I) Thiền Định
trong Phật Giáo Nguyên Thủy
Ị1) ĐỊNH NGHĨA: Thiền định (samādhi) hay thiền
chỉ (samatha bhāvanā) có mục đích chế ngự 5
chướng ngại của định gọi là triền cái (nīvaraṇa)
và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi định phần
trong Bát Thánh Đạo (Aṭṭhaṅgik’ ariya magga)
tương ứng với ba mức độ định khác nhau:
a) Chánh tinh tấn (sammā vāyāmo): An trú nhờ cố
gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng (parikamma
nimitta) và thô tướng (uggha nimitta). An trú
này gọi là chuẩn bị định (parikamma samādhi).
b) Chánh niệm (sammā sati): An trú nhờ duy trì
nhất tâm trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga
nimitta). An trú này gọi là cận hành định (upacāra
samādhi) hay tịnh thuộc dục giới định.
c) Chánh định (sammā samādhi): An trú nhờ nhất
tâm bất động trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga
nimitta). An trú này được gọi là an chỉ định (appanā
samādhi) hay định sắc giới và định vô sắc giớị
Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn
trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối
tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu
xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên)
mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định
tâm.
Thô tướng: sau khi tập chú với tưởng đủ mạnh để
sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên
trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ
hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập
chú vào thô tướng bên trong.
Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức
tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là
quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh,
vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để
đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới
hay thiền hữu sắc.
Ị2) ĐỐI TƯỢNG thiền định (kammaṭṭhāna): Có 40
đối tượng làm công án hay đề mục thiền định:
1) 10 đề mục hình tròn (kasiṇa): Đất, nước, lửa,
gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, hư không.
2) 10 đề mục tùy niệm (anussati): Phật, Pháp,
Tăng, giới, thí, thiên, sự chết, 32 thể trược,
tịch tịnh, hơi thở.
3) 10 đề mục tử thi bất tịnh (asubha): Tử thi
mới chết, tử thi bầm tím, tử thi chảy máu, tử
thi chảy mủ, tử thi bị đâm thủng, tử thi có giòi,
tử thi bị chặt đứt đoạn, tử thi bị cắn xé, tử
thi rời rạc, tử thi chỉ còn xương.
4) 4 đề mục tâm vô lượng (appamaññā): Tâm từ vô
lượng, tâm bi vô lượng, tâm hỷ vô lượng và tâm
xả vô lượng.
5) 1 đề mục quán vật thực bất tịnh.
6) 1 đề mục phân tích tứ đại: Đất, nước, lửa,
gió.
7) 4 đề mục thiền vô sắc:
- “Hư không là vô biên” (ākāso ananto): tưởng
không này làm đối tượng của thiền hư không vô
biên xứ (ākāsānañcāyatana).
- “Thức là vô biên” (viññāṇaṃ anantaṃ): tưởng
không này làm đối tượng của thiền thức vô biên
xứ (viññāṇānañcāyatana).
- “Vô sở hữu” hay “không có gì cả” (natthi kiñci):
tưởng không này làm đối tượng của thiền vô sở
hữu xứ (ākiñcaññāyatana).
- “Vắng lặng, vi tế” (santaṃ, paṇitaṃ): tưởng
không này làm đối tượng của thiền phi tưởng phi
phi tưởng xứ (nevasaññānāsaññāyatana).
Ị3) TÁNH ĐỊNH HÀNH GIẢ (carita): Hành giả hành
thiền định có 6 loại tánh:
1) Tánh tham (rāga): hay tánh ái là tánh nặng về
tham ái, thường ham thích, mê đắm, dính mắc
trong các đối tượng dục giới khả ái, khả hỷ như
sắc, thanh, hương, vị, xúc. Người có tánh tham
nên hành 10 đề mục tử thi bất tịnh, 1 đề mục về
32 thể trược, vì những đề mục này có thể chế ngự
được lòng tham ái, nhưng không nên hành 4 đề mục
vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả và 4 đề mục xanh,
vàng, đỏ, trắng vì những đề mục này dễ sinh tham
áị
2) Tánh sân (dosa): là tánh nặng về sân hận,
thường biểu hiện trạng thái bất mãn, trái ý,
không vừa lòng, nóng nảy, căng thẳng, bực bội…
Người có tánh sân nên hành 4 đề mục vô lượng tâm:
Từ, bi, hỷ, xả và 4 đề mục xanh, vàng, đỏ, trắng
vì những đề mục này làm cho tâm dễ lắng dịu,
nhưng không nên hành 10 đề mục tử thi bất tịnh,
1 đề mục về 32 thể trược vì những đề mục này dễ
làm cho tâm chán nản bực bội thêm.
3) Tánh si (moha): là tánh nặng về si mê, thường
thiếu sáng suốt, không tỉnh táo, hay thụ động,
mê muội nên dễ bị hôn trầm thụy miên. Người có
tánh si nên hành đề mục hơi thở để dễ tỉnh táo,
trong sáng và linh hoạt hơn, nhưng không nên
niệm sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật thực bất
tịnh, phân tích tứ đại vì những đề mục này quá
phức tạp đối với tâm tánh nàỵ
4) Tánh tầm (vitakka): là tánh nặng về suy nghĩ,
tìm tòi nên tâm luôn lăng xăng với những suy
luận, phê phán, đánh giá... và dễ dàng trở nên
trạo hối bất an. Người có tánh tầm cũng giống
như tánh si thích hợp với đề mục hơi thở. Không
hợp với niệm sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật
thực bất tịnh và phân tích tứ đạị
5) Tánh tín (sahā): là tánh nặng về tin tưởng,
thường cung kính, ngưỡng mộ, dễ nghe, dễ dạỵ
Người có tánh tín nên hành 6 đề mục tùy niệm:
Niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên vì nhờ
tin nơi những đức tính cao thượng này mà tâm dễ
ổn định.
6) Tánh giác (buhi): là tánh sáng suốt, tỉnh
thức nên tâm ít vọng động, thường trong sáng,
bén nhạy, vi tế. Người có tánh giác hợp với niệm
sự chết, niệm tịch tịnh, quán vật thực bất tịnh,
phân tích tứ đại vì sự trong sáng, bén nhạy và
vi tế của tâm hành giả có tánh giác dễ an trú
trong các đề mục vi tế nàỵ
Cả 6 tánh đều hợp với 6 đề mục kasiṇa: Đất, nước,
lửa, gió, ánh sáng và hư không.
Ị4) ĐỀ MỤC THIỀN ĐỊNH và ĐỊNH CHỨNG:
1) 10 đề mục chỉ chứng cận định: 8 đề mục tùy
niệm: Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên, sự
chết, tịch tịnh và 2 đề mục: quán vật thực bất
tịnh, phân tích tứ đại chỉ giúp hành giả đạt
được cận định vì những đề mục này còn tư duy và
ngôn ngữ không thể vào sơ thiền.
2) 11 đề mục chỉ chứng sơ thiền: 10 đề mục tử
thi, 1 đề mục 32 thể trược chỉ giúp hành giả đạt
được sơ thiền, không thể sâu hơn vì những đề mục
này đòi hỏi phải duy trì tầm và tứ. Khi không
còn tầm tứ mới vào được nhị thiền.
3) 3 đề mục chỉ chứng đến đệ tam thiền: 3 đề mục
từ, bi và hỷ chỉ giúp hành giả chứng từ sơ thiền
đến tam thiền thôi vì đến tứ thiền thì đã có xả
thay thế.
4) 1 đề mục chỉ chứng tứ thiền: đề mục xả chỉ
giúp hành giả đạt được tứ thiền vì ở tứ thiền xả
mới thật sự xuất hiện mạnh mẽ. Thực ra ở các bậc
thiền khác đều có xả nhưng chưa đủ mạnh.
5) 11 đề mục chứng tất cả thiền sắc giới: 10 đề
mục kasiṇa, 1 đề mục hơi thở có thể giúp hành
giả chứng được từ sơ thiền đến tứ thiền sắc giới
vì những đề mục này rất cụ thể, rõ ràng và ổn
định hơn các đề mục khác nên không đòi hỏi phải
tin tưởng hay suy luận gì cả nhờ vậy tâm dễ
chuyên nhất hơn.
6) 4 đề mục chứng 4 bậc thiền vô sắc tương đương:
sau khi đã đạt được đệ tứ thiền hữu sắc hành giả
sử dụng 4 đề mục tưởng không làm đối tượng để
chứng đắc 4 thiền vô sắc.
- Đề mục “hư không là vô biên” chỉ giúp hành giả
chứng không vô biên xứ thiền.
- Đề mục “thức là vô biên” chỉ giúp hành giả
chứng thức vô biên xứ thiền.
- Đề mục “không có gì cả” chỉ giúp hành giả
chứng vô sở hữu xứ thiền.
- Đề mục “vắng lặng, vi tế” chỉ giúp hành giả
chứng phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền.
Ị5) NĂM TRIỀN CÁI (Nīvaraṇa): Năm pháp này làm
trở ngại và che lấp tâm định nên còn gọi là pháp
chướng ngại:
1) Tham dục (kāmacchanda): tâm sở tham dục có
trạng thái ưa thích, đam mê, ham muốn, dính mắc
trong ngũ dục làm cho tâm phân tán khó tập trung.
Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại cho
tâm định.
2) Sân hận (byāpāda): tâm sở sân có trạng thái
bất mãn, bất bình, không hài lòng hay đối kháng
với cảnh chướng ngại trong quá khứ hoặc nôn nóng
muốn thoát khỏi nghịch cảnh, muốn khử trừ điều
kiện bất như ý trong hiện tại v.v... làm cho tâm
nóng nảy, khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền
định.
Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm trên đề mục
thiền bỗng nghe tiếng nhạc, nếu vì ưa thích mà
tâm bị phân tán đó là tham dục triền cái, nếu cố
chống lại tiếng nhạc mà tâm không chuyên chú
được đó là sân hận triền cáị
3) Hôn trầm - thụy miên (thīna – miha): tâm sở
hôn trầm có trạng thái lười chán, buông xuôi,
không hăng hái; tâm sở thụy miên có trạng thái
giãi đãi, trì trệ, ngái ngủ. Hai tâm sở này đồng
một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động
khiến cho tâm không thể chú hướng vào đề mục
thiền định được.
4) Trạo – hối (uhacca – kukkucca): tâm sở trạo
cử có trạng thái phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ,
nhất là về tương lai; tâm sở hối quá có trạng
thái nóng nảy, ray rứt, hối tiếc về những sai
lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm
lẫn với trạng thái ăn năn, hối cải thuộc tâm
thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất tháo
động, bồn chồn, bất an khiến cho tâm không an
lạc trên đề mục thiền định.
Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm được vài giây
thì tâm đã trượt khỏi đề mục, nếu do lười chán
hay giãi đãi mà không an lạc đó là triền cái hôn
trầm thụy miên, nếu do suy nghĩ vẩn vơ hay hối
tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là triền cái
trạo hốị
5) Nghi (vicikicchā): tâm sở nghi có trạng thái
lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này
làm cho tâm không đứng vững được trên đề mục
thiền định.
Hôn trầm thụy miên là tâm sở có trạng thái thụ
động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các
tâm hữu trợ (sasaṇkhārika). Trạo hối và nghi là
tâm sở có trạng thái dao động, làm cho tâm không
sáng suốt cho nên thay nhau có mặt trong hai tâm
sị
Ị6) NĂM THIỀN CHI (Jhānaṇga): năm tâm sở này là
thành tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự
năm triền cái:
1) Tầm (vitakka): là tâm sở có phận sự đánh thức
tâm chú hướng đến đề mục thiền định, giống như
con bướm tìm thấy một bông hoa và hăng hái bay
về huớng đó. Nhưng nếu tâm cứ bỏ rơi đối tượng
do trầm trệ, giãi đãi, giống như con bướm chưa
tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc, tức là
tầm chưa đủ tinh cần nỗ lực để vượt qua trạng
thái buông xuôi tiêu cực. Do vậy khi tầm có đủ
lực nhất hướng đến đối tượng thì hôn trầm thụy
miên bị chế ngự.
2) Tứ (vicāra): là tâm sở có phận sự giữ tâm
đứng vững trên đề mục thiền định, giống như khi
con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm cách giữ
thăng bằng để đậu lại trên đóa hoa đó. Nhưng nếu
tâm chưa đứng yên trên đối tượng do còn lưỡng lự
bất quyết, giống như con bướm tuy đã đậu xuống
mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp chớp
đôi cánh chực bay, tức là tứ chưa vững để dừng
lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không
còn trạng thái phân vân do dự của nghị
3) Hỷ (pīti): là tâm sở có trạng thái phấn chấn,
hoan hỷ, sảng khoái trên đề mục thiền định, như
cảm thấy toàn thân rởn ốc (khuakā), chớp sáng (khaṇikā),
sóng đưa (okkanti), lâng lâng bay bổng (ubbega),
mát lạnh (pharaṇa), giống như khi con bướm đang
hứng thú thưởng thức mật hoạ Nhưng nếu tâm chưa
phát sinh hỷ do còn căng thẳng hay cố gắng quá
mức, giống như con bướm chưa hút được mật nên
chưa vừa ý. Khi tâm đã tìm thấy sự thích thú
hoan hỷ trên đề mục thiền định thì sân mới được
chế ngự.
4) Lạc (sukha): là tâm sở có trạng thái bình yên,
an ổn và thỏa mãn trên đề mục thiền định, giống
như con bướm đã hút mật đầy đủ, không còn bồn
chồn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng nữa, vì thế
lạc chế ngự được trạo hốị
5) Nhất tâm (ekaggatā): hay định là trạng thái
an chỉ, bất động trên đề mục, giống như con bướm
đã no đủ nằm yên ngơi nghỉ trên đóa hoa, không
ham muốn gì nữa, nhờ vậy tham dục được chế ngự.
Ị7) CÁC BẬC THIỀN và CÁC CHI THIỀN:
1) Sơ thiền: Đầu tiên, hành giả chọn một trong
40 đề mục thiền định nói trên, rồi sau khi ngồi
thoải mái với thân thư giãn, tâm buông xả, vị ấy
tinh tấn hướng tâm tiếp cận đối tượng, không quá
cố gắng, cũng không lơ là, chỉ cần vừa đủ để tâm
vượt qua trạng thái hôn trầm thụy miên, không
còn lười biếng giãi đãi thì có thể chú hướng
vững vàng về phía đối tượng ấy, đó là trạng thái
tầm. Khi đã không còn luời biếng bỏ rơi đối
tượng, tâm bắt đầu tìm cách áp sát trên đối
tượng, tâm hành giả đã lấy lại được thăng bằng,
không nghi hoặc, không phân vân do dự nữa, đó là
trạng thái tứ. Nhờ tâm thăng bằng, không nghi
hoặc đã cảm giác được sự vui thích, hứng thú
trên đối tượng, không còn bực bội, chán nản hay
sân hận nữa, đó là trạng thái hỷ. Sự hoan hỷ,
phấn khởi này lắng dịu dần, để lại một sự bình
an, tĩnh lặng, không còn một gợn sóng của dao
động bất an, đó là trạng thái lạc của thiền. Đến
đây tâm đã có thể an trú, tĩnh chỉ, nhất tâm và
hoàn toàn quân bình (xả), không còn khởi lên một
tham muốn nào đối với ngũ dục. Đó là trạng thái
nhất tâm hay an chỉ định. Với những trải nghiệm
trên, hành giả đã chứng sơ thiền sắc giới, tâm
vị ấy có đủ năm thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc,
nhất tâm. Sơ thiền được Đức Phật mô tả là trạng
thái “ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền
thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có
tầm có tứ”.
2) Nhị thiền: Khi hành giả đã thuần thục trong
sơ thiền, có thể nhập xuất dễ dàng, nếu vị ấy
không quá thỏa thích đến nỗi bám víu trong thiền
chứng này, thì hoặc là vị ấy cố gắng từ bỏ tầm
và tứ vì thấy chúng còn thô, hoặc do tâm định
tiến triển hành giả tự động vượt qua hai chi
thiền này một cách dễ dàng để vào tâm thiền thứ
haị Nhị thiền chỉ còn lại ba chi: hỷ, lạc, nhất
tâm, được Đức Phật mô tả là trạng thái “diệt tầm
tứ, chứng trú thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc
do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất
tâm”.
3) Tam thiền: Cũng trong chiều hướng phát triển
tốt của tâm định, hành giả thấy hỷ vẫn còn thô,
chưa hoàn toàn an tĩnh nên đã cố gắng vượt qua,
hoặc tâm định đủ sâu để vào thẳng trạng thái an
lạc vi tế của tâm thiền thứ ba, không cần qua
tầm, tứ và hỷ chỉ còn lại hai chi thiền: lạc,
nhất tâm, được Đức Phật mô tả là trạng thái “ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng trú thiền thứ ba”.
4) Tứ thiền: Khi định sâu hơn nữa, vi tế hơn nữa,
thì ngay cả an lạc cũng được vượt qua, tâm hành
giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm,
tứ, hỷ, lạc, chỉ còn chi thiền nhất tâm. Vì nhất
tâm ở đây kiên cố hơn nhất tâm trong các bậc
thiền trước nên tâm hoàn toàn bất động, hoàn
toàn vô cảm đối với thế giới bên ngoài, vì vậy
trong tâm tứ thiền có yếu tố xả luôn xuất hiện
bên cạnh nhất tâm, và cũng vì vậy tứ thiền được
Đức Phật mô tả là trạng thái “xả lạc khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ
tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh”.
5) Bốn thiền vô sắc: tuy có đối tượng và bậc
thiền khác nhau nhưng tâm vẫn có hai chi thiền
giống như tứ thiền hữu sắc là nhất tâm và xả.
Ị8) TIẾN TRÌNH TÂM NHẬP ĐỊNH (Jhāna samapatti
vīthi): Khi hành giả đã nắm bắt được đề mục sơ
tướng (parikkamma nimitta) bên ngoài trở thành
thô tướng (uggha nimitta) trong tâm, vị ấy
chuyên chú hơn nữa trên thô tướng này cho đến
khi quang tướng (paṭibhāga nimitta) khởi lên,
nếu chú tâm đúng mức vào quang tướng này vị ấy
có thể đắc định, bấy giờ một tiến trình tâm nhập
định sẽ diễn ra như sau:
1) Hữu phần (bhavaṅga): trạng thái tiềm ẩn và
thụ động của tâm trôi qua khi đối tượng quang
tướng vừa mới xuất hiện. Kế đó là hai tâm sát-na
hữu phần:
2) Hữu phần rung động (bhavaṅgacalana)
3) Hữu phần dừng lại (bhavaṅgupacchea)
Đến đây lộ trình tâm mới thật sự khởi lên:
4) Ý môn hướng tâm (manovāravajjana): qua 3
sát-na của giai đoạn hữu phần, ý môn hướng tâm
khởi lên nắm giữ đối tượng quang tướng.
5) Chuẩn bị (parikamma): nếu việc nắm giữ đối
tượng vững vàng thì định chuẩn bị (parikamma
samādhi) phát sinh.
6) Cận hành (upacāra): tiếp theo tâm hành giả
đạt đến một trạng thái yên lặng gọi là định cận
hành (upacāra samādhi). Vì định cận hành không
vững chắc, còn thuộc tâm dục giới, nên đến đây
nếu tâm hành giả yếu thì chỉ giữ được một thời
gian ngắn rồi mất, không vào được định an chỉ.
7) Thuận thứ (anuloma): nếu tâm hành giả đủ mạnh
thì sau trạng thái định cận hành tâm sẽ tự động
chuyển vào định an chỉ (appanā samādhi) thông
qua hai giai đoạn sau:
8) Chuyển tánh (gotrabhū): trước khi hoàn toàn
an chỉ tâm phải chuyển từ trạng thái dục giới
qua sắc giới thì mới hoàn toàn định được.
9) Thiền tâm (Jhānacitta): đến đây tâm đã hoàn
toàn an chỉ theo các bậc thiền sắc giới mà hành
giả chứng được, như sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền hay tứ thiền. Thời gian an trú trong định
này lâu hay mau tùy vào sự thuần thục và sức
nguyện của hành giả. (Xem Ị9)
10) Hữu phần (bhavaṅga): sau đó tâm lại trở về
trạng thái hữu phần, chấm dứt một tiến trình tâm
nhập định.
Ị9) NĂM PHÁP THUẦN THỤC (vasī): Khi một hành giả
đã đắc định nếu không thuần thục thì không thể
nhập xuất định như ý muốn. Để có thể giữ trạng
thái định trong một thời gian như ý nguyện thì
hành giả phải hành 5 pháp sau đây cho đến khi
thuần thục:
1) Hướng tâm thuần thục (āvajjana vasī): ý môn
hướng tâm thuần thục trong việc nắm bắt quang
tướng (paṭibhāga nimitta). Một người đã thuần
thục thì ý môn hướng tâm có thể nắm bắt đề mục
quang tướng bất cứ lúc nào vị ấy hành thiền định.
2) Nhập định thuần thục (samāpajjana vasī): khả
năng nhập định ngay lập tức một cách dễ dàng
không trở ngạị Khi đã thuần thục ở giai đoạn này,
ngay sau khi ý môn hướng tâm vừa nắm bắt đối
tượng thì hành giả có thể nhập định ngay không
chậm trễ.
3) Nguyện nhập thuần thục (ahiṭṭhāna vasī):
nguyện thời gian nhập định chính xác. Khi đã
thuần thục trong nguyện nhập, hành giả có thể
nhập định trong 1 giờ, 1 ngày hay 7 ngày v.v...
tùy theo ý muốn.
4) Nguyện xuất thuần thục (vuṭṭhāna vasī):
nguyện thời gian xuất định chính xác. Nguyện
nhập và nguyện xuất thường đi đôi với nhaụ Nếu
muốn, trước khi nhập định vị ấy nguyện rõ thời
gian xả định. Ví dụ, vị ấy nhập định lúc 7 giờ
tối, có ý muốn xả vào lúc 7 giờ sáng hôm sau thì
chỉ cần nguyện là được.
5) Hồi quán thuần thục (paccavekkhaṇa vasī): tốc
hành tâm quan sát lại các chi thiền đã chứng một
cách nhuần nhuyễn. Sự thuần thục trong việc hồi
quán này rất quan trọng vì nhờ đó hành giả biết
rõ mình đã chứng đến bậc thiền nào, có bao nhiêu
thiền chi, nếu không rất dễ nhầm lẫn mình đã đắc
những bậc thiền mà thật ra là chưa đắc hoặc
ngược lạị
Ị10) TỨ NHƯ Ý TÚC (ihipāda): Khi hành giả đã đạt
được tứ thiền hữu sắc một cách thuần thục thì có
thể sử dụng tứ như ý túc (hay tứ thần túc) để
phát triển thần thông.
1) Dục như ý túc (chand’ ihipāda): trước tiên
hành giả phải có nguyện vọng đạt đến một loại
thần thông nào đó, chẳng hạn như biến hoá thần
thông, thiên nhãn thông v.v... Nguyện vọng phải
tha thiết vì thiện ích cho mình và người thì mới
thực sự là dục như ý túc chân chính.
2) Cần như ý túc (viriy’ ihipāda): sau đó vị ấy
phải chuyên cần, nỗ lực thực hiện nguyện vọng
chính đáng của mình. Có nguyện vọng thiết tha
nhưng thiếu tinh cần đúng mức thì cũng trở thành
vô nghĩạ Nỗ lực quá đáng vì tham vọng quá sức
mình cũng chỉ phí công vô ích, nếu không nói là
chuốc lấy tai họa vào thân.
3) Tâm như ý túc (citt’ ihipāda): nhưng tinh cần
phải đúng chỗ nghĩa là chỉ giúp cho tâm chuyên
nhất một ý tưởng trước sau như một. Ví dụ vị ấy
muốn đất thành nước thì phải nhất tâm nghĩ đất
là “nước… nước…nước…” không thay đổi cho đến khi
ý tưởng đó trở thành hiện thực. Chính vì vậy,
nếu chưa đắc tứ thiền một cách thuần thục thì
chớ vội luyện thần thông. Nhiều người thiếu kiên
nhẫn, nhưng mong muốn sớm có thần lực đã phải
tập trung tâm để cầu tha lưc hỗ trợ, họ có thể
đạt được một số pháp thuật vay mượn nhưng đó
không phải là tâm như ý túc chân chính.
4) Thẩm như ý túc (vimaṃsā ihipāda): tuy nhiên
nếu vị ấy không đủ trí để thẩm sát vấn đề một
cách rành rẽ, tường tận thì cũng không thể đạt
được thần thông. Ví như người muốn làm một cái
bánh, tuy có cố gắng, có quyết tâm nhưng không
biết cách làm bánh thì chỉ hao tổn công sức mà
vẫn không có được bánh ngon.
Thực ra, bốn điều như ý này rất cần trong đời
sống hàng ngày của chúng tạ Khi làm một việc gì,
dù đơn giản nhất, trước tiên chúng ta cũng phải
khởi ý muốn làm việc đó (dục như ý), nhưng muốn
làm mà không có một chút cố gắng nào thì làm sao
thực hiện được, nên nỗ lực, hăng hái (cần như ý)
là điều kiện không thể thiếụ Tuy nhiên có cố
gắng mà không chuyên chú nhất tâm (tâm như ý)
thì vẫn chuốc lấy thất bạị Sau cùng, cho dù đã
chuyên nhất mà không hiểu biết, không rành rẽ
công việc một cách chu đáo (thẩm như ý) thì khó
mà hoàn thành công việc một cách như ý. Vì vậy
pháp này được gọi là bốn điều kiện để hoàn thành
mọi việc một cách như ý.
Ị11) NGŨ THÔNG & THẮNG TRÍ (abhiññā): Thần thông
là loại hình khoa học tâm linh đạt được nhờ một
sức mạnh nội tâm gọi là thắng trí, trí tuệ siêu
việt này phát sinh từ thiền định ở mức độ caọ
Hành giả sau khi đạt được tứ thiền, đã có những
pháp thuần thục, đã tu tập bốn điều kiện như ý
một cách đầy đủ, có thể đạt được năm loại thần
thông sau đây:
1) Thần túc thông (ihiviha abhiññā): hay biến
hoá thần thông là khả năng biến một thân thành
nhiều thân, tàng hình, độn thổ, bay trên hư
không, tự hóa mình hay hóa người khác ra thành
một vật nào đó như ý muốn v.v...
2) Thiên nhãn thông (dibba cakkhu abhiññā): hay
thần nhãn là khả năng thấy xa, thấy xuyên qua
tường, thấy dưới lòng đất (khác với thiên nhãn
minh là thấy rõ nhân quả nghiệp báo luân hồi
sinh tử của chúng sinh). Một số người tự nhiên
có khả năng này mà không hề trải qua quá trình
tu tập thiền định, nhưng đó là nhờ vào tha lực
bên ngoài chứ không phải là thiên nhãn thông
thật sự.
3) Thiên nhĩ thông (dibba sota abhiññā): là khả
năng nghe được tiếng nói từ xa, tiếng nói của
chư thiên hay những loài khác. Trường hợp một số
người thỉnh thoảng nghe tiếng ai đó báo trước
một sự việc sẽ xảy ra, hoặc có cảm giác như nghe
được nội dung câu chuyện luận bàn của người khác
từ xa thì đó có thể là do tha lực, nhưng phần
lớn là do bệnh hoang tưởng chứ không phải thiên
nhĩ thông.
4) Túc mạng thông (pubbe nivāsānussati abhiññā):
khả năng nhờ thiền định mà nhớ lại một số kiếp
trước của mình hay của người khác. Lúc còn bé,
một số người có thể nhớ lại kiếp trước của mình
nhưng khi lớn lên lại quên hết không nhớ gì cả.
Đó là sự tái hiện một số thông tin về tiền kiếp
từ kho vô thức (bhavaṅga) lúc tâm trí chưa bị
những thông tin mới phủ kín, chứ không phải là
túc mạng thông có từ thiền định.
5) Tha tâm thông (paracitta vijānana abhiññā):
khả năng đọc được tâm tư, ý nghĩ của người khác.
Trong một số trường hợp còn được gọi là ký
thuyết thần thông vì qua sự biểu hiện bên ngoài
của một người mà đọc được tư tưởng của người ấỵ
Nhưng nếu căn cứ vào nhân tướng mà đoán được vận
mệnh của một người thì không phải là tha tâm
thông.
Chúng ta cần lưu ý: thần thông khác với pháp
thuật. Thần thông do trình độ định tâm cao (từ
tứ thiền trở lên) và phát triển đúng hướng bằng
tự lực mà đạt được. Còn pháp thuật phần lớn đạt
được bằng cách cầu viện đến tha lực và không cần
phải đạt đến tứ thiền, đôi lúc chỉ cần niềm tin
hay cận định là đủ.
Ị12) LỢI ÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH:
1) An lạc hiện tại: hành giả đã thuần thục trong
việc nhập và xuất định có thể nguyện nhập bậc
định mà mình đã chứng để hưởng sự an lạc ngay
trong hiện tại, tạm thời thoát khỏi sự quấy rầy
của ngoại cảnh nên gọi là hiện tại lạc trú
(diṭṭhahamma sukha vihàrati).
2) Có thể chứng ngũ thông: hành giả đạt được tứ
thiền hữu sắc một cách thuần thục có thể sử dụng
tứ như ý túc để phát triển thần thông và chứng
được năm loại thần thông như đã nói trên. Về
phương diện giác ngộ giải thoát thì không cần
đến ngũ thông, nhưng nếu biết dùng làm phương
tiện lợi lạc quần sinh thì thần thông cũng trở
thành đại dụng.
3) Làm nền tảng cho thiền tuệ: hành giả có chứng
đắc định ở bất kỳ bậc thiền nào, sau khi xả
định, tâm còn an ổn trong sáng có thể hành thiền
tuệ một cách dễ dàng. Nhiều người có thể đạt
được tuệ giác một cách tự nhiên nhờ tâm đã thuần
thục trong định tĩnh sáng suốt và đầy đủ các
hạnh balamật. Mặt khác hành giả cũng có thể lấy
ngay tâm thiền hoặc thiền chi đang chứng làm đối
tượng thiền tuệ, như niệm thân là sắc ý căn,
niệm thọ là hỷ và lạc, niệm tâm như “nội tâm có
định tuệ tri tâm có định”, niệm pháp như khinh
an, định, xả giác chi v.v...
4) Các bậc Thánh có thể nhập thánh quả định:
hành giả đã chứng đắc định ở bất kỳ bậc thiền
hữu sắc hay vô sắc nào sau đó đắc một trong các
quả Thánh thì vị ấy có thể nhập thánh quả định
tương ứng để thể nhập tự tại Niết-bàn trong
Thánh quả định đó.
5) Bậc Anahàm trở lên có thể nhập diệt thọ tưởng
định: khi hành giả đã chứng đắc đến bậc thiền vô
sắc phi tưởng phi phi tưởng xứ định và đã chứng
quả Anahàm trở lên có thể nhập diệt thọ tưởng
định, nghĩa là trong thời gian nhập định này các
tâm, tâm sở, sắc pháp do tâm sinh bị diệt, chỉ
còn lại sắc pháp do nghiệp, thời tiết, vật thực
sinh mà thôị Đây là một loại định đặc biệt hoàn
toàn vắng lặng và bất khả xâm phạm của các bậc
thánh từ Anahàm trở lên mới có được.
6) Quả báu trong kiếp sau: nếu hành giả đắc định
nhưng chưa đắc quả Alahán thì sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sinh lên các cõi trời sắc giới
hoặc vô sắc giới đặc biệt tương ứng với bậc
thiền mà mình đã chứng để hưởng quả định:
6a) Sắc giới thiền:
- Sơ thiền bậc hạ: Phạm chúng thiên
- Sơ thiền bậc trung: Phạm phụ thiên
- Sơ thiền bậc thượng : Đại phạm thiên
- Nhị thiền bậc hạ: Thiểu quang thiên
- Nhị thiền bậc trung: Vô lượng quang thiên
- Nhị thiền bậc thượng: Quang âm thiên
- Tam thiền bậc hạ: Thiểu tịnh thiên
- Tam thiền bậc trung: Vô lượng tịnh thiên
- Tam thiền bậc thượng: Biến tịnh thiên
- Tứ thiền của phàm phu: Vô tưởng thiên
- Tứ thiền của bậc Nhập Lưu và bậc Nhất Lai:
Quảng quả thiên
- Tứ thiền của bậc Bất Lai: Phước Sinh Thiên
+ Tín Bất Lai: Vô phiền thiên
+ Tấn Bất Lai: Vô nhiệt thiên
+ Niệm Bất Lai: Thiện hiện thiên
+ Định Bất Lai: Thiện kiến thiên
+ Tuệ Bất Lai: Sắc cứu cánh thiên
6b) Vô sắc giới thiền:
- Đệ nhất thiền : Không vô biên xứ thiên
- Đệ nhị thiền: Thức vô biên xứ thiên
- Đệ tam thiền: Vô sở hữu xứ thiên
- Đệ tứ thiền : Phi tưởng phi phi tưởng xứ
thiên.
Phật Giáo Nguyên Thủy không xem thiền định là
cứu cánh hay mục đích cuối cùng vì định chỉ có
thể chế ngự các triền cái, giúp ổn định tâm như
đá đè cỏ chứ không đoạn tận phiền não khổ đau,
không chấm dứt luân hồi sinh tử. Dù vậy định vẫn
được chấp nhận như yếu tố hỗ trợ cho tiến trình
Giới, Định, Tuệ đưa đến Đạo, Quả, Niết-bàn, vì
vậy, định có mặt trong nhiều pháp môn phẩm trợ
đạo: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ
căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạọ Định
cũng trở thành đại dụng trong những điều lợi ích
đã kể trên.
Tóm lại, thiền định, ở một mức độ nào đó, là rất
cần thiết, không thể bỏ qua, nhưng chưa phải là
yếu tố rốt ráo, nên chưa đủ để thành tựu cứu
cánh giác ngộ giải thoát.