6) ÐỊA NGỤC NƯỚC SẮT CHÁY ÐỎ: - Quỷ sứ bắt tội nhân vặn cổ bằng dây sắt cháy đỏ rồi liệng vào địa ngục này.

Tội nhân trong địa ngục này, kiếp trước bắt chim vặn cổ nhổ lông, bẻ giò, nên nay phải sa đọa trong địa ngục này.

7) ÐỊA NGỤC TRẤU: - Trong địa ngục này có đầy nước trong, tội nhân bị hành đốt nóng, thấy nước trong muốn uống cho mát, khi uống vào, nước thành trấu cháy thiêu thân mình.

Tội nhân trong địa ngục này, kiếp trước dùng trấu trộn lộn với lúa để bán cho kẻ khác, nên nay phải bị hành phạt như vậy.

8) ÐỊA NGỤC LAO: - Quỷ sứ dùng lao, đâm, chém, đứt làm nhiều đoạn.

Tội nhân trong địa ngục này, trước kia trộm cướp của, tiền gạo, lúa, trâu, bò để nuôi sống, nên nay phải bị hành phạt như vậy

9) ÐỊA NGỤC VŨ KHÍ CHÁY ÐỎ: - Quỷ sứ trói tội nhân bằng dây sắc cháy đỏ khi tội nhân té nằm, quỷ sứ dùng các khí giới đâm, chém, đập, bửa v.v....

Tội nhân trong địa ngục này, bởi kiếp trước giết thú, heo, gà, vịt, tôm, cá v.v... đem bán, nên nay phải sa vào địa ngục này.

10) ÐỊA NGỤC PHẨN VÀ NƯỚC TIỂU: - Tội nhân khi quá đói khát, quỷ sứ liệng vào địa ngục cho ăn phẩn và uống nước tiểu.

Người nào kiếp trước quên ơn thầy, phản bạn và trộm của ân nhân, nên phải sa trong địa ngục này.

11) ÐỊA NGỤC MÁU VÀ MỦ: - Quỷ sứ bỏ tội nhân trong địa ngục này, cho ăn máu và mủ làm cơm.

Tội nhân trong địa ngục này, dành cho kẻ giết mẹ, cha, chưởi mắng Tỳ khưu.

12) ÐỊA NGỤC HÀNH NGƯỜI GIAN XẢO: - Quỷ sứ dùng móc lưỡi cho chảy nước miếng, rồi lấy búa đập vào chân tội nhân.

Tội nhân trong địa ngục này, trước kia gian xảo bán đồ quá giá,miệng nói lời dịu ngọt cho họ mua lầm.

13) ÐỊA NGỤC NÚI SẮT: - Quỷ sứ liệng tội nhân trong địa ngục đồng sôi hoặc bị núi sắt ép, thân hình toàn là máu mủ.

Những người phụ nữ nào mất trinh thất tiết với chồng, thông dâm với kẻ khác, mới sa trong địa ngục này.

14) ÐỊA NGỤC HẦM THAN LỬA: - Quỷ sứ hành tội nhân bằng vũ khí đâm, chém v.v... rồi liệng trong địa ngục than lửa cháy đỏ.

Ðịa ngu,c này dành cho người tà dâm vợ con kẻ khác.

15) ÐỊA NGỤC TÀ KIẾN: Những người thấy không chơn chánh là hiểu rằng: Bố thí không có quả phước, cúng dường, làm lành, gây dữ không có quả báo, mẹ cha không phải là mẹ cha, đời này đời sau không có v.v... phải sa vào địa ngục.

Vị trời MÀTALÌ tâu với Ðức vua NEMIRÀJA rằng: Chúng sanh vì vô minh ái dục không rõ đời là tội khổ, gây biết bao nghiệp ác nên chịu biết bao muôn vàn khổ não như thế, Hoàng Thượng đã xem thấy rõ, khi trở về thế gian nên tỏ bày cho nhân gian biết.

Nói về đức Ðế Thích, dùng nhãn thông xem thấy MÀTALÌ đang đưa đức NEMIRÀJA quan sát địa ngục Ngài nghĩ rằng địa ngục rất nhiều nếu xem cho đều đủ, thì vua NEMIRÀJA phải thăng hà trước khi lên Thiên cung, nên Ngài sai vị trời MAHÀJAVANA đến triệu về.

Khi MÀTALÌ được lịnh đức Ðế Thích, bèn tâu với đức NEMIRÀJA rằng lịnh Hoàng Thượng đã xem sơ lược địa ngục rồi, xin đưa Ngài lên cõi trời.

Vị trời MÀTALÌ lái xe đến một dinh thự có hào quang sáng ngời rực rỡ. Vị trời MÀTALÌ tâu rằng: Ðây là dinh của một Thiên nữ. Thuở Phật KASSAPA ra đời, nàng là một nô tỳ của một Triệu phú Bà La Môn. Ông Bà La Môn này, muốn trai tăng bố thí đến chư sư, bèn lấy một ngàn lượng bạc dạy vợ con đi mua thực phẩm. Vợ con không vừa lòng làm theo, ông Bà La Môn liền bảo nô tỳ, cô tớ gái này rất hoan hỉ, đi chợ mua sắc các thứ thức ăn, đem về làm ra bữa trai tăng, có đủ thực phẩm quý. Cô tớ rất vui với sự bố thí đó, đến khi mạng chung, được sanh lên là vị Thiên nữ trong dinh thự này, có các tuỳ tùng hầu hạ.

Vị trời MÀTALÌ, liền lái xe chạy tới nữa, thấy 7 toà lâu đài sáng đủ 7 báu, có rất nhiều Thiên nữ hầu hạ. Ðức vua NEMIRÀJA xem thấy rất thỏa thích bèn xin vị trời MÀTALÌ giảng cho biết sự tích.

Tâu lệnh Hoàng Thượng: Hồi Phật KASSAPA, có một vị trưởng giả, tên SONADINNA, ngụ xứ KÀSIKARÀJA, phát tâm trong sạch cất 7 chánh điện dâng đến chư Tăng và cúng dường đủ 4 vật dụng. Ông trưởng giả tín thành lo săn sóc 7 chánh điện đó cho đến khi thác, sanh lên làm chủ 7 toà lâu đài này, thật là sang trọng.

Vị trời MÀTALÌ, lái xe đến trước gặp một toà lầu lớn, cao 25 do tuần toàn là ngọc pha ly sáng rỡ, có cả Thiên nam, Thiên nữa, ca sang thật là vui thú.

Ðức NEMIRÀJA xem thỏa mãn, cầu MÀTALÌ giảng cho biết.

Tâu Chư Thiên ở trong toà lầu to bằng toàn ngọc pha ly, có rất đông Chư Thiên hầu hạ vui thú đó, là do tiền kiếp đã tạo nhiều nghiệp lành: Bố thí, trì giới và thọ bát quan trai cho đến ngày cùng, nên được sanh lên ở toà lầu quý báu như thế.

Vị trời MÀTALÌ lái xe chạy tới trước cho đức NEMIRÀJA xem các dinh thực của Chư Thiên bằng ngọc pha ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, v.v... có hào quang chiếu dịu xem rất ngoạn mục.

Ðức NEMIRÀJA hỏi về tiền kiếp của Chư Thiên này.

MÀTALÌ tâu: - Chư Thiên đó Thuở làm người trong thế gian, đời Phật KASSAPA có bố thí, trì giới dâng vật dụng đến chư Tăng hằng ngày và thọ bát quan trai trong sạch, lập chùa, cất tịnh thất. Sau khi bỏ ngũ uẩn, được sanh về cõi này, ngự trong các toà lầu cao đẹp toàn bằng 7 báu, có nhiểu ngọc nữ hầu hạ, ca xang múa hát ngày đêm, như thế.

Ðức Ðế Thích dùng nhãn thông thấy MÀTALÌ đang lái xe cho đức NEMIRÀJA xem các dinh thự Chư Thiên, Ngài bèn nghĩ rằng: Nếu MÀTALÌ cho đức NEMIRÀJA xem hết các lâu đài của Chư Thiên, thì tuổi thọ của Ngài phải hết trước. Ðức Ðế Thích liền sai vị khác đến triệu MÀTALÌ về gấp.

MÀTALÌ được lịnh, liền quày xe lên Ðạo Lợi thiên cung. Xe đang bay trên hư không, đức NEMIRÀJA xem thấy 7 tầng núi chập chồng, xung quanh Tu Di sơn vương (MERURÀJA PABBATO), có biển SÌDHANTARA nước rất trong và rất sâu, không có thể dùng vận tải gì mà qua biển đó được cả, vật chi sa trong biển phải chìm ngay.

Ðức NEMIRÀJA muốn biết rõ, bèn hỏi vị trời MÀTALI rằng:

- Biển và núi đó tên gì?

- Tâu, 7 lớp núi cao từng bậc theo thứ tự, từ thấp đến cao, nhất là núi SUKASSANA, rồi đến KHOKÀRA, SUKASSANA, KHOKÀRA, VIKAYUGUNADHARA, NEMINADARA, VINANTAKA, và HASSAKANNA.

Nước biển SIDHANTAVA chảy theo cách khoảng, núi đó là nơi du lãm của GANDHABBA [3] và Dọa Xoa, là nơi cư ngụ của các đạo sĩ SIDHIVIDYÀDHARA và các KINNARA (mình chim đầu người).

Lên đến Ðạo Lợi thiên cung, vua NEMIRÀJA thấy nhiều hình ảnh của đức Ðế Thích chung quanh Tu Di sơn vương.

Ðức NEMIRÀJA hỏi do nhân nào như thế?

MÀTALÌ tâu: - Ðó là để ngừa,không cho bọn nghịch đến phá, nhất là hạng A tu la thiên, khi lên núi thấy ảnh của đức Ðế Thích thì sợ.

Vào đến phước xá SUDHAMMÀ DEVASABHÀ có cả Chư Thiên sẳn chờ đón tiếp và thỉnh đức NEMIRÀJA xuống xe vào trong phước xá.

Ðức Ðế Thích mời ngồi và tâu rằng: "Xin thỉnh Ðức vua ở lại hưởng ngai vàng với Trẫm, đừng trở về nhân gian làm gì"

Ðức NEMIRÀJA tâu: Tôi không dám! Vì chẳng phải là phước tôi tạo. Người không làm phước mà thọ của kẻ khác, ví như người ăn xin. Tôi chỉ mong cố gắng tạo phước báu, bố thí, trì giới, tham thiền, rồi quả lành sẽ đến cho tôi,mới là chánh đáng.

Ðức Ðế Thích và Chư Thiên thỉnh cầu đức NEMIRÀJA thuyết pháp.

Thuyết pháp xong, Ngài tán dương ân đức của MÀTALÌ. Nhờ vị MÀTALÌ nên Ngài thấy rõ địa ngục là nơi hành phạt những kẻ đã gây nghiệp ác và được xem các dinh thự của Chư Thiên có hào quang chói lọi, mong chi được nấy, cũng do các Ngài tạo đủ phước nơi kiếp trước.

Ngự tại Ðạo Lợi thiên cung 7 ngày (tính theo ngày ở thế gian) rồi Ðức vua NEMIRÀJA từ biệt đức Ðế Thích và Chư Thiên trở về nhân gian.

Ðức Ðế Thích cho MÀTALÌ lái xe đưa đức NEMIRÀJA về đến thành MITHILÀ.

Các triều thần vào lạy mừng và tâu hỏi thăm về cõi trời Ðạo Lợi.

Ðức NEMIRÀJA giảng thuyết nghe cõi trời rất là hạnh phúc, cũng là cảnh đẹp an vui. Nếu ai mong được sanh về cõi trời, cần phải tu hành tinh tấn, nghe pháp, bố thí, trì giới, thọ bát quan trai cho trong sạch, khi chết nhờ cái phước đã tạo, chắc sẽ thọ sanh lên Dục giới thiên.

Ðức NEMIRÀJA không say mê sự nghiệp Ðế Vương. Ngài dặn thợ cạo khi thấy một sợi tóc bạc của Trẫm, thì cho Trẫm hay. Không bao lâu, thợ cạo nhổ một sợi tóc bạc dâng cho Ngài xem, thấy sợi tóc bạc Ngài giựt mình, biết là già yếu rồi, ta không còn sống bao lâu nữa, tử thần sẽ đến tìm ta. Vậy ta phải xuất gia hành đạo.

Hoàng Tử quỳ tâu: Phụ Vương, do nhân nào mà Phụ Vương đành bỏ con đi xuất gia. Cầu Phụ Vương từ bi cho con biết trước.

Ðức NEMIRÀJA phán rằng:

UTTAMAN GARUKÀMEYHAN.... PABBAJÀ SAMAJO MANANTI.

Này con! Phụ Vương nay đã già rồi, tóc bạc này là kẻ đem tin thứ nhì, đã phát sanh rõ rệt, cha đã qua khỏi tuổi trung niên rồi. Cha đang vào thời kỳ đến tay tử thần, không sao cẩu thả như trước được. Nay đến thời kỳ cho cha xuất gia tu hành, con hãy ở lại an vui.

Ngài bèn làm lễ tôn vương cho Hoàng Tử. Chỉ dạy, dặn dò xong, Ngài bèn xuất gia làm đạo sĩ ngự tại ngự uyển tham thiền pháp tứ vô luợng tâm, đến khi mạng chung được lên cõi trời Phạm Thiên.

Dòng dõi Ðế Vương này, phụ quyền tử kế và xuất gia liên tiếp được tám ngàn bốn trăm vị.

Ðức Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni đã dẫn cổ tích, giảng thuyết như thế, Ngài bèn gọi chư Tăng và giảng tiếp rằng: Chẳng phải Như Lai chỉ xuất gia hành đạo ba la mật trong kiếp này mà thôi. Trong các tiền kiếp, Như Lai cũng có xuất gia tu thập độ vậy.

Ngài hợp tiền kiếp lại như vầy: Thuở ấy, đức Ðế Thích nay trở lại là ANURUDDHO (A Nậu Lâu đà), vị trời MÀTALÌ nay là ANANDA, tất cả tám ngàn bốn trăm vị vua nay là hàng Phật tử, đức NEMIRÀJA nay là AHAM EVA! Như Lai SAMMÀSAMBUDDHO Giác ngộ Chánh Biết Tri như thế.

Chú thích:

[1] thời kỳ này nhân loại sống trên muôn tuổi

[2] một thứ nước chua rất mạnh

[3] Càn thác bà

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | Mục lục


Chân thành cám ơn anh NTH đã giúp đánh máy vi tính -- Bình Anson, tháng 6-2001


[Trở về trang Thư Mục]

update: 10-06-2001