BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
NHÂN ĐẠI LỄ KỶ NIỆM NGÀY ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH,
SUY NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CỦA TÌNH THƯƠNG VÀ THÁI ĐỘ HỌC PHẬT
Giáo sư Minh Chi
1.
Giá trị của tình thương yêu
Ðôi điều tâm sự của tôi đồng thời cũng là đôi điều học tập được, sau gần cả một cuộc đời hướng tới đạo Phật và những thông điệp của Ngài, chứa đựng những chân giá trị sống động, mà bất cứ người nào dù xưa hay nay, ở phương Ðông hay phương Tây cũng đều mơ ước có được cho mình. Điều quý báu thứ nhất mà tôi học tập được từ đạo Phật là con người phải cố gắng sống tốt, sống thiện lành, với tình thương yêu chân thật và rộng lớn đối với mọi người, mọi vật. Nếu mình sống tốt, thiện lành với mọi người, thì một cách tụ nhiên, mọi người cũng sẽ sống tốt và thiện lành đối với mình. Ðó là quy luật nhân quả, một quy luật rất công bằng. Ai cũng có thể hiểu điều này, cảm nhận điều này trong cuộc sống hàng ngày. Ðó là một sự cảm nhận rất tự nhiên, và cũng vì rất tự nhiên cho nên là đúng đắn, không sai. Mình làm điều lành, thì tự nhiên tâm cảm thấy vui, một niềm vui rất thật mà trong sách gọi là phúc lạc, tức là niềm vui do phúc đức đem lại.Trái lại, nếu làm một việc không thiện lành, có những lời nói và ý nghĩ không thiện lành, thì một cách tự nhiên, chúng ta cảm nhận trong tâm bứt rứt, khổ não không yên. Sự cảm nhận này cũng chân thật như khi ta cảm nhận vui trong tâm sau một việc làm thiện lành vậy, hay là sau một lời nói hay một ý nghĩ thiện lành. Nếu chúng ta sống tỉnh giác, biết lắng nghe tiếng nói của nội tâm phê phán chúng ta qua cảm thọ, thì trong cuộc sống, chúng ta sẽ có cơ hội tạo ra thêm bao nhiêu điều thiện lành, trong cả ý nghĩ, lời nói và việc làm, và cũng như vậy chúng ta sẽ tránh được bao nhiêu điều ác, vừa hại cho bản thân, vừa lại cho xã hội. Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nói và ý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật. Tình thương đó vốn có sẵn trong chúng ta, nó càng rộng rãi bao nhiêu, thì tính vị kỷ cũng sẽ giảm bớt tương đương bấy nhiêu. Mà tính vị kỷ thói hư tật xấu làm gì, nói gì , nghĩ gì cũng vì cái Ta, chính đó thực sự là cội nguồn của mọi bất hạnh và đau khổ, mọi xung đột và chiến tranh, mâu thuẫn, hiện đang gây bao tang tóc, bao nước mắt và máu ở những nơi như Palestine, Israel, Afghanistan, Paskistan... Chúng ta đối trị tính vị kỷ không phải trên bình diện lý thuyết mà bằng tình thương rộng rãi, bao la mà sách Phật thường gọi là lòng từ, lòng bi... Chính tình thương đó, trong sự thực thi hàng ngày của nó, là phương thuốc đối trị có hiệu quả nhất đối với cái Ta vị kỷ. Trong bài viết này, tôi không dùng hai khái niệm và từ ngữ quen thuộc là lòng từ, lòng bi mà chỉ dùng hai chữ tình thương, bởi lẽ tất cả mọi người dù là Phật tử hay không đều có sẵn tình thương đó, là điều quý báu nhất của con người, trong cả một đời. Chúng ta hiểu tình thương là thái độ nhạy cảm và đồng cảm giữa con người và con người, giữa con người và tất cả những gì mà con người tiếp cận. Tình thương là thái độ gần gũi, dịu dàng, không hại lẫn nhau mà làm tốt cho nhau trong phạm vi khả năng của mỗi bên. Biết sống với tình thương đó là biết sống hạnh phúc, biết sống có ý nghĩa. Còn nếu không có tình thương đó, hay đúng hơn, tuy vốn có tình thương đó nhưng lại để cho nó mai một, héo tàn, thì anh có sống cũng như chết rồi! Ðạo Phật rất coi trọng lòng từ và lòng bi cũng vì lẽ đó. Bồ tát Quán Thế Âm sở dĩ được trọng vọng và sùng bái khắp nơi ở Ðông Á, đặc biệt là ở nước ta, chính vì Ngài là biểu trưng sống động của lòng từ bi lớn. Chính lòng từ bi là cội rễ của tâm Bồ đề, tức là cái tâm qiác ngộ (bodhicitta). Vì vậy mà khi kết thúc cuộc đối thoại với nhà khoa học vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt là Trịnh Xuân Thuận và thầy Matthieu Ricard đã dẫn chứng rất đúng chỗ, bài thơ của Thiền sư Tây Tạng Khabbar: "Ai
có lòng bi thì người đó nắm bắt được mọi giáo lý (Xem "L’univers dans la paume de la main" [Vũ trụ trong lòng bàn tay], trang 423–chuyển dẫn từ bản dịch của Huyền Chân, nguyệt san Giác Ngộ số 72, tr.29). Chúng ta cũng nên chiêm nghiệm lời tuyên bố sâu sắc và đầy ý nghĩa của ngài Ðạt Lai Lạt Ma XIV: "Trái tim tôi là ngôi chùa của tôi. Tình thương là triết lý của tôi, tôi không cần một triết lý phức tạp nào khác..." (The Tibetan book of living and dying–Cuốn sách Tây Tạng về sự sống và sự chết, tr.95) Bấy nhiêu dẫn chứng cũng đủ để chúng ta thấy rõ, đạo Phật coi trọng tình thương bao la, rộng rãi đó như thế nào, tình thương mà sách Phật gọi là lòng từ, lòng bi, một tình thương tuôn ra từ lòng người một cách tự nhiên, tỏa sáng khắp mọi người, mọi vật mà nó đụng chạm đến. Nếu tất cả Phật tử chúng ta, là Tăng hay tục, nam hay nữ, tất cả đều cảm nhận phải sống bằng tình thương như vậy mới là sống hạnh phúc và có ý nghĩa, hàng nghìn, vạn, triệu Phật tử chúng ta đều đối đãi với nhau như vậy và đối đãi với mọi người, mọi vật cũng như vậy thì xã hội chúng ta sẽ tốt đẹp lên bao nhiêu. Bởi lẽ, một khi đã có sẵn tình thương đó ở trong lòng, thì một cách tự nhiên, mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của chúng ta, trên mọi cương vị, mọi hoàn cảnh, cũng sẽ đều thấm nhuần mọi tình thương đó. Thí dụ. bác sĩ chữa bệnh và săn sóc bệnh nhân không phải chỉ với thuốc men và kiến thức y học mà còn với tình thương đó; thầy dạy học trò, cũng dạy với tình thương đó trong khi chuyển giao kiến thức; nhà báo viết báo cũng viết với tình thương đó; tất cả mọi cán bộ, công tác trong mọi cơ quan hành chánh sự nghiệp hay sản xuất cũng công tác với tình thương đó trong khi tiếp cận mọi người dân... Hãy ví dụ tình thương đó như một ngọn nến. Hàng nghìn, vạn, triệu người có tình thương đó khác nào như ngàn, vạn, triệu ngọn nến cháy rực, sẽ làm xã hội ta trong sáng, đẩy lùi và dập tắt mọi tội ác và tệ nạn xã hội. Gandhi nói: hai chỗ nương tụa của mọi nền văn minh đích thực và bền vững là chân lý và tình thương (satya và ahimsa) (chuyển dẫn từ "The concept of man", Prefatory remarks–Radhakrisnan, tr.12). Nhưng chân lý, dù là chân lýí tương đối cũng không dễ nắm bắt. Phải học tập, biết tư duy và thực nghiệm để đạt được một chân lý tương đối. Nhưng tình thương thì tuôn chảy tự nhiên từ lòng người, thí dụ như từ lòng người mẹ cho con bú, và tình thương đáp lại của đứa bé... Còn đối với đạo Phật, thì tình thương hay lòng từ, lòng bi là suối nguồn của tâm Bồ đề. Tình thương là cứu tinh của nhân loại hiện nay, trong khi tại các điểm nóng trên thế giới người ta đang đáp lại điều ác bằng những điều ác hơn, đáp lại bạo lực bằng bạo lực kinh khủng hơn! Còn đạo Phật thì nói:
Câu thứ ba trong bài Pháp Cú trên có thể đổi lại không sai: Tình thương diệt hận thù. Cũng như lấy điều thiện diệt điều ác, lấy tình thương diệt bạo lực vậy. Các bạn đọc có thể nói là tôi đang nói trong mơ, Vâng, có lẽ đúng là giấc mơ trong súng đạn và bom nổ tứ tung, nhưng đó là giấc mơ đẹp mà loài người–trước hết là những quốc gia giàu mạnh nhất hiện nay–phải cố gắng ra sức thực hiện cho kỳ được, nếu không thì vòng xoáy bạo lực và thù hận sẽ dẫn hành tinh và Ioài người ở trên đó đến bờ vực thẳm của diệt vong. Tôi biết suy nghĩ này không phù hợp với nhiều người. Thế nhưng, những điều mà nhiều người làm, tự cho là rất thực tế nếu đối chiếu với hiệu quả mà nói, thì những điều gọi là thực tế đó họ làm cũng chỉ là giấc mơ mà thôi. Bởi vì, làm sao mà lấy lửa dập tắt được lửa, lấy hận thù dập tắt được hận thù, lấy bạo lực dập tắt được bạo lực? Ðó là điều không thể. Ðiều không thể mà cứ làm thì phải chăng mình đang mộng mị? Khi người mẹ cho con bú, bấy giờ hiện hữu một tình thương giao hòa giữa mẹ và con thật tự nhiên, đậm đà và sâu sắc. Nhiệm vụ của mọi người trong gia đình là trân trọng giữ gìn tình thương đó, tình thương mẹ-con mà trong bài kinh Từ Bi, Ðức Phật đem ví với lòng từ của đạo Phật. Lòng từ mà Phật thường mô tả là tỏa sáng, là trạng thái tinh thần đẹp nhất dưới thế gian này. Có điều, các bà mẹ có khi không biết là chính tình thương đó, sau này sẽ trở thành suối nguồn của đầu óc cởi mở, trí thông minh, trí tuệ. Cũng như trong sách Phật, nói lòng từ, lòng bi là suối nguồn của tâm Bồ đề tức là tâm giác ngộ. Một đặc sắc của tâm hồn người Việt là giàu tình thương. Có thể đây là hệ quả tự nhiên của lịch sử một dân tộc, do vị trí địa lý đặc biệt mà phải trải qua chiến tranh liên miên và thiên tai dồn dập. Và trong niềm đau khổ chung, con người rất thương nhau. Bản thân tôi cảm nhận điều này trong những năm tháng chiến tranh, cũng như trong những tháng vừa qua, miền Trung và Tây Nam Bộ bị lụt lội trầm trọng kéo dài. Từ mọi miền của đất nước, từng đoàn xe tới tấp chở vật phẩm cứu trợ đến các tỉnh bị lụt. Cảnh các em học sinh vùa khóc vùa gói sách vở làm quà tặng gửi các bạn ở những nơi chỉ là đồng nước mênh mông, không còn trường để đến học và cũng không còn sách vở để viết! Từ tất cả những cảnh tượng đó toát ra một tình thương mênh mang, sâu lắng. Và tôi nghĩ: Với tình thương đó, tương lai dân tộc Việt sẽ được đảm bảo. Vì tình thương dẫn tới đoàn kết và thành công trong mọi sự nghiệp của dân tộc Việt. 2. Thái độ của người học Phật Học Phật cũng như học bất cứ môn học nào khác, phải tìm thấy cho được niềm vui ở trong đó, thì nhất định học Phật sẽ có kết quả. Tôi thấy có thể nói khiêm tốn: Học Phật trước hết là để cho mỗi người học Phật đều trở thành một người tốt, một người thiện, lương tâm không bao giờ bị bức xúc, vì có điều suy nghĩ, lời nói và việc làm có hại cho người và xã hội, học Phật trước hết là học làm một người có ích cho đời và đạo. Mỗi người như vậy sẽ có đời sống an vui, vì họ chỉ nghĩ, nói và làm những chuyện phúc đức, lợi tha. Nhờ học Phật mà có được một đời sống an vui. Cho nên học Phật chính là niềm vui, một niềm vui lớn. Có lẽ vì vậy cho nên ông Khổng Tử nói "Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả" (Luận ngữ, chương "ủng giả"–đệ lục). Nghĩa là: Biết mà học đạo không bằng học đạo mà thấy được niềm vui ở trong đó. Và người thầy dạy giỏi không phải là ông thầy trao truyền cho học trò thật nhiều kiến thức, mà là người thầy biết tạo ở nơi học sinh niềm vui thật sự trong khi học. Muốn có niềm vui khi học tập, thì học tập phải có sáng tạo. Nhưng nếu chỉ tiếp thu một cách thụ động thì không thể có sáng tạo. Muốn học Phật có sáng tạo và có được niềm vui lớn, thì không được một chiều đọc sách Phật, và thuộc lòng những điều ghi trong sách Phật, tuy rằng việc ghi nhớ tốt sách Phật cũng là điều đáng khen ngợi rồi. Việc đọc và học sách Phật chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết kiểm nghiệm những điều ghi trong sách với cuộc sống, với diễn biến ở ngoài đời và ở trong thân tâm chúng ta. Ðời sống là quyển sách, luôn trải rộng trước mắt. Thân tâm chúng ta, luôn phản ứng trước những diễn biến của đời sống bên ngoài cũng là một cuốn sách khác rất gần gũi đối với mỗi chúng ta. Muốn học Phật có kết quả, chúng ta phải thường xuyên đọc và nghiền ngẫm sách Phật (Kinh, Luật, Luận), "sách cuộc đời" và "sách thân tâm" của chúng ta. Thí dụ đọc kinh Pháp Cú, trong phẩm Tâm, chúng ta biết vấn đề uốn nắn tâm, điều phục tâm, phòng hộ tâm, an trú tâm là quan trọng đến dường nào, bởi lẽ đến hai bài kệ 42 và 43 của phẩm Tâm, kinh Pháp Cú cảnh báo rằng, tâm nghĩ bậy còn làm hại chúng ta hơn kẻ thù hại ta: tâm nghĩ tốt, nghĩ thiện sẽ làm tốt cho ta hơn cả cha mẹ muốn làm điều tốt cho ta.
Ðọc kinh Pháp Cú như vậy, chúng ta đã hiểu tâm nghĩ bất thiện, nghĩ bậy, nghĩ tà tác hại đến chúng ta như thế nào, chúng ta hãy kiểm nghiệm xem, chúng ta có thể hay không, suốt ngày, luôn luôn, bất cứ ở đâu, hay làm gì điều tuyệt đối không bao giờ nghĩ bất thiện, nghĩ điều làm hại người, hại vật. Trái lại, thường xuyên nghĩ thiện, nghĩ điều tốt lành đối với mọi người, mọi vật. Chúng ta biết, trong các thuyết về đạo đức học ở phương Tây có thuyết của Socrates cho rằng, chỉ cần giảng giải cho người biết rõ như thế nào là thiện, là ác thì con người nhất định sẽ làm điều thiện, tránh điều ác. Có thể nói, yêu cầu này của thuyết đạo đức học của Socrates, đạo Phật đã đáp ứng một cách đầy đủ vớí thuyết 5 giới, 10 thiện: không làm 3 điều ác về thân là giết hại, ăn trộm và tà dâm; không làm 4 điều ác về lời nói là nói ác. nói dối, nói chia rẽ, nói lời vô nghĩa; không dung dưỡng 3 điều ác về ý là tham lam, sân hận và si mê. Có thể nói thuyết đạo đức của phật giáo đã phân biệt rạch ròi điều thiện với điều ác. Kinh Pháp Cú còn khuyên chúng ta tránh điều ác, siêng làm điều thiện ngay từ trong tâm của mình, ngay trong suy nghĩ. Vậy thì điều mà chúng ta kiểm nghiệm đối với thân tâm mình, là có thể hay không, sau khi được giảng về thuyết đạo đức của đạo Phật, thân tâm chúng ta luôn luôn nghĩ thiện, nói thiện, làm thiện, luôn tránh nghĩ bất thiện, nói và làm điều bất thiện. Có thể hay không thể? Và nếu không thể thì vì sao?. Ðó là điều tất cả chúng ta phải kiểm nghiệm khi học Phật. Hãy xem trước một việc bất thiện, không nên làm, thân tâm chúng ta sẽ phản ứng ra sao. Và trước một việc thiện nên làm phản ứng như thế nào. Phải chăng chúng ta sẽ không ngần ngại, không do dự làm việc thiện và tránh việc bất thiện. Tôi biết rằng việc này không dễ. Trong Thiên Chúa có thuyết đạo đức cho rằng, do con người phạm nguyên tội từ thời Adam, cho nên trong nhiều trường hợp, chân tay không làm theo cái đầu, mà còn làm trái lại. "Mọi người đều mâu thuẫn với bản thân vả cuối cùng với Thượng đế, bởi lẽ có một quy luật của tay chân chống lại quy luật của tâm thức của nó" (Xem "Christ vs Socrates" – Reinhold Niebuhr, chuyển dẫn từ cuốn "Towards liberal education", tr.773). Thuyết này của Thiên Chúa giáo được minh họa bằng câu tâm sự của Pauline: "Điều thiện mà tôi muốn làm thì tôi không làm. Điều ác mà tôi không muốn làm, thì tôi cứ làm". Chúng ta cũng có thể nhắc lại câu thời danh của Bertrand Russell xác định xu thế căn bản của con người là lòng tham "quyền lực và danh vọng". Tôi kể ra hết như vậy, để người học Phật được học thuyết đạo đức rạch ròi thiện ác, chúng ta nỗ lực nghĩ điều thiện, nói và làm điều thỉện. Tránh nói, làm điều ác, điều bất thiện. Còn về thuyết của Thiên Chúa giáo, nói tay chân không vâng lời cái đầu, và về tâm sự bất lực của Pauline, thì người học Phật suy nghĩ thế nào? Tôi nghĩ là đạo Phật đã có câu trả lời: Kinh Lăng Nghiêm nói tới tập khí nan trừ, tức thói quen lâu ngày khó bỏ. Sách Phật cũng khuyến cáo Phật tử phải sống như ngưòi chiến sĩ, và có một nỗ lực đạo đức không ngừng. Nỗ lực đạo đức của người Phật tử có hai mặt: một mặt là tự mình phấn đấu để trở thành người hoàn thiện, một mặt nữa là hết lòng giúp đỡ chúng sinh, giúp đỡ người khác. Hai mặt đó bổ sung và hỗ trợ nhau. Cũng như muốn tránh ác, thì làm thiện. Muốn làm thiện thì tránh ác. Làm thiện tránh ác thì tâm ý mình sẽ trong sáng, tâm ý trong sáng giúp cho việc làm thiện, tránh ác được dễ dàng. Cũng như hai chuyện hướng ngoại và hướng nội của đạo Phật là bổ sung và hỗ trợ cho nhau chứ không mâu thuẫn nhau. Nhiều người lầm, khi nghe nói đạo Phật hướng nội bèn vội cho đạo Phật là ích kỷ, là bàng quán với đời. Họ không hiểu rằng, muốn giúp đỡ người khác có hiệu quả thì nội tâm người giúp phải trong sáng, thiện lành. Ðó là những điều chỉ cần qua kiểm nghiệm ở đời là thấy liền không phải bàn cãi. Giúp người có năm bảy cách. Có thể giúp người mà làm hại người. Thí dụ có những đạo sư tà giáo tổ chức cho hàng loạt đệ tử mình tự tử tậr thể! Chuyện này đã từng xảy ra với giáo phái gọi là "Cổng Thiêr đường" ở Thụy Sĩ và ở Mỹ. Chính vì vậy mà đạo Phật khuyến cáo nỗ lực giúp đỡ chúng sinh phải đi đôi với nỗ lực hoàn thiện bản thân. Ðể giúp loại bỏ niệm ác (tức là tư tưởng ác), Phật nói là người có niệm ác không khác gì nuôi kẻ thù trong nhà, nó làm hại mình còn hơn kẻ thù làm hại mình. Trái lại người có niệm thiện, niệm lành thì niệm thiện, niệm lành đó còn giúp đỡ mình hơn cha mẹ , bà con giúp đỡ mình nữa (Xem kinh Pháp Cú, kệ 42, 43). Ðối với người bị niệm ác ám ảnh, dày vò, sách Phật khuyên chúng ta dùng 5 biện pháp: a) Dùng niệm thiện, đánh bật niệm ác, cũng như người thợ mộc thiện xảo dùng một niêm gỗ này đánh bật một niêm gỗ khác. b) Xem niệm ác là một cái gì ghê tởm, như xác chó hay xác rắn, sao lại đem quàng vào cổ, mà trái lại phải vứt xa đi. c) Ðối với niệm ác, cũng như đối với một vật xấu, chúng ta đừng nhìn nó nữa, mà nhìn sang nơi khác. d) Hãm chậm dòng ý niệm lại, cũng như người đang chạy, chuyển sang đi bước một, đang đi thời đứng lại, rồi ngồi lại. e) Cũng như người lực sĩ, mím chặt môi, dùng cả sức mình vứt niệm ác ra xa. Năm biện pháp trên, có trong kinh An Trú Tầm, thuộc kinh Trung Bộ, tôi chỉ thuật lại ý đại khái, không dẫn nguyên văn. Nhưng qua lời thuật đại khái, chúng ta cũng đủ thấy Ðức Phật cũng không nói sống đạo đức là chuyện dễ dàng, không những phải cố gắng thường xuyên mà còn phải khéo léo, thiện xảo nữa. Riêng về biện pháp thứ tư, tôi xin giải thích thêm một ít. Ðây là biện pháp chủ động làm giảm tốc độ của dòng chảy tâm thức, của dòng ý niệm. Thí dụ có người nghĩ tới thuốc lá, vội đi tìm ngay bao thuốc, rút thuốc ra châm hút... Con người hành động như cái máy. Ở đây người học Phật nghiện thuốc, cũng sẽ không làm thế. Vừa nghĩ tới thuốc lá, anh ta sẽ không đứng dậy đi lấy bao thuốc, mà ngồi lại nghĩ tới ung thư phổi, bệnh lao, nghĩ tới chuyện tốn tiền, vợ con la rầy... Nói tóm lại , tức là hãm chuyện hút thuốc lá lại, rồi chuyển dòng ý nghĩ mình sang các chuyện như ung thư phổi, bệnh lao phổi... Nhưng muốr làm được việc đó, thì đừng có chạy theo dòng ý niệm hút thuốc lá như một cái máy, như một người không biết suy nghĩ. Lợi ích của việc hãm chậm dòng chảy ý mệm là như vậy. Niệm ác, niệm bất chính có nhiều lắm, và còn phức tạp hơn nhiều niệm hút thuốc lá. Nhà phân tâm học Freud nói đến sụ ám ảnh tình dục. B.Russell nói đến tham vọng "quyền lực và danh vọng", sách báo phương Tây nói nhiều đến lòng ham muốn hưởng thụ vật chất, ý muốn tham nhũng của một số người muốn "hy sinh đời bố, củng cố đời con"... Ðối với tất cả những ý mệm ác, bất thiện có khả năng xảy ra như trên, chúng ta sẽ gắng áp dụng một trong năm biện pháp Ðức Phật dạy trong kinh An Trú Tầm. Là người học Phật, thường xuyên được đọc sách Phật, chứa đựng những tư tưởng đẹp, thiện, lành. Những tư tưởng đó, tiếp thu vào người, tạo ra một chuyển biến nội tâm hướng thiện và hướng thượng. Chúng ta thường xuyên gần gũi những người học Phật khác, sống theo năm giới, mười thiện đều là những gương sáng thúc đẩy chúng ta tránh ác, làm thiện. Nhiều người đều sống như vậy, thì chúng ta sẽ tạo ra cả một cộng nghiệp thiện lành. thành cả một áp lực thúc đẩy xã hội hướng thiện và hướng thượng. Tất nhiên, không tránh khỏi có ngoại lệ. Nhưng người viết bài này nhân dịp lễ Phật Ðản năm nay, rất tin ở sức mạnh bất khả kháng của điều thiện, điều lành, tin ở sức mạnh của lòng thương, lòng từ, một sức mạnh tỏa sáng một cách tự nhiên từ tấm lòng của mọi người Việt Nam trải qua nhiều đau khổ, bất hạnh, nhưng suối nguồn tình thương đó không bao giờ cạn, vẫn dồi dào thêm, sẽ làm dập tắt mọi hận thù và bất hạnh, đẩy lùi mọi tệ nạn xã hội, khai mở những trang sử mới đẹp đẽ nhất cho thiên niên kỷ mới này. (Nguyệt san Giác Ngộ, số 74, tháng 5-2002) -ooOoo- |
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 26-08-2002