BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tương Ưng Bộ -
Samyutta Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
[10] Chương X Tương Ưng Dạ Xoa-ooOoo- I. Indaka (S.i,206) 1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), núi Indakuuta, tại trú xứ của Dạ-xoa Indaka. 2) Rồi Dạ-xoa Indaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn:
3) (Thế Tôn):
II. Sakka (S.i,206) 1) Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakuuta (Linh Thứu). 2) Rồi Dạ-xoa tên Sakka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn:
3) (Thế Tôn):
III. Suciloma (S.i,207) 1) Một thời Thế Tôn ở Gayà, trên hòn đá Tankita tại trú xứ của Dạ-xoa Suciloma. 2) Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Suciloma đi ngang qua, không xa Thế Tôn bao nhiêu. 3) Rồi Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Suciloma: -- Ðây là một Sa-môn. 4) -- Ðây không phải Sa-môn. Ðây là Sa-môn giả. Hay ít nhất cho đến khi ta biết được Sa-môn hay Sa-môn giả. 5) Rồi Dạ-xoa Suciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền nghiêng thân về phía Thế Tôn. 6) Thế Tôn liền tránh né thân của mình. 7) Dạ-xoa Suciloma nói với Thế Tôn: -- Có phải Sa-môn sợ ta? 8) -- Này Hiền giả, Ta không sợ Ông. Nhưng xúc chạm với Ông là điều đáng ghét (pàpaka). 9) -- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng. 10) -- Này Hiền giả, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, Ta không thấy một ai có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta, hay nắm lấy chân Ta, quăng Ta qua bờ bên kia. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn. 11) (Dạ-xoa):
12) (Thế Tôn):
IV. Manibhadda (S.i,208) 1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Magadha, tại điện thờ Manimàlaka, tại một trú xứ của Dạ-xoa Manibhadda. 2) Rồi Dạ-xoa Manibhadda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
3) (Thế Tôn):
V. Sanu (S.i,209) 1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Sànu, con một nữ cư sĩ bị Dạ-xoa ám ảnh. 3) Nữ cư sĩ ấy than khóc, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
4) (Sànu được khỏi ám ảnh):
5) (Bà mẹ):
VI. Piyankara (S.i,209) 1) Một thời Tôn giả Anuruddha trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha thức dậy khi đêm vừa mới sáng, đang tụng đọc pháp cú. 3) Một nữ Dạ-xoa, mẹ của Piyankara dỗ cho con nín như sau:
VII. Punabbasu (S.i,209) 1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo về vấn đề liên hệ đến Niết-bàn, tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp. 3) Rồi một nữ Dạ-xoa, mẹ Punabbasu dỗ con nín như sau:
4) (Punabbasu):
5) (Bà mẹ):
VIII. Sudatta. (S.i,210) 1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại rừng Sìta. 2) Lúc bấy giờ cư sĩ Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) đã đến Ràjagaha để làm một vài công việc. 3) Cư sĩ Anàthapindika được nghe đức Phật đã ra đời và muốn đến yết kiến Thế Tôn. 4) Rồi cư sĩ Anàthapindika suy nghĩ: "Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Ngày mai mới phải thời ta đến yết kiến Thế Tôn". Như vậy với ý nghĩ đi yết kiến đức Phật, ông Anàthapindika nằm ngủ. Trong đêm, ông ấy thức dậy ba lần, tưởng rằng trời đã sáng. 5) Rồi cư sĩ Anàthapindika đi đến cửa Sìvatthika (nghĩa địa), và có những phi nhân mở cửa. 6) Và khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra. Ông sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược và muốn đi trở về. 7) Rồi Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình, lên tiếng như sau:
8) Rồi với Anàthapindika, tối tăm biến mất, ánh sáng hiện ra. Và sợ hãi, hốt hoảng, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu hẳn xuống. 9) Lần thứ hai... (như trên)... 10) Lần thứ ba, với Anàthapindika, ánh sáng biến mất, bóng tối hiện ra. Và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược khởi lên. Và Anàthapindika muốn trở lui. Lần thứ ba, Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình lên tiếng như sau :
11) Rồi với Anàthapindika, bóng tối biến mất, ánh sáng hiện ra và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu bớt. 12) Rồi Anàthapindika đi đến rừng Sìta, đi đến Thế Tôn. 13) Lúc bấy giờ Thế Tôn thức dậy vào lúc đêm vừa mãn và đang đi kinh hành ngoài trời. 14) Thế Tôn thấy Anàthapindika từ xa đi đến, khi thấy vậy, từ chỗ kinh hành đi xuống, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Anàthapindika: -- Hãy đến đây, Sudatta! 15) Rồi cư sĩ Anàthapindika nghĩ: "Thế Tôn kêu tên ta", rồi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngủ có an lạc chăng? (Thế Tôn):
IX. Sukkà (S.i,212) 1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Sukkà, có đại chúng đoanh vây, đang thuyết pháp. 3) Rồi một Dạ-xoa có lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã tư này đến ngã tư khác ở Ràjagaha, và ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
X. Sukkà (S.i,212) 1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, một người cư sĩ đang cúng dường đồ ăn cho Tỷ-kheo-ni Sukkà. 3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã ba này ba khác ở Ràjagaha, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
XI. Cirà hay Virà (S.i,215) 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, một cư sĩ dâng y cúng dường Tỷ-kheo-ni Cirà. 3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Cirà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác tại thành Vương Xá, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
XII. Alava (S.i,218) 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở lavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavakka. 2) Rồi Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra! -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. -- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 3) Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. -- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 4) Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. -- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 5) Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. 6) -- Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm. 7) -- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng. 8) -- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn. 9) (Dạ-xoa):
10) (Thế Tôn):
11) (Dạ-xoa):
12) (Thế Tôn):
13) (Dạ-xoa):
14) (Thế Tôn):
15) (Dạ-xoa):
-ooOoo- |
Mục Lục các Tập (Thiên):
Revised: 30-11-2000