|
[1]
Lời Huấn
Thị Sa Di & Sa Di Ni
Thiện nam và thiện nữ,
nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà
vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng
trì. Bằng cách hiến cúng Tam bảo, siêng trồng ruộng phước.
Đối với Hòa thượng Xà lê thì nhất luật y như giáo huấn
đúng với chánh pháp của các ngài, đối với thượng tọa
trung tọa hạ tọa thì lòng thường cung kính. Tinh tiến hành
đạo, báo ơn mẹ cha. Áo cốt che thân, không cần hoa mĩ; ăn
đủ để sống, không được đam mê. Hoa hương phấn sáp không
cho dính mình, sắc đẹp tiếng tà toàn không nhìn nghe. Nói
từ tốn, giữ nghiêm chính, đừng rao lỗi người; nếu ai
tranh chấp, nói cho đôi bên hòa hợp. Trai gái phải khác
biệt, cỏ cây cũng đừng tổn thương. Không phải người
hiền thì không thân làm bạn, không phải bậc thánh thì không
thờ làm thầy. Y và bát thường chung với mình. Phi thời không
ăn, phi pháp không nói. Tinh cần suy nghĩ nghĩa lý, ôn cũ
biết mới. Ngồi thì thiền tư, dậy thì đọc tụng. Đóng ba
đường ác, mở cửa niết bàn. Nương dựa vào pháp Tỷ kheo
mà tăng trưởng những chánh nghiệp trên đây, làm cho tâm
bồ đề không thoái chuyển, trí bát nhã trong sáng hoài.
Quảng độ chúng sinh, cầu thành chánh giác. Dụng tâm như
vậy mới thật là đệ tử của Phật.
Người làm việc trích và
chỉnh thành lời huấn dụ này là chính ngài Bách trượng
(Vạn 106/266). Lời nay có trong tất cả nghi thức truyền
giới Sa di và Sa di ni.
Mười
Điều Tâm Niệm
Thứ nhất, nghĩ đến thân
thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì
dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn
nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Thứ ba, cứu
xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc
mắc thì sở học không thấu đáo. Thứ tư, xây dựng đạo
hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng
thì chí nguyện không kiên cường. Thứ năm, việc làm đừng
mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu
ngạo. Thứ sáu, giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình
thì mất đạo nghĩa. Thứ bảy, với người thì đừng mong
tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình
thì lòng tất kiêu căng. Thứ tám, thi ân thì đừng cầu đền
đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ. Thứ chín,
thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải
động. Thứ mười, oan ức không cần biện bạch, vì biện
bạch là nhân ngã chưa xả.
Bởi vậy, Phật dạy
lấy bịnh khổ làm thuốc thần, lấy hoạn nạn làm giải thoát,
lấy khúc mắc làm thú vị, lấy ma quân làm bạnđạo, lấy
khó khăn làm thích thú, lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ,
lấy người chống đối làm nơi giao du, coi thi ân như đôi dép
bỏ, lấy sự xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm cửa ngõ
đạo hạnh. Nên chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà
cầu mong thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thế tôn thực
hiện tuệ giác bồ đề ngay trong mọi sự trở ngại. Ương
quật hành hung, Đề bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành
đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại
làm sự thuận lợi, và sự phá hoại lại làm sự tác thành,
hay sao? Ngày nay, những người học đạo, trước hết không
dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại ập
đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy
mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào?
Ghi Chú
Trước đây 10 điều tâm
niệm tôi dịch từ sự trích lục của 1 bộ sách. Nay thì tìm
ra và dịch theo nguyên văn, nằm trong Chính 47/373, tên sách là
Bảo vương tam muội niệm Phật trực chỉ, của ngài Diệu
hiệp, 1 tác phẩm mà ngài Vân thê muốn nhưng chưa thấy được
(Chính 47/354). Mười điều tâm niệm được mở đầu bằng
những lời sau đây.
Tâm tánh bình đẳng,
bản thể nguyên vẹn. Do đó mà chúng sinh tuy bị ràng buộc
trong nghiệp thức, nhưng không ai lại không có cái chí xuất
trần. Thế nhưng muốn tham cứu đạo lý thì ma chướng đã
hiện ra, một việc phiền lòng là vạn điều thiện mất
cả, thành công thì nhỏ mà thất bại quá lớn, nên người
đắc đạo quả thật quá ít. Huống chi vật dục đua nhau
khuynh loát tâm trí, sống chết giành nhau đánh đổ sinh
mạng, khiến ai cũng như ai. Làm cho cái Pháp mà Phật đã
trải qua 3 vô số kiếp, hy sinh vô số đầu mắt tủy não,
quốc thành thê tử, thân thịt tay chân, giữ giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, phụng sự thiện hữu, không tiếc tính
mạng trong việc tu tập các nhân tố của tuệ giác bồ đề
mới thực hiện được, cái Pháp ấy nhất đán đến ta,
gặp trở ngại mà thoái chí là mất tất cả, thật đáng
thống hận. Nay ta đã làm con Phật, vậy mà không nổ lực
phấn đấu, ngồi mà nhìn con mắt tuệ giác của pháp giới
chúng sinh mù mất, thì thật đau lòng còn hơn cắt da xả
thịt. Do đó mà tôi y cứ kinh điển, lập ra "10 hạnh
trở ngại lớn lao", mệnh danh là "10 hạnh không
cầu". Tình đời dẫu chẳng ai muốn trở ngại, nhưng
cố gắng chấp nhận thì những trở ngại ấy hiện ra, thân
tâm ta nhờ đã nung luyện trước trong đó, nên các thứ ma,
mọi thứ ác, hết thảy trở ngại không thể khuynh đảo hay
cản trở được nữa. Như vàng ở trong lò lửa, lửa nung vàng,
nhưng vàng lại nhờ đó mà thành vật dụng ...
Và "10 hạnh không
cầu" ấy tôi đổi tên là "10 điều tâm niệm".
Trí Quang
Đổi
Thay Và Nội Dung
Sau khi làm việc cho Bồ
tát giới, Tỷ kheo giới, Tỷ kheo ni giới, Thức xoa giới, nay
tôi làm việc cho Sa di giới và Sa di ni giới. Như vậy là 6
giới bản của xuất gia đã đủ cả. Làm việc cho Sa di
giới và Sa di ni giới như thế nào? Nguyên năm 2516 (1972) tôi
đã biên tập bộ Luật sa di và sa di ni, gồm có 3 tập. Nay tu
chỉnh bộ ấy, tu chỉnh cho gọn gàng hơn, và đổi ra tên Sa
di giới và Sa di ni giới, chia làm 2 tập.
Cũng như sách cũ, sách
mới này gồm có 9 tiểu phẩm: 1 là kinh Di giáo, 2 là kinh Bát
đại nhân giác, 3 là văn Khuyến phát bồ đề tâm, 4 là Phát
bồ đề tâm (phụ cho số 3), 5 là Cảnh sách, 6 là Tỳ ni, 7 là
Sa di luật nghi, 8 là Sa di ni luật nghi, 9 là Sa di luật nghi
lục yếu (phụ cho 2 số 7 và 8). Trong 9 tiểu phẩm này, 3
tiểu phẩm 5, 6, 7, thường gọi là "luật tiểu", còn
tiểu phẩm 8 là sao lục Vạn 106/349-355.
Tất cả 9 tiểu phẩm
chia làm 2 loại: Một, loại "phù trì của Sa di giới và
Sa di ni giới", gồm các tiểu phẩm 1, 2, 3, 4, 5, 6 (loại này
xưa chỉ có 2 tiểu phẩm 5 và 6, nay tôi thêm các tiểu phẩm
1, 2, 3, 4). Hai, là loại "chủ yếu của Sa di giới và Sa
di ni giới". gồm các tiểu phẩm 7, 8, 9. Với 9 tiểu
phẩm và 2 loại như vậy, sách này chia làm 2 tập.
Tập 1, chỉ để tụng,
học thuộc lòng, gồm có 3 phần: Một, "phần kính phụng
Di giáo", chỉ dịch nghĩa kinh này. Hai, "phần dịch âm
dịch nghĩa" Tỳ ni, Cảnh sách, Sa di luật nghi, Sa di ni
luật nghi. Ba, "phần sao lục Hoa văn" của 4 tiểu
phẩm trên. Trong 2 phần Hai và Ba, mỗi đoạn có đánh dấu
giả đặt để dễ dò.
Tập 2, chỉ để học ý
nghĩa, gồm có 2 loại : Một, "loại phù trì của Sa di
giới và Sa di ni giới", là dịch nghĩa và chú giải 6
tiểu phẩm Di giáo, Bát đại nhân giác, Phát bồ đề tâm văn,
Phát bồ đề tâm, Cảnh sách, Tỳ ni. Hai, "loại chủ
yếu của Sa di giới và Sa di ni giới", là dịch nghĩa và
chú giải 2 tiểu phẩm Sa di luật nghi và Sa di ni luật nghi,
phụ lục tiểu phẩm 9. Khác với sách cũ, trọn tập 2 này không
còn để phần dịch âm của bất cứ tiểu phẩm nào.
- | Lời Huấn Thị
Sa Di & Sa Di Ni và Mục Lục | Phần Kính
Phụng Di Giáo |
- | Tỳ Ni Nhật
Dụng Thiết Yếu | Quy Sơn Cảnh Sách Văn
|
- | Sa Di Luật Nghi
Yếu Lược | Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược
|
|