BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Giáo Dục Phật Giáo

Giáo sư Tiến sĩ Ananda W. P. Guruge

Thích Nữ Vân Liên dịch Việt

[1]


 

I. Vài Nét Dẫn Nhập

Sự đóng góp của Phật giáo đối với nền giáo dục thật sự rất ít người biết đến. Ngay cả trong những quốc gia có truyền thống giáo dục Phật giáo không bị gián đoạn trong nhiều thế kỷ, nền giáo dục hiện hành không phải là hệ thống kế thừa cũng không liên quan gì đến truyền thống giáo dục Phật giáo. Truyền thống giáo dục Phật giáo hầu như đã hoàn toàn bị chiếm chỗ, chỉ còn một vài vết tích may mắn được duy trì trong các tổ chức tu viện để huấn luyện tăng chúng.

Tài liệu ít ỏi về nền giáo dục Phật giáo qủa là vấn đề gây sững sốt và hết sức ngạc nhiên. Trong quyển thứ 5 của bộ Tự Ðiển Bách Khoa về Tôn Giáo và Ðạo Ðức (Encyclopeadia of Religion and Ethics, vol 5, p. 177) đã nêu lên tình trạng sau: "Việc trình bày về lịch sử hợp lý của giáo dục lý thuyết và giáo dục thực hành cho người Phật tử quả khó thực hiện được trong tình trạng thiếu sót về tài liệu lịch sử. Tình trạng ấy đến nay vẫn còn nguyên vẹn." Ta có thể khảo sát bảng chú dẫn của hàng trăm tác phẩm tiêu chuẩn về đạo Phật, về văn hóa, văn minh và lịch sử Phật giáo nhưng hiếm khi có được một mục từ nào liên quan đến giáo dục. Bất cứ một tác phẩm nào có liên quan đến giáo dục thì hầu hết nguồn tin đưa ra đều bị hạn chế trong những đoạn văn giáo dục Ấn độ viết về những trung tâm hoạt động trí thức ở Taxila hay Varanasi như đã được miêu tả trong những truyện tiền thân của đức Phật, hoặc thu hẹp trong những bài giải thích về những trung tâm học thuật Phật giáo Ấn độ và Phật giáo Tích Lan của các nhà chiêm bái Trung Hoa nổi tiếng như Pháp Hiền, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh.

Nếu tiếp tục khảo sát đến thời gian gần đây hơn, ta sẽ thấy hệ thống giáo dục Phật giáo và các Phật học viện đã không còn nắm giữ vai trò lãnh đạo như trước đây, nếu không muốn nói là bị lãng quên toàn bộ, do sự ập tới của nền giáo dục hiện đại. Ðể làm sáng tỏ nền triết học giáo dục Phật giáo, hiện nay một vài nỗ lực đã được thực hiện với những thành quả khiêm tốn, nhỏ nhoi mà chúng ta có thể tham khảo.

II. Sự Hình Thành Nền Giáo Dục Phật Giáo

Suốt 45 năm du phương hành hóa, sứ mệnh của đức Phật là tuyên giảng con đường giải thoát. Hầu hết mọi người đều tôn xưng Ngài là bậc Thầy của loài trời và loài người (Satthàdevamanussànam) và là bậc Ðiều phục con người (purisadhammasàrathi). Ðây là hai trong chín danh hiệu được sử dụng trong hình thức tôn kính đức Phật. Giới (sìla), định (samàdhi) và tuệ (pannà) đạt được qua sự giác ngộ về bản chất của cuộc đời đã tạo thành những bước thiết thực về con đường Ngài dạy. Con đường ấy đã vạch ra một đời sống tu học và thiền định nhằm mục đích rèn luyện và chế ngự tâm. Tất nhiên rằng một hệ thống tôn giáo như Phật giáo đã xem vô minh là nguồn cội gây nên mọi sự khổ đau và thừa nhận một tâm không tu tập là chướng ngại căn bản cho sự giải thoát, thì Phật giáo ắt đã đặt trọng tâm cao nhâát vào quá trình tu tập tâm và thiết lập chương trình giáo dục thích hợp nhất cho mục tiêu giải thoát.

Trong thời đức Phật, hệ thống giáo dục Phật giáo đã bắt đầu hình thành và tuần tự phát triển. Bốn yếu tố liên quan đến quá trình giáo dục của đức Phật tạo thành những nền tảng căn bản cho nền giáo dục Phật giáo là:

- Ðức Phật là bậc Ðạo Sư mẫu mực.
- Tăng đoàn là hội chúng có học thức.
- Những cơ sở tu viện là cơ sở nền tảng cho nền giáo dục học Phật giáo.
- Chủ nghĩa giải thoát có trí tuệ của Phật giáo là động cơ phát triển giáo dục.

1. Ðức Phật là bậc Ðạo Sư mẫu mực

1.1. Nguyên tắc sư phạm và phương pháp giáo dục của đức Phật.

Ðức Phật thực sự là một bậc Ðạo Sư lão luyện. Ngài có thể thuyết phục con người thay đổi cách sống, chấp nhận những giá trị mới và tìm kiếm những mục đích mới bằng những lời thuyết pháp hùng hồn và sinh động. Trong khi những bậc Ðạo Sư đối thủ đương thời thường dùng những hành vi ma thuật và phép mầu để lôi kéo đệ tử về phía mình, thì đức Phật chỉ sử dụng duy nhất một loại phép lạ, đó là: "Phép lạ của sự giáo huấn ( anusàsani-pàtihàriya, Giáo hoá thần thông)."

Những bài pháp của Ðức Phật thường được trình bày chi tiết và tỉ mỉ. Tính rõ ràng, trong sáng và trình bày có logic đã làm nỗi bật các bài pháp dài của Ngài, những bài pháp được tuyên giảng theo chủ đích riêng. Dù thuyết giảng cho vài người hay cho một hội chúng, Ngài cũng đều tìm cách hướng dẫn người nghe tiến dần từng bước đến ý tưởng Ngài muốn thành lập. Kinh chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana) và Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna) là những bài kinh tiêu biểu có một vài đặc điểm dễ nhận biết, vì Ngài thường bắt đầu bài kinh bằng lời giáo huấn gợi sự chú tâm, chẳng hạn như: "Có hai cực đoan người tìm chân lý cần nên tránh." Hoặc "Có một con đường thẳng tắt và đảm bảo đến đích..." v.v...

Ngài phân tích một khái niệm ra thành nhiều thành tố và trình bày tư tưởng dưới dạng thống kê, nhằm giúp trí nhớ cho người học.

Ðức Phật thường sử dụng phép so sánh và phép suy diễn một cách nhuần nhuyễn, được rút ra từ nếp sống hằng ngày của quần chúng, chẳng hạn như công việc của người nông dân, người đồ tể, người bán hoa, người dân chài, người chiến sĩ và quan chức. Ngài lập đi lập lại những khái niệm quan trọng và quay lại những khái niệm đó bất cứ khi nào quần chúng có thể chấp nhận. Sự trình bày những khái niệm như vậy hầu như phát triển đến mức trở thành những công thức tiêu chuẩn, mẫu mực và sẽ tái diễn bất cứ khi nào khái niệm được đề cập đến trong cấu trúc biểu đạt tương tự. Bài pháp tuần tự đưa thính giả đi đến kết thúc bằng những lời cầu thỉnh tha thiết, xin được Quy Y với Ngài, để đi theo con đường giải thoát do Ngài giới thiệu.

Trong các cuộc đàm thoại với cá nhân Ngài thường sử dụng một vài phương pháp học thuật làm cho cuộc đàm thoại trở nên sinh động: thường Ngài làm cho người tranh luận trình bày rõ quan điểm của mình và chấp nhận một lập trường tư tưởng nào đó. Nhưng đức Phật sẽ không tiến hành cuộc thảo luận, trừ khi Ngài chắc chắn đã hiểu rõ quan điểm người tranh luận. Ngài hết sức thận trọng trong việc khai thông tiền đề vào lúc khởi đầu mỗi cuộc bàn luận. Nếu không đồng ý, Ngài không chê bai cũng không bài bác ý tưởng của đối phương, mà Ngài bắt đầu đặt câu hỏi. Những câu hỏi này luôn là những câu hỏi thăm dò, được sắp xếp cẩn thận nhằm chinh phục đối phương nhận ra những lý lẽ ngụy biện của chính mình. Vị ấy được đưa dần đến chỗ nhượng bộ và bỏ hẳn quan điểm ban đầu của mình. Nét độc đáo nhất của đức Phật là Ngài đã khéo sắp xếp lại tiêán trình suy nghĩ của người tranh luận băèng cách đặt câu hỏi nhanh và liên tục. Phép so sánh và loại suy được sử dụng trong việc làm rõ thêm chi tiết và giải thích những câu hỏi này. Những giai thoại về truyền thuyết và lịch sử là hình ảnh nổi bậc trong bài giảng của Ngài. Chỉ trong một vài trường hợp, Ðức Phật mới phơi bày hết tất cả quan điểm ban đầu của người tranh luận là lố bịch và sai lầm nghiêm trọng, khi người tranh luận đã chịu từ bỏ lý lẽ của mình và sẵn sàng đồng ý với Ngài. Cho đến lúc đó, đức Phật mới bắt đầu giảng giải ý tưởng riêng của Ngài về vấn đề đang tranh luận. Bất cứ đề tài bàn thảo nào, đức Phật cũng tuần tự hướng dẫn người tranh luận đi đến một sự phân tích tỉ mỉ về con đường giải thoát.

Dù là thuyết giảng, phân tích hay đàm thoại, tranh luận, đức Phật đều sử dụng một loạt các phương pháp giáo dục thực hành tiêu chuẩn. Ngài nhắm vào trình độ trí thức của người học và tuyên giảng cùng một ý tưởng bằng nhiều phương thức khác nhau tùy theo bản tánh và thể chất của người nghe. Ngài bắt đầu bằng những điều đã hiểu biêát và nhấn mạnh vào điều ấy như một nguyên tắc căn bản trong tất cả các lời Ngài dạy. Ngài không đề cập đến những điều suy đoán làm lãng phí thời gian và khuyên nhủ ta nên cố gắng "biết về sự vật như nó thực sự đang là." Ở đây tầm quan trọng nhắm vào cả sự hiểu biết lẫn sự thực.

Tuy nhiên, đức Phật không đánh giá cao về kiến thức lĩnh hội được. Kiến thức có giá trị chỉ ở mức độ nó được ứng dụng trong đời sống thực tế. Một kiến thức ít ỏi nhưng nếu áp dụng đúng lúc sẽ được đánh giá cao hơn kho kiến thức rộng lớn mà không có sự nổ lực thực hiện những gì đã học được. Những ai tin vào kho kiến thức vô ích ấy sẽ bị phê phán như những kẻ chăn bò, chăm sóc bò cho sự lợi ích của người khác.

Ðức Phật sẽ không chấm dứt thời pháp cho đến khi Ngài chắc rằng người đệ tử đã thực sự hiểu rõ điều Ngài tuyên giảng. Ngài trắc nghiệm lại đệ tử bằng những câu hỏi thăm dò và sử dụng hàng loạt từ đồng nghĩa đối với những lời dạy quan trọng. Thỉnh thoảng Ngài vận dụng thuật kể chuyện để minh họa giáo pháp. Khi nào thích hợp, Ngài tóm tắt bài giảng trong một hình thức gói gọn, thường là một sáng tác thi ca trong thể thơ 4 câu 32 vần.

Là một nhà thơ, Ngài nhận thức rõ sự lợi ích của thi ca như một phương tiện ghi nhớ và thường sử dụng thơ ca để cũng cố kiến thức cho người học. Hầu hết những chủ đề phổ thông đều được Ngài diễn giảng thành những bài thơ kệ. Nhưng Ngài không diễn bày giáo pháp bằng thơ Sanskrit - phương tiện giảng dạy của những triết gia xuất sắc và những bậc Ðạo Sư tôn giáo đương thời. Ngài thường để cho mỗi cá nhân học hỏi giáo lý theo ngôn ngữ riêng của mình và chính đức Phật cũng thường nói tiếng bản xứ Màgadhi (Ma-kiệt-đà) hơn là tiếng Sanskrit của giới thượng lưu trí thức.

1.2. Tổ chức việc học tập: Vai trò của bậc Ðạo Sư

Ðức Phật khuyến khích đệ tử bàn bạc, thảo luận và Ngài thường chỉ là vị trọng tài. Ngài huấn luyện những đệ tử lỗi lạc thành bậc Thầy của những vị khác. Ngài đánh giá khả năng giảng dạy của đệ tử, định vị họ theo kiến thức chuyên môn và phương pháp giáo huấn của mỗi vị.

Ðức Phật tổ chức tăng đoàn thành một hội chúng có học thức trong đó mỗi thành viên đều dành hết cả cuộc đời mình cho việc học tập, thực hành những gì đã học, giảng dạy cho người khác, tham gia vào việc bàn thảo để khai thông những khái niệm, học thuộc lòng những bài pháp và những bài thơ đạo ứng khẩu (cảm hứng ngữ) của đức Phật rồi truyền miệng lại để bảo tồn chánh pháp, triển khai những bản luận giải và thu phục ngày càng nhiều đồ chúng nối tiếp tương tự một tiến trình học tập suốt đời.

Là đấng Ðạo Sư, đức Phật còn thể hiện nhiều năng lực phi thường khác nữa. Bất cứ một sự kiện nào xảy ra, Ngài cũng có thể chuyển đổi nó thành một duyên cớ để giảng dạy. Nếu đem tất cả nguyên do đức Phật thuyết pháp cho quần chúng ra phân tích, ta sẽ vô cùng kinh ngạc về tính thông minh độc đáo của Ngài. Bất kỳ tình huống nào cũng có thể trở thành đề tài cho Ngài giảng dạy. Cảnh mấy trẻ nít sát hại một con rắn, một cụ già bị con cái bỏ rơi, việc tìm kiếm một tên cướp giết người, những buổi lễ hiến tế của một người Brahman (Bà-la-môn), một cuộc chiến tranh giữa những người bà con và rất nhiều trường hợp tương tự đều là những cảnh tượng cho những bài pháp sống động của Ngài.

Ðôi khi Ngài tự tạo ra những cơ hội giảng dạy, Ngài cũng không bỏ lỡ những cơ hội do người khác cung cấp. Ngài sẵn sàng chấp nhận những thách đố của những người khác và luôn sẵn lòng tham gia vào một cuộc tranh luận. Ngoài việc sử dụng ngôn từ tuyệt diệu, Ngài cũng còn tinh thông trong việc vận dụng những lối giáo huấn khác nữa. Phương pháp khám phá là một trong những ứng dụng đầu tiên nhất và có lẽ là hoàn hảo nhất, khi một bà mẹ khổ sầu vì con chết, Ngài đã làm cho bà hiểu rằng chết là định luật chung cho tất cả mọi người bằng cách bảo bà hãy đi xin một hạt cải từ một nhà nào không có người chết. (Xem chuyện Kisàgotami).

Một trong những sự kiện được ghi chép đầu tiên nhất trong văn học Phật giáo gán cho Ngài Moggallàna (Mục-kiền-liên) là sự kiện Ngài đã trình bày giáo pháp mang tính biểu đồ để củng cố và làm phong phú thêm bài giảng. Theo Divyàvadàna, Ngài Ananda (A-nan) đã tường thuật lại cách Ngài Moggallàna minh họa bài thuyết pháp về Lý duyên khởi (Paticcasamuppàda) bằng biểu đồ một bánh xe với 12 nhân tố được vẽ một cách tượng trưng. Ðức Phật chẳng những khen ngợi Ngài Moggallana xứng đáng với cương vị của một bậc thầy mà còn đề nghị nên đem trưng bày bức biểu đồ ấy trên cổng Tịnh xá Veluvana (Trúc-lâm) ở Ràjagaha (Vương-xá). Minh họa này được xem là nguồn gốc của "bánh xe luân hồi," được tìm thấy trong một bức họa ở hang động Ajantà vào thế kỷ thứ bảy trong một tình trạng chắp vá. Bánh xe luân hồiù còn là một chủ đề phổ biến trong những bức họa Tây Tạng và Nepali Tangka.

Chính Ðức Phật đã sử dụng một loạt hình ảnh biểu sắc, được tạo ra bằng phép thần thông, để hóa độ cho một bà Hoàng trẻ tuổi kiêu ngạo hiểu được tính chất vô thường của sắc đẹp và của cuộc đời (Xem PPN. Abhirùpa Nandà therì).

Trong tất cả những ứng dụng thực hành về một số phương chước giáo dục quan trọng, thì điều quan trọng hơn hết là quan điểm của đức Phật về vấn đề dạy, học và các chủ đề liên hệ.

Một đoạn văn thú vị trong Kinh Thiện Sanh (Sigàlovàda) liệt kê bổn phận của thầy và trò như sau. Bậc thầy nên:

- Có lòng thương tưởng đến học trò.
- Rèn luyện phẩm hạnh và tư cách đạo đức cho học trò.
- Truyền dạy cho học trò đến nơi đến chốn kiến thức khoa học và trí tuệ của người xưa.
- Ngợi khen học trò trước mặt các bạn bè và người thân thuộc.
- Bảo vệ học trò khỏi những nguy khốn của cuộc đời.

Ðáp lại, người học trò nên:

- Phụng dưỡng thầy chu đáo.
- Ðứng dậy chào khi thầy đi tới và hầu hạ khi thầy cần đến.
- Lắng nghe những lời thầy dạy với lòng tôn kính.
- Thực hiện những bổn phận cần thiết đối với thầy.
- Hết lòng thực hiện những điều thầy truyền dạy.

Ðiều này nói lên ý nghĩa về bổn phận giữa thầy và trò trong mối quan hệ giáo dục thế tục (tức giáo dục học đường). Hơn thế nữa, bản Kinh còn nêu ra một chuỗi bổn phận tương tự giữa bậc Ðạo Sư và người đệ tử cư sĩ, trong tương giao tôn giáo. Ở đây vấn đề giáo dục đạo đức được coi trọng, đặc biệt bổn phận người đệ tử làm thế nào để thể hiện hết chức năng của mình đối với bậc đạo sư.

Bổn phận người học trò hoặc người đệ tử cư sĩ trong cả hai trường hợp giáo dục thế tục và giáo dục tôn giáo là vấn đề học hỏi, nghiên cứu và hành trì. Yêu cầu của người học trò là nên kính cẩn lắng nghe tất cả những gì thầy dạy. Tương tự như vậy, người cư sĩ cũng nên kính cẩn cung phụng bậc Ðạo Sư của mình cả về hành vi, về lời nói và về ý nghĩ.

Ðức Phật không bao giờ tán thành thái độ chấp nhận suông mà không hề đặt vần đề về tính thẩm quyền chân lý của những gì người thầy truyền dạy. Sự khẳng định về tính thẩm quyền chân lý của người thầy, theo Ðức Phật, sẽ trái với một trong những nguyên tắc cơ bản của Ngài về việc bảo đảm cho mỗi con người có quyền đầy đủ và không thể bác bỏ trong việc suy tư cho chính mình. Phương pháp tự do và không bị trói buộc về việc phát triển khả năng tư duy trí thức của từng cá nhân, do Ðức Phật đề ra, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc giải thoát đã được Ngài trình bày một cách hùng hồn cho dân Kàlàmas trong bài Kinh Mười Cơ Sở của Một Ðức Tin Chân Chánh (Anguttara Nikaya, I, p. 188f)

1.3. Dạy và học: Tiến trình tiệm tiến

Phương pháp đức Phật đề ra cho tiến trình tự thẩm tra tất cả mọi kiến thức là phương pháp quan sát và phân tích. Triết học và Tôn giáo của đức Phật được diễn tả như là đến để quan sát hoặc thẩm tra (ehipassika), để từng cá nhân có quyền nhận thức độc lập (paccattam veditabba). Bằng sự nghiệp giáo dục, đạo Phật từ xa xưa đã được tôn xưng là một học thuyết phân tích (vibhajjavàda). Vai trò của đức Phật cũng được xác định là vai trò của một Bậc chỉ đường, trong khi đó mỗi cá nhân phải tự mình giác ngộ chân lý.

Ở đây, đương nhiên có người sẽ đặt vấn đề rằng vai trò của bậc Ðạo Sư như đã được đức Phật thừa nhận có phải là vai trò thụ động không? Bức phát họa tóm tắt của chúng ta về đức Phật như một bậc Ðạo Sư đã chứng tỏ rằng vai trò của Ngài chỉ là hướng dẫn và chỉ đường. Trong vài đoạn kinh khác, vai trò đạo sư của Ngài được mô tả khá chi tiết. Khi đối thoại với Bhaddàli trong Majjhima-Nikàya (Kinh Trung-bộ), Ðức Phật thường ví Ngài như một Người huấn luyện ngựa lão luyện. Ngài trình bày phương pháp giảng dạy của Ngài cũng giống như phương pháp huấn luyện một con ngựa mới cho đến lúc nó thuần thục của người huấn luyện ngựa. Bài Kinh trên mô tả, "Ðức Phật tạo điều kiện cho tất cả những ai tuân theo sự chỉ dẫn của Ngài bằng phương pháp tu tập thiền định, tư duy thanh tịnh để thoát khỏi mọi tham đắm và tạo cho mình một nơi an trú thánh thiện nhất trong cuộc đời." [3]

Lại nữa, trong kinh Majjhima Nikaya, phương pháp khởi điểm tiệm tiến, tiến bộ dần đều và đột phá đến đích của đức Phật được so sánh với tiến trình của thuật bắn cung và đếm số như sau: "Khi dạy đệ tử, trước hết người dạy bắt chúng đếm một biết là một, hai biết là hai, ba biết là ba. Cứ như vậy, người dạy bắt chúng đếm cho tới 100." [4] Trong một bài kệ Udàna, đức Phật giải thích tiến trình này rộng hơn: "Giống như biển lớn, khi càng cách xa bờ càng sâu hơn, càng hiểm hốc hơn; tuyệt nhiên không có độ sâu đột biến. Cũng vậy, trong chân lý và đạo đức của Như Lai, sự tu tập mang tính tuần tự dần đều, không có chuyện thể nhập chánh trí đột biến." [5]

Trong đoạn văn khác thuộc Majjhima Nikàya, đức Phật ví Ngài với người huấn luyện voi, sử dụng một con voi thuần thục để nhử con voi dại đi vào một khoảng đất trống. Sau đó, bằng những thao tác huấn luyện tiệm tiến, người luyện voi dần dần làm cho voi dại rủ bỏ các tính cách hoang dã trước đây, để cho nó làm quen với hoàn cảnh sống ở xóm làng và chấp nhận những cách ứng xử phù hợp của con người. [6]

Ðể tóm tắt phần trình bày này, ta có thể nói rằng đức Phật quy định cho người thầy nhiệm vụ phát thảo và thực thi "phương pháp huấn luyện tiệm tiến." Ðiều quan trọng cần lưu ý ở đây là toàn bộ tiến trình huấn luyện tinh thần của đức Phật là một trong những phương pháp tu tập tâm theo tiến trình tiệm tiến. Ðạo đức (Sìla) chính là nền tảng căn bản nhất. Khởi đầu bằng sự chú tâm đơn giản (nhờ sự chú tâm này mà ta tập ý thức về mọi việc trong mọi phút giây tỉnh thức), qua sự suy tư sâu lắng về hơi thở ra và hơi thở vô, tiến trình tu tập tâm tiến thêm qua sự suy ngẫm về những đề tài khác nhau đưa đến những trạng thái phát triển tâm trí cao hơn là dhyanas hay thiền.

Ở đây, đức Phật nhận thức rõ tầm quan trọng của sự khác biệt cá tính và mở những khóa tu thiền cho từng đệ tử tùy theo bản chất tâm lý của mỗi người. Việc tu tập tâm trong tiến trình huấn luyện này cũng chỉ là phương tiện đưa đến cứu cánh giải thoát.

Mục tiêu của tiến trình học tập này là trí tuệ siêu việt (panna), nhờ đó, vị đệ tử có thể chứng đắc được quả vị cao nhất trong cõi bất tử. Ở đây, vị đệ tử bỏ lại sau lưng tất cả mọi thứ, ngay cả chính lời dạy của đức Phật. Vì giáo lý chỉ là phương pháp thực hành và tu tập chứ không phải để tôn thờ, cũng giống như chiếc bè, một phương tiện để qua sông, chứ không phải để mang vác.

2. Tăng đoàn là một hội chúng trí thức

Chỉ trong vòng vài tháng khởi đầu sứ mệnh độ sanh, đức Phật nhận thấy rằng để truyền bá thông điệp cứu khổ, việc thành lập cơ cấu tổ chức và thủ tục hành chánh hẳn hoi là vô cùng thiết yếu. Với số lượng của những người cải đạo, sẳn lòng sống theo đời sống không gia đình, Ðức Phật đã thành lập Giáo đoàn (Sangha) khác với các tổ chức tôn giáo trước đó.

Tiến trình truyền bá của Ngài là biệt phái nhóm sáu mươi thành viên đầu tiên đi nhiều hướng khác nhau để tuyên ngôn sự ra đời của học thuyết mới. Chính giáo đoàn truyền giáo đầu tiên này đã mở đường cho sự hình thành hệ thống giáo dục Phật giáo, theo đó, mỗi Tỳ-kheo là một vị thầy có năng lực, thu phục những thành viên mới gia nhập tăng đoàn và hoá độ người cư sĩ hộ trì chánh pháp.

Nội dung và phương pháp giáo dục cũng được các vị Tỳ-kheo thực hiện theo lời Phật dạy. Ðôi khi chính đức Phật giải thích những phương pháp cũng như khái niệm của Ngài về việc học và dạy. Anguttara-Nikàya (Tăng Chi Bộ Kinh) là bộ kinh đặc biệt đề cập đến những nội dung mang tính giáo dục này.

Dhamma-desenà (thuyết pháp) được phát triển thành hành vi giảng dạy và Dhamma-savana (nghe pháp) thành hình thức học tập. Căn cứ vào việc nhận biết những vị Tỳ-kheo có khả năng thực hiện nhiệm vụ truyền bá chánh pháp, Ðức Phật đã ban truyền những lời giáo huấn sau, mà ta có thể tìm thấy trong cả Vinaya Piỉ aka (Luật tạng) [7] lẫn Anguttara-Nikàya. [8].

"Một vị Tỳ-kheo có khả năng truyền bá chánh pháp phải hội đủ tám đức tính sau: Ðức lắng nghe, đức thuyết phục người khác lắng nghe, đức học hỏi, đức ghi nhớ, đức nhận thức sáng suốt, đức giúp người khác nhận thức sáng suốt, đức phân minh sự thích hợp hay không thích hợp, đức hòa mình và tạo an lạc cho tha nhân. Vị Tỳ-kheo nào hôị đủ tám đức tính trên mới đảm bảo sự truyền bá chánh pháp có tầm vóc. Nay thầy Sariputta (Xá-lợi-phất) có đủ tám đức tính ấy, do đó thầy có khả năng đi thừa hành sứ mệnh."

"Trước hội chúng đông người,
Không ấp úng giọng nói,
Không ngập ngừng do dự,
Không mất dòng mạch lạc,
Diễn bày rõ pháp môn.
Lời tự tin, cả quyết,
Không một chất vấn nào
Có thể gây não loạn.
Vị Tỳ-kheo như vậy
Thật xứng đáng là người
Làm sứ mệnh giáo hóa"

Những đức tính nổi bật này là các yêu cầu cần và đủ của một vị Tỳ-kheo có khả năng truyền bá thông điệp của Ðức Phật.

Song song đó, Ðức Phật cũng còn lưu đến ý các đức tính cần thiết của người nghe chân lý. Ngài dạy rằng nhân loại có thể được phân thành ba hạng sau đây:

"Hạng đầu óc rỗng tuếch,
Không thông minh, không mắt,
Dầu đến các bậc trí
Từ ngày này tháng nọ
Cũng không lãnh hội được [9]
Ý tứ của lời hay
Chỉ vì không trí tuệ.
Hạng đầu óc tán loạn
Dù có phần tốt hơn
Khi đến các bậc trí
Tham dự các buổi giảng
Nắm bắt được ý hay
Lúc ngồi bên thầy dạy
Nhưng khi rời hội chúng
Quên mất điều đã nghe
Trống rỗng hoàn trống rỗng.
Hạng người có trí tuệ
Là hạng siêu việt cả
Khi tham vấn điều gì
Nắm rõ ý lời ngay
Khắc sâu vào tâm khảm
Suy tư điều tối thắng
Với niềm tin bất động.
Hạng như vậy là người
Sống đúng, hợp chân lý
Có thể dứt khổ đau." [10]

Nhận thức rõ sự đa dạng về cá tính của người nghe, đức Phật vận dụng những phương pháp giảng dạy khác nhau phù hợp cho từng đối tượng (khế cơ). Ngài thuyết giảng cho người đang đói khát và mệt lả, tha thiết muốn học pháp nhưng chỉ sau khi người ấy đã được cho ăn uống và nghỉ ngơi. Ðối với một phụ nữ bị quẩn trí vì buồn đau trước cảnh biệt ly, Ngài không vội phân tích liền tính vô thường của cuộc sống và cũng không đề cập về tính quy luật của cái chết sẽ xảy ra với con người. Ngài còn vận dụng các phương pháp tu tập đơn giản cho những người bị hạn chế về khả năng tinh thần.

Tương tự như vậy, Dhamma-Sàkaccha (sự luận đàm giáo pháp), phương tiện làm sáng tỏ, đánh giá và phân tích những lời dạy của đức Phật là hoạt động trí thức chính yếu của tăng đoàn. Mặc dù tiến trình này không được trình bày đầy đủ chi tiết, nhưng ta có thể tìm thấy hoạt động ấy trong văn học Chú sớ và văn học Abhidhamma (A-tỳ-đạt-ma) của Tripitaka (Tam tạng kinh điển). Chính Abhidhamma piỉ aka là sản phẩm của tiến trình này. Kàthàvatthu là tác phẩm tiêu biểu cho sự tương tác và ảnh hưởng qua lại của những quan điểm khác nhau được phân tích dưới ánh sáng của giáo lý, như đã được đức Phật trình bày rõ ràng và rành mạch. Có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu về tiến trình Dhamma-sàkaccha qua cuộc đối thoại vấn đáp giữa đại đức Nàgasena (Na-tiên) và vua Menander (Mi-lan-đà) như đã được thuật lại trong tác phẩm Kinh Tỳ-kheo Na-tiên (Milindapanha). Tiến trình về phương pháp học như vậy rõ ràng là có hiệu lực to lớn.

Khi số thành viên Giáo đoàn ngày càng đông và những cuộc tiếp xúc giữa Ðức Phật với các phần tử phụ cận diễn ra trong thời gian còn lại gia tăng thì hệ thống huấn luyện mang tính thiết chế và việc cập nhật hóa kiến thức cũng như kinh nghiệm hành đạo trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Sự kiện mà tăng đoàn Phật giáo thực hiện nhiệm vụ khó khăn này đã được chứng minh một cách hữu hiệu bằng kết quả hoạt động của các vị Tỳ-kheo, cho dù kiến thức của chúng ta về những hoạt động thực tế trong thời đức Phật hoàn toàn bị hạn chế. Mặc dù chúng ta cũng có những tài liệu ghi chép liên tục về những hoạt động văn học, song những tài liệu này rõ ràng đã bỏ lại đằng sau phong trào hoạt động giáo dục truyền thừa chánh pháp.

Những lời dạy của đức Phật được cẩn thận ghi nhớ, sắp xếp và phân định tùy theo hình thức văn học trong một hệ thống phân loại rất sớm được gọi là "chín thể tài Kinh điển" (navanga -satthusasana). Những sắp xếp khác cũng đã được cố gắng thực hiện. Trong vòng ba tháng sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, các vị đệ tử đã tiến hành tổng kết tập tất cả những lời dạy của Ngài thành một phân loại mang tính hệ thống độc nhất. Tripitaka trong hình thức hiện tại của nó cũng được hoàn thành trong vòng ba thế kỷ đầu kể từ khi Ðức Phật nhập diệt. Chính trong thời đức Phật, những bản chú giải về lời dạy của Ngài cũng đã xuất hiện. Những bản tóm tắt ngắn gọn, dễ nhớ đã được phát triển nhằm giúp cho người học dễ dàng nhớ được những lời dạy trong các Kinh điển. Hệ thống tra cứu mục loại cũng đã được hình thành (xem Anga).

Các vị Tỳ- kheo, Tỳ- kheo ni cũng đã bắt đầu thuyết giảng những bài pháp tự sáng tạo, và sáng tác ngay cả những bài thơ đạo cảm hứng về cách sống của mình cũng như về sự hướng dẫn, dìu dắt của đức Phật (Xem chi tiết ở hai tác phẩm Thi Kệ Tu Chứng của Tôn Ðức Tăng và Thi Kệ Tu Chứng của Tôn Ðức Ni - Theragàtha và Therigàtha). Chư Tăng, Ni đã tạo ra một nền văn chương triết học rộng lớn, trong đó những lời dạy của đức Phật được đưa vào một hệ thống phân tích triệt để. Tất cả những điều này không thể được hình thành trong một thời kỳ ngắn ngủi của hai thế kỷ đầu, trừ phi hoạt động giáo dục của tăng đoàn Phật giáo đã được thành lập vững chắc với sự mở đầu bằng những hoạt động truyền bá giáo pháp của đức Phật.

Ðiều này có nghĩa là ngay cả trước khi những cơ sở Tu viện hiện hữu, thì tăng đoàn đã là một cơ sở giáo dục lưu động. Trong một hệ thống như vậy, một vài vị Tỳ-kheo đã trở thành chuyên gia bằng cách phân định vị nào chuyên môn về kinh (Dhammadhara), vị nào chuyên môn về luật (Vinayadhara) và phân định học tập về một tạng (petaki) hay ba tạng (tipetaki). Sau đó, khuynh hướng chuyên môn dường như đã mở rộng thêm ra, vì trong bia ký của đại đế Asoka có đề cập đến sự kiện những vị Tỳ-kheo là những vị Chuyên gia về những bộ Kinh, chẳng hạn như chuyên gia Kinh Trường Bộ (Dìgha-bhànaka) và chuyên gia Kinh Trung Bộ (Majjhima-bhànaka).

3. Những cơ sở tu viện là cơ sở nền tảng cho nền giáo dục Phật giáo

Qua tiến trình phát triển tuần tự, tu viện Phật giáo đã trở thành một cơ sở giáo dục, có truyền thống duy trì những thông tin cập nhật; Ngay cả một ngôi chùa khiêm tốn nhất nằm trong góc xó xa xôi của xứ Phật giáo cũng là một trung tâm học thuật cần thiết cho quần chúng. Ðể vấn đề giáo dục được điều hành thông suốt, một số nguyên tắc quan trọng đã được hình thành trong quá trình phát triển hệ thống giáo dục này.

Yêu cầu của Tăng, Ni là phải tinh thông một mức tối thiểu về giáo lý. Trong chỉ dụ Bhabru, đại đế Asoka đã đề nghị Tăng, Ni nên học tập một bộ bảy tập kinh văn. Trong truyền thống Phật giáo ở Tích Lan, ngay cả ngày nay, Tăng sĩ phải trải qua kỳ khảo hạch về kiến thức kinh văn nội điển căn bản trước khi được thọ đại giới. Những vị Tăng, Ni cao hạ cũng cần phải tham gia đều đặn vào những cuộc đàm luận có tính cách học thuật để đào sâu kiến thức và làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, và cũng vừa tự mình thực hành vừa giáo dục những Tân Tỳ-kheo và hàng tập sự. Tu viện còn là trung tâm giáo dục chính quy cũng như không chính quy cho người cư sĩ sống ở quanh vùng.

Như vậy có nghĩa là tự viện nên tổ chức chính mình thành một cơ sở giáo dục trong nhiều phương cách khác nhau. Trước hết, tu viện phải cung cấp nền giáo dục sơ đẳng và nâng cao cho Tăng, Ni. Trong giai đoạn giáo dục sơ đẳng, ngôi tự viện ít nhất nên có những thời khóa định kỳ cho những vị chuyên trì và trùng tụng kinh điển. Những vị chuyên tu hạnh hành cước, vân du đây đó hoàn toàn chỉ là một hiện tượng xuất hiện trong giai đoạn nguyên thủy. Thứ hai, tu viện phải tổ chức một hệ thống giáo dục cho người cư sĩ. Nền giáo dục này có lẽ hạn chế trong những thời pháp định kỳ hoặc bất thường về những chủ đề Phật học, trong giai đoạn ban đầu. Nhưng đối với những cư sĩ muốn trau dồi kiến thức sâu hơn như chuẩn bị gia nhập tăng đoàn hoặc tự dấn thân vào việc nghiên cứu để mở mang trí tuệ riêng mình, thì sự phục vụ này phải được thực hiện trên một tầm cỡ rộng hơn. Không bao lâu sau, việc dạy dỗ thanh niên trở thành một trách nhiệm xã hội của người tu sĩ Phật giáo.

Trong quá trình phát triển, các ngôi tự viện Phật giáo đã thể hiện hàng loạt những hoạt động và thành tích giáo dục đáng kể như sau:

Trong tất cả những đoàn thể tôn giáo ở Ân Ðộ, Phật tử là người đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề biết đọc, biết viết. Vào khoảng năm 84 trước công nguyên, nội điển Phật giáo đã được đưa vào văn bản (ở Tích Lan), và sự tín nhiệm vào truyền khẩu như buổi ban đầu không còn bắt buộc khắt khe nữa. Nghệ thuật viết văn đã cùng Phật giáo du hành qua nhiều quốc gia. Chữ viết được sử dụng trong những tác phẩm Phật giáo đầu tiên (đó là chữ Brahmi trong bia ký của đại đế Asoka) đã trở thành nền tảng căn bản của nhiều bảng chữ cái Á châu. Tăng sĩ là những vị nhiệt tình ủng hộ vấn đề biết chữ và ủng hộ thói quen đọc sách của quần chúng. Tầm quan trọng của những nỗ lực này cũng cần phải được nghiên cứu ngay cả ngày nay, bởi vì những quốc gia Phật giáo Á châu được xem là các nước đã duy trì tỷ lệ biết chữ cao hơn và sớm hơn nhiều những nước láng giềng không theo Phật giáo, trước khi nền giáo dục phổ thông trở thành mục tiêu của dân tộc.

Việc tìm kiếm kiến thức đã đưa những vị tăng, ni đi thực hiện sứ mệnh khó tin, vượt qua những vùng hoang dã của toàn cõi lục địa Á châu. Các vị ấy ra đi hoặc là bằng động cơ và phương tiện của riêng mình để tìm kiếm chân sư và sách vở như những nhà chiêm bái nổi tiếng của Trung hoa, hoặc được thỉnh cầu đến những vùng đất xa xôi và trở thành những bậc Ðạo Sư ở đó. Những vị khác thì tự vạch ra cho mình những chuyến du hành truyền giáo với động cơ thúc đẩy duy nhất là lòng thiết tha mong muốn truyền trao thông điệp của đức Phật cho quảng đại quần chúng. Hàng trăm bậc Ðạo Sư tận tụy và can đảm như vậy đã được ghi chép trong lịch sử của hầu hết tất cả những quốc gia Á châu.

Tu viện đã trở thành nơi tích lũy những bản viết tay và những tài liệu có giá trị. Mỗi ngôi tự viện đều có thư viện riêng và những ngôi cổ tự đã trở thành những kho tàng văn học thực sự. Các thư viện trong Tịnh xá Mahà Vihàra ở Anuradhapura và Nàlandà ở Ấn độ được mô tả như là những nơi tổng hợp các kinh sách có tầm cỡ về nhiều đề tài, được tích lũy trên vài thế kỷ. Những kho sách đồ sộ được tìm thấy trong động Ðôn Hoàng hay ở Potala và Ðại Hàn cũng chứng tỏ được truyền thống Phật giáo về việc xây dựng và duy trì những thư viện rộng lớn.

Hoạt động giáo dục Phật giáo ban đầu bị hạn chế trong những kiến thức tôn giáo, sau đó đã mở rộng và bao quát mọi nghành kiến thức. Khởi đầu bằng những hoạt động mang tính học thuật về ngôn ngữ và văn học, tu viện đã mở rộng lãnh vực nghiên cứu bao gồm cả y học, thiên văn học và toán học. Những tu viện tọa lạc ở khu trung tâm đã phát triển thành những Ðại học có tầm cỡ (Nàlandà là một mẫu đại học điển hình quan trọng) và đã thu hút các học giả khắp nơi trên thế giới.

Tu viện phát triển thành những trung tâm hoạt động văn học. Khởi đầu là những nỗ lực văn học giới hạn trong những bản sớ giải. Sau đó tu viện đã trở thành những trung tâm thực nghiệm với những hình thức văn học mới. Tinh thần tìm kiếm phương tiện truyền thông mới để truyền bá giáo lý được biểu trưng một cách rõ ràng bằng sự kiện Tăng sĩ Phật giáo đã không ngần ngại thử nghiệm bất cứ hình thức văn học mới nào vào nền văn học Phật giáo. Cả văn thơ lẫn kịch nghệ bằng tiếng Sanskrit hoa mỹ đã được Tăng sĩ Phật giáo sử dụng rất sớm trong quá trình phát triển (chẳng hạn như tác phẩm Thơ ca về cuộc đời Ðức Phật, Buddhacarita, Saundarànandakàvya và Sàriputraprakarana của tôn giả Asvaghosa, Phật Âm). Cho đến ngày nay, các tu viện Phật giáo vẫn còn duy trì việc thực nghiệm với những hình thức văn học mới.

Ðể giúp cho việc giảng dạy giáo lý và ý nghĩa các truyện tích Phật giáo thêm phần sinh động, tu viện đã cung cấp các phương tiện giáo dục ngắm nhìn (visual aids) bằng cách hoàn thiện về nghệ thuật điêu khắc và hội họa. Việc sử dụng nghệ thuật để làm tăng vẻ đẹp thẩm mỹ và củng cố giáo dục là sự đổi mới quan trọng của Phật giáo. Tu viện còn vượt qua sự miễn cưỡng ban đầu trong việc phát họa Ðức Phật mang hình thức con người và vận dụng cả một hệ thống biểu đạt mang tính cách biểu tượng. Nghệ sĩ Phật giáo đã tiến đến một hình thức tốc ký nghệ thuật thông minh khác thường trong những họa tiết ở Bharhut và Amaràvati. Ở đây một câu chuyện phức tạp có thể gợi lại trong tâm người xem qua việc sử dụng một vài sự kiện chính yếu trong cốt chuyện để giúp trí nhớ, được cô động bằng nghệ thuật điêu khắc tinh xảo trong một tiết họa đơn lẽ. Cho đến nay, tu viện Phật giáo vẫn còn là nơi bảo tồn và hổ trợ những tài năng nghệ thuật địa phương. Nghệ thuật tranh tường của tự viện cũng thực sự là nguôàn tư liệu truyền bá tôn giáo chính yếu cho quần chúng.

Trong những hoạt động cộng đồng, tu viện đóng vai trò lãnh đạo và trở thành tiêu điểm truyền bá những tư tưởng và kỷ năng mới mẻ cho quần chúng. Tăng sĩ Phật giáo là người đứng ra hướng dẫn quần chúng xây dựng đường xá, bịnh viện, trại mồ côi và những tiện nghi cộng đồng khác,ĩ thúc đẩy việc hợp tác nông nghiệp và làm nhà xí tư nhân cũng như công cộng. Tu viện còn là nơi chính yếu cho quần chúng tổ chức những hoạt động phát triển cộng đồng trong những quốc gia Phật giáo. Tăng sĩ bao giờ cũng là người triệu tập, người bảo trợ và là người cổ vũ cho quần chúng thực hiện các phúc lợi xã hội.

Tu viện cũng còn là nơi hổ trợ chính yếu cho ngành nghệ thuật nhân gian, qua các buổi lễ hội. Ngành nghệ thuật này là những hoa văn trang trí sử dụng những vật liệu địa phương như lá chuối, lá dừa non, tre nứa v.v... hoặc là trình diễn nghệ thuật trong hình thức múa ca và kịch nghệ. Âm nhạc cũng được khuyến khích rất nhiều từ những nghi lễ này. Ngoài việc hổ trợ, khích lệ quần chúng tham gia và thưởng thức rộng rãi di sản văn hóa quốc gia, những buổi lễ hội, những đám rước, những cuộc trưng bày và những sự kiện khác tương tự như vậy của tu viện đã tạo điều kiện cho nghệ sĩ, nhạc sĩ, diễn viên múa và kịch sĩ chuyên nghiệp phát triển tài năng. Nói chung, ngôi chùa làng là nơi cung cấp sự sống cho những gia đình theo đuổi những nghành nghệ thuật này. Ngoài ra tu viện cũng còn là nơi hổ trợ cho nghề thủ công địa phương nữa.

4. Giải thoát trí tuệ của Phật giáo là động cơ phát triển giáo dục

Một yếu tố vô cùng quan trọng quy định thái độ người Phật tử đối với việc dạy, học và nghiên cứu là quan điểm giải thoát có trí tuệ. Ngay từ buổi đầu, đức Phật đã tuyên dạy đệ tử hãy tránh xa truyền thống, chủ nghĩa giáo điều và hãy khảo sát, bình luận mọi vấn đề ngay cả lời dạy của chính Ngài.

Từ quan điểm xã hội, Ðức Phật khuyến khích, nâng đỡ mỗi cá nhân tự nỗ lực và kiên trì thành tựu mục tiêu trí tuệ và tinh thần cao nhất trên con đường giải thoát không phân biệt thành phần, đẳng cấp, tín ngưỡng hay giới tính. Từ quan điểm trí tuệ, Ngài lên án cả chủ nghĩa bảo thủ lẫn việc ngầm chấp thuận một tư tưởng dựa vào uy tín của người khác. Trong giới luật Tỳ-kheo, đức Phật dạy rằng "người đệ tử cần phải bàn thảo, luận đàm bất kỳ học thuyết sai lầm nào mà vị thầy có thể chủ trương hoặc bảo người khác tuân theo." Ở đây cả sự phân tích lẫn sự thẩm cứu đều được coi trọng.

Những nguyên tắc này đã tạo cho nền giáo dục Phật giáo một sự cởi mở quan trọng liên quan tới cả người học lẫn nội dung học tập. Các ngôi tự viện cũng đã mở ngỏ cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phục vụ cho người dân bị thiệt thòi về mặt kinh tế và xã hội. Tự do phân tích và thẩm tra khảo cứu dù đã đưa giáo lý Phật giáo đến chỗ bất đồng ý kiến, đổi mới, giải thích lại và thậm chí giải thích sai, song nó đã đẩy mạnh tinh thần khoan dung lan tỏa khắp trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Chương trình giảng dạy chẳng những bao gồm cả việc nghiên cứu những hệ thống triết học và tôn giáo đối lập, bên cạnh những môn học không liên quan đến mục đích tôn giáo, mà những hoạt động nghiên cứu còn đưa đến sự hình thành nhiều tông phái và trường phái Phật giáo.

Khi Phật giáo truyền đến nhiều nước khác ở Á châu thì những nguyên tắc và truyền thống giáo dục khởi xướng lên từ nền tảng này đã tiến triển để đáp ứng những nhu cầu và những thử thách trong đời sống tinh thần và trí thức của mỗi quốc gia.

 

III. Sự Phát Triển Lịch Sử Của Giáo Dục Phật Giáo

Sự phát triển lịch sử của nền giáo dục Phật giáo đã được xác định chủ yếu qua vai trò của Phật giáo thể hiện trong một xã hội nhất định. Nơi đâu các hệ thống triết học và tôn giáo đối lập phát triển mạnh thì Tăng đoàn Phật giáo có trách nhiệm giải thích và bảo vệ giáo lý của mình để giữ lại và làm tăng thêm lượng tín đồ. Giáo dục tu viện chủ yếu nhắm vào vấn đề biện luận (debate), thảo luận (discussion), logic và biện giải. Nhưng nơi đâu Phật giáo không bị thử thách và được sự bảo trợ nhiệt thành của quần chúng và chính quyền thì trọng tâm của vấn đề là bảo tồn và phát huy giáo pháp bằng các phương thức truyền thừa đáng tin cậy, đặc biệt là vấn đề chú giải Kinh điển. Trong cả hai trường hợp, việc giáo dục cho người cư sĩ đều được duy trì bằng những thời pháp theo nhu cầu của quần chúng bao gồm việc giải thích và truyền bá giáo lý bằng thuật kể chuyện minh họa. Kiến thức truyền bá cho cộng đồng được củng cố thêm bằng phương tiện giáo dục ngắm nhìn dưới hình thức hội họa và điêu khắc của tu viện.

1. Giáo dục Phật giáo ở Ấn độ

Ở Ấn độ, Phật giáo đã gặp phải sự đối lập không những từ đạo Bà-la-môn (Brahmanism) theo truyền thống Vệ-đa (Vedà) mà còn từ những hệ thống triết học và tôn giáo khác, đặc biệt là đạo Kỳ-na (Jainism) và các trường phái triết học Ấn giáo (Hinduism) cổ điển. Trong tiến trình "giải thích và bảo vệ," bản thân Phật giáo đã trải qua sự thay đổi chính yếu đưa đến sự ra đời của trường phái Phật giáo Ðại thừa (Mahàyàna). Việc gây ấn tượng sâu sắc trong lòng quần chúng là điều cần thiết cho sự lớn mạnh của Phật giáo và sự biện luận, thảo luận được tiến hành với cả những người ủng hộ Phật giáo truyền thống lẫn các trường phái khác. Do ảnh hưởng của nhu cầu này, nền giáo dục Phật giáo tập trung vào việc huấn luyện những người có tài hùng biện, đưa đến sự phát triển về ba phương diện sau:

Chương trình giảng dạy mở rộng nhanh chóng đến nhiều môn học khác nhau bao gồm các môn học thế học như y học, thiên văn học, toán học. Bởi lẽ, nhà truyền giáo thành công phải là người thông thạo và hữu ích cho xã hội.

Pháp biện chứng, logic học và nhận thức luận được quan tâm hết mức, cả trong việc giáo huấn lẫn trong những tác phẩm văn chương bác học.

Sanskrit, ngôn ngữ của giới thượng lưu trí thức, là phương tiện biện luận, đã được vận dụng trong việc giáo huấn và trong mục đích văn học.

Một hệ thống giáo dục tu viện mở rộng như vậy đã tạo điều kiện cho các học giả từ mọi miền đất nước của Ấn Ðộ cũng như từ các quốc gia lân cận có thể gặp gỡ, theo đuổi việc học tập và nghiên cứu. Ba nhà chiêm bái Trung hoa khi thăm viếng một vài tu viện theo cấu trúc này vào khoảng giữa thế kỷ thứ năm và thứ bảy sau kỷ nguyên Tây lịch, mô tả chúng như những trung tâm hoạt động giáo dục và văn học, được duy trì và được ủng hộ nhờ vào đặc ân của Hoàng gia và sự hiến cúng của những người cư sĩ. Trong đó, Nàlandà ở Ðông Ấn và Valabhi ở Tây Ấn là những tu viện quan trọng bậc nhất.

Sự mô tả của Ngài Huyền Trang về Nàlandà, nơi Ngài đã theo học hơn năm năm, cho thấy rằng Nàlandà là một trường Ðại học phát triển đầy đủ với phòng lớp nghiên cứu, thủ tục nhập học và thi cử, một hệ thống quản lý hành chánh hoàn chỉnh và những tiện nghi cần thiết như các loại thư viện và hội trường. 1500 giáo sư được phân chia giảng dạy cho 10.000 sinh viên [11] (cả tôn giáo lẫn thế tục, cả Ấn độ lẫn ngoại quốc), học 100 môn học khác nhau, bao gồm triết học, văn phạm, thiên văn và y học. Ngài Huyền Trang nhận xét "Do đam mê học tập, đàm luận và tu tập, sinh viên cảm thấy thời gian đối với họ quá ư ngắn ngủi." Trong khi tính hiệu quả về giáo dục của Nàlandà được xác nhận bằng phẩm chất của giáo sư và sinh viên, những vị đã để lại dấu ấn lâu dài trong lịch sử Phật giáo qua những tác phẩm và những hoạt động truyền giáo của họ thì khu đại học rộng lớn, nơi đã được khai quật và bảo tồn, sẽ chứng minh cho sự đồ sộ của nó.

Về trung tâm giáo dục Valabhi, Ngài Nghĩa Tịnh đã cung cấp cho chúng ta nguồn tư liệu rằng, về phương diện vai trò và uy thế, Valabhi tương đương với Nàlanda. Thời gian cho mỗi khóa học kéo dài từ 2 đến 3 năm và tên của những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được khắc trên cổng trường. Trường đại học này cũng giảng dạy những môn học thế tục. Chính quyền Valabhi thường tìm kiếm những sinh viên tốt nghiệp của trường này để bổ nhiệm những chức vụ quan trọng.

Sử sách của người Tây Tạng đã mô tả uy thế và danh tiếng của hai trường đại học Phật giáo, đó là: Vikramasilà và Odanlapuri. Cả hai trường đều có liên hệ mật thiết với ngài Dìpankera Srìjnàna, thường được giới Phật giáo biết đến dưới tên Atisa. Tôn giả được cung thỉnh đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 11 để canh tân Phật giáo. Ngài là cựu sinh viên của trường Odantapuri và là hiệu trưởng trường Vikramasilà. Cả hai trường đều được điều hành trong vài thế kỷ, và trong thời Ngài, cả hai trường đều được các vua Pàla xứ Bengal bảo trợ. Ở tu viện đại học Vikramasilà, thí sinh muốn được nhập học phải chứng tỏ khả năngĩ thông thạo về lý luận logic trong một cuộc biện luận với một trong sáu vị dvàsa-panditas (nghĩa đen là "học giả hộ pháp"). Khi quá trình học tập được thành công mĩ mãn, vị ấy được ban thưởng bằng cấp Pandita (Hiền giả). Còn tu viện đại học Odantapuri thì được coi là kiểu mẫu cho các cơ sở giáo dục Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Tu viện đại học Tagaddalà do vua xứ Pàla tên là Ràmàpàla sáng lập vào phần tư đầu thế kỷ 12, tuy tồn tại trong một thời gian ngắn chừng một thế kỷ rưỡi, nhưng cũng đã có một sự đóng góp quan trọng cho nền học thuật Phật giáo.

Mặc dầu không có nhiều tài liệu chứng minh, song nhiều tu viện ở bán lục địa Ấn độ có thể được diễn tả đúng như là những viện đại học Phật giáo. Trong đó Taxila và Kanchi có lẽ là những trung tâm học thuật từ thời tiền Phật giáo.

2. Giáo dục Phật giáo ở các quốc gia theo truyền thống Theravada

Ở Tích Lan, nơi Phật giáo Theravada hưng thạnh với một dòng lịch sử không bị gián đoạn từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, cũng không gặp một sự kình địch nghiêm trọng nào từ những hệ thống triết học và tôn giáo khác. Vấn đề giáo dục tu viện tập trung vào việc truyền bá giáo lý kèm theo nghệ thuật diễn đạt, đặc biệt là vấn đề duy trì lời dạy của đức Phật bằng ngôn ngữ Ngài đã sử dụng khi còn trụ thế. Nội điển Phật giáo do những nhà truyền giáo thời đại đế Asoka truyền sang Tích Lan là nội điển tiếng Pàli (nghĩa đen là "Văn Bản hay Bản Kinh"). Pàli là ngôn ngữ chính thức hóa từ tiếng bản xứ Magadha, trung tâm văn vật của Ấn Ðộ thời cổ đại, nơi đức Phật hoạt động hoằng pháp nhiều nhất. Mãi cho đến khi lời Phật dạy được hình thành dưới hình thức văn bản, mục đích chính của vấn đề giáo dục tu viện là truyền khẩu qua sự ghi nhớ và sự trùng tuyên. Khi văn bản Kinh điển Phật giáo được duy trì bằng tiếng Pàli thì các bản luận giải và chú giải được sáng tác bằng tiếng Sinhala, quốc ngữ Tích Lan. Nền văn học luận giải này được dịch sang tiếng Pàli vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Với phong trào dịch thuật này, Pàli đã thay thế cho Sinhala làm thứ ngôn ngữ diễn bày văn học và có lẽ cũng là phương tiện của nền giáo dục học Phật giáo.

Dần dần, trường phái Phật giáo Mahàyàna đã thành công ở Tích Lan bằng cách sử dụng ngôn ngữ Sanskrit làm phương tiện truyền giáo. Sanskrit đã mở ngõ giúp nền văn học thế tục phát triển nhanh chóng, từ thi ca và kịch nghệ hoa mỹ trong cung đình cho đến những tác phẩm khoa học, thiên văn học, toán học và kiến trúc. Nền giáo dục này được phổ biến trong nhiều tu viện, đã mở rộng phạm vi giảng dạy đến các lãnh vực ngôn ngữ học, văn học và những môn học thế tục. Trong số các tu viện đó, vài tu viện như Mahàvihàra ở Anuradhapura và Alàhana Pirivena ở Polonnaruva, đã trở thành những trường đại học có tầm vóc thực sự. Tại đây, vấn đề nghiên cứu về lịch sử là một yếu tố rất quan trọng đưa đến sự ra đời một nền văn học phong phú về biên niên sử. Ngoài việc giáo huấn không hạn chế cho Tăng, Ni, nền giáo dục này còn phục vụ cho cư sĩ và một số học giả Tích Lan nổi danh (chẳng hạn như Gurulugomi và Vidyàcakravarti và Vua Kàsyapa V và Vua Paràkaramabàhu II).

Có một thời, chính quyền Tích Lan đã bày tỏ mối băn khoăn về sự phát triển nội dung thế học trong nền giáo dục tu viện. Một sắc lệnh hoàng gia vào thế kỷ 12 đã thực sự cấm đoán việc nghiên cứu cũng như việc giảng dạy về "thơ ca, kịch nghệ và những môn học thế tục khác." Mặc cho sự băn khoăn này, những cơ sở giáo dục tu viện, như tu viện đại học Pirivenas, vẫn tiếp tục cung cấp một nền giáo dục toàn diện đáng tin cậy vào thời ấy. Vài bài viết hiện hành về tu viện đại học Pirivenas thế kỷ thứ 15 chứng tỏ rằng chương trình giảng dạy bao gồm văn chương và ngôn ngữ Sinhala, Pàli, sanskrit, Prakit và Tamil, các môn học Phật giáo cũng trải từ nội điển Pàli, đến các bản kinh Mahàyàna, triết học Ấn độ, toán học, kiến trúc, thiên văn học, y học và chiêm tinh.

Khi Phật giáo Theravada truyền đến Miến điện, Thái lan, Kampuchia và Lào thì mô hình giáo dục Phật giáo của Tích Lan cũng được truyền bá theo. Pàli (đặc biệt là văn phạm) như một yêu cầu vở lòng cần thiết đối với quá trình nhận thức nội điển, đã truyền bá rộng sâu đến độ một quyển lịch sử Phật giáo, được viết bằng tiếng Miến điện vào thế kỷ thứ 13, nói rằng Văn phạm đã phổ cập cho cả phụ nữ và thiếu nữ. Quyển biên niên sử đương thời khác diễn tả vua Kyaswa đã đọc và trở thành bậc thầy của sách vở, đã tổ chức những cuộc thảo luận công cộng và đã giáo huấn cho người nhà bảy lần trong một ngày.

Mặc dù Pàli, loại ngôn ngữ tôn giáo chung cho tất cả các quốc gia theo truyền thống Theravada, được sử dụng trong những tác phẩm chuyên luận có tính cách học thuật, nhưng quốc ngữ của các nước cũng được lưu ý ngang bằng với nó. Nghệ thuật viết văn được thúc đẩy và những bảng chữ cái tuần tự phát triển cùng với những vị vua làm đầu tàu như ở Thái Lan, Vua Rama Khamhaeng đã phát minh chữ Thái vào năm 1283. Những tu viện, thu hút sinh viên từ mọi miền đất nước và tham gia vào một phạm vi hoạt động văn học và nghiên cứu rộng rãi, đã hiện hữu ngay trong hay trong các vùng lân cận của các thành phố chính của các quốc gia này. Mô hình học thuật Phật giáo tương tự dường như cũng đã được phổ biến ở các vùng đất Phật giáo phía Ðông như Malaysia, Indonesia và quần đảo Maldive.

Có sự đổi mới vô cùng quan trọng ở Miến Ðiện, Thái Lan, Kampuchia và Lào, về việc "việc thọ giới có thời hạn." Sự đổi mới này đã khuyến khích, nếu không nói là nhu cầu cần thiết của thời đại, mọi thanh niên nam phải trải qua ít nhất là vài tháng làm vị Tăng sống trong tu viện. Cho đến khi nào nó vẫn còn là một cơ chế tôn giáo xã hội quan trọng thì phong tục thọ giới có thời hạn đó vẫn còn bảo đảm được sự giáo dục hoàn thiện về tư cách đạo đức cho toàn thể nam công dân.

3. Giáo dục Phật giáo trong các nước theo truyền thống Mahàyàna

Khi truyền qua Trung Á đến các nước Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, Ðại Hàn và Nhật, Phật giáo Mahàyàna đã gặp phải sự chống đối của tín ngưỡng nhân gian và các hệ thống triết học tôn giáo khác. Trong mối tương tác liên hệ giữa Phật giáo Ðại thừa với Khổng giáo và Lão giáo, vấn đề huấn luyện các chuyên gia biện luận đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhu cầu để đạt được sự ủng hộ của quần chúng là một mặt làm mạnh thêm giá trị đạo đức và luân lý, và mặt khác là sự phục vụ công cộng, bao gồm cả việc giáo dục cho người cư sĩ. Logic học hình thức chiếm ưu thế trong chương trình giảng dạy. Chẳng hạn như, trong hệ thống giáo dục Phật giáo Tây Tạng hiện hành, việc nghiên cứu, học tập được thành công mỹ mãn là do cả thầy lẫn trò cùng tham gia vào việc trao đổi, biện luận bằng cách ứng dụng các nguyên tắc lý luận logic nhằm đạt đến một kết luận không thể bẻ gảy được. Mảng văn học bảo vệ và truyền bá Phật giáo, chống lại Khổng giáo và Lão giáo là những bằng chứng hùng hồn cho thấy tầm vóc của phương diện giáo dục Phật giáo này. Ta có thể thông hiểu đời sống học thuật trong một tu viện qua những bức tranh tường ở động Ðôn Hoàng. Những bức tranh này diễn tả tăng sĩ tham gia vào việc nghiên cứu, sáng tác và sao chép kinh sách.

Khi những trường phái mới, đặc biệt là những trường phái Phật giáo Trung Quốc hóa hay Phật giáo Nhật Bản hóa (Sinonize or Japanize Buddhism), nổi lên thì những phương pháp giảng dạy độc đáo khác nhau bắt đầu phát triển. Ðặc biệt là trong trường phái Thiền (Ch'an của tiếng Trung Quốc và Zen của tiếng Nhật Bản), việc chế ngự thân tâm được giảng dạy không những qua việc thực tập Thiền yên tĩnh, mà còn (đặc biệt là trong trường phái thiền Lâm Tế (Linchi của tiếng Trung Quốc hay Rinzai của tiếng Nhật) qua thiền đánh và thiền hét (Kung-an của tiếng Trung Quốc hay Koan của tiếng Nhật). Ở Nhật, phương pháp giáo dục Zen đã ảnh hưởng đến việc huấn luyện những nhà kiếm khách hay chính khách (Samurai).

Hệ thống giáo dục tu viện bổ sung cho nền giáo dục thế tục được nhà nước bảo trợ trong hai phương thức quan trọng: Một là, cung cấp một nền giáo dục phổ thông, chủ yếu dành cho nam sinh, và đặc biệt cho những người bình dân và những thành phần dân nghèo mà trường công lập không thể mở rộng cho họ học được. Trường học gắn liền với tu viện (chẳng hạn như trường Terakoya ở Nhật), cung cấp cho người học kiến thức căn bản về đọc, viết và tính toán số học. Hai là, sáng lập những trường chuyên ngành cho những sinh viên phổ thông tham gia vào việc nghiên cứu và tranh biện, như trường Shuyuan ở Trung hoa. Trong tất cả những quốc gia Phật giáo châu Á, những bản văn Phật giáo là những bản đầu tiên được in ra. Ở Ðại Hàn, một trong hai quyển sách mà Vua Sejorn đã sử dụng để dạy cho thần dân biết chữ bằng sự hỗ trợ của bảng chữ cái mới do vua phát minh là quyển Ðời Sống của Ðức Phật.

4. Sự suy tàn và phục hưng của nền giáo dục Phật giáo

Do hệ quả bành trướng của Hồi giáo ở Á châu thế kỷ 12-15, nền giáo dục Phật giáo và đạo Phật đã suy tàn ở bán lục địa Ấn độ, cũng như ở Malaysia, Indonesia và quần đảo Maldive. Ở những nơi khác, nền giáo dục Phật giáo vẫn kiên trì trong mức độ đổi thay mãnh liệt và hữu hiệu cho đến khi nền giáo dục hiện đại ra đời, hoặc do chính sách thuộc địa hoặc bằng chính sách quốc gia.

Trong một vài quốc gia, chính sách thuộc địa một mặt khuyến khích những nhà truyền đạo Ky-tô giáo đảm nhiệm việc giáo dục quần chúng, mặt khác những động cơ khuyến khích việc học tập loại ngôn ngữ hành chánh đã tước mất quyền tham gia và ủng hộ của người cư sĩ trong những cơ sở giáo dục Phật giáo. Tương tự như thế, dưới ảnh hưởng của quá trình hiện đại hóa, những hệ thống giáo dục học đường thế tục đã phát triển nhanh chóng ở Trung quốc, Nhật bản, Ðại hàn và Thái lan. Theo nguồn tham khảo trong hầu hết các quốc gia này thì thật ngược đời, chính tu viện Phật giáo là nơi giúp cho hệ thống giáo dục hiện đại trở thành phổ biến do sự hiện diện khắp nơi của Tu viện, ngay cả trong những vùng rất xa xôi hẻo lánh, chính tăng sĩ Phật giáo là người đã cung cấp cơ sở đầu tiên cho nhà trường hiện đại. Ở Nhật dưới thời phục hưng Mejji năm 1873. Terakoya đã tự canh tân thành một cơ sở giáo dục phổ thông đầu tiên và với kế hoạch giáo dục mới năm 1886, bản chất Phật giáo của cơ sở này mới biến mất. Ở Miến Ðiện, chính sách phát triển nền giáo dục thế tục đầu tiên của Anh đã thành công vào năm 1868-1870, bằng cách trợ cấp sách vở hiện đại và bổ nhiệm các giáo sư giỏi đến đảm nhiệm mỗi trường trong số 3500 trường tu viện. Ở Thái, 71,3% tổng số học đường và 85 % trường tiểu học thành lập vào năm 1931 hoạt động trong khuôn viên tu viện và hiện nay vào khoảng 1/3 tổng số trường học trong vương quốc này vẫn còn nằm trong mảnh đất tu viện. Tình trạng này cũng xảy ra tương tự ở Tích Lan, ngay cả các trường tu viện truyền thống cũng bị lệnh đóng cửa vào năm 1865.

Tuy hai hệ thống giáo dục này không bị pha lẫn, ngay khi cả hai cùng tồn tại trên một mãnh đất. Song nếu quay trở lại vai trò tu viện đơn thuần, nền giáo dục Phật giáo khó có thể tồn tại trong hình thức chính quy. Trong khi đó chức năng giáo dục xã hội không chính quy của Phật giáo vẫn không bị ảnh hưởng.

Nơi nào Phật giáo vẫn còn là tôn giáo của quần chúng thì việc đẩy mạnh sự phục hưng nền giáo dục Phật giáo là vai trò sách lược để phục hồi tinh thần dân tộc và đấu tranh cho nền độc lập. Phục hồi và hiện đại hóa là đặc điểm của những nổ lực này, theo hai cách:

- Hợp lý hóa nền giáo dục tu viện bằng cách canh tân chương trình giảng dạy không những để tạo những bước tiến về kiến thức nói chung, mà còn mở rộng phạm vi nghiên cứu Phật học rộng khắp thế giới.

- Phát triển một hệ thống học đường Phật giáo cho trẻ em, dựa theo nền tảng mô hình trường đạo Ky-tô, nhưng chú tâm kỷ lưỡng vào việc học tập và thực hành Phật giáo.

Một vài loại cơ sở giáo dục Phật giáo theo cách canh tân này đã tồn tại từ hơn một trăm năm qua.

Ở Tích Lan, đại học Pirivenas đã được phục hồi, mở rộng cho cả hai giới tăng sinh và sinh viên. Trường Vidyodaya do Ðại Trưởng lão Hikkaduwe Sri sumangala Nàyàka thiết lập năm 1873 và trường Vidyàlankàra do Ðại Trưởng lão Ratmalane Sri Dhammàràma Nàyaka thiết lập năm 1875. Sau khi phục hồi, hệ thống của trường Pirivenas đã đem lại một sinh khí thật sự, kết quả là gần 200 học viện đã ra đời, phục vụ cho trên 10.000 sinh viên. Buddhasràvaka Dhammapìthaya là trường đại học dành riêng cho tăng sĩ, thành lập vào năm 1966, và trường Buddhist and Pali University (trường Ðại học Phật học và Pàli) hoạt động như trường Pirivenas truyền thống, khi những phân khoa cấu thành của nó hiện hữu vào năm 1981.

Miến Ðiện và Thái Lan cũng đã phát triển những trường dạy Pàli. Ở Thái, hệ thống giáo dục tu viện theo truyền thống đã bắt đầu phục hưng từ thời Vua Mongkut (Rama IV). Con trai Ngài, Hoàng tử Vajiranànavaroros vào năm 1893 đã thành lập một viện Phật học tương ứng với Pirivenas dưới tên Mahàmakut Ràyavidyàlaya. Vào năm 1946, viện Phật học này được nâng lên tầm mức của một trường Ðại học. Tương tự, trường Mahàchùlalongkorn Ràja-vidyàlaya cũng được nâng thành trường đại học vào một năm sau đó, tức năm 1947. Hiện nay, cả hai trường đại học Phật giáo này vẫn còn được xem là những cơ sở giáo dục tu viện đứng hàng đầu của quốc gia Thái Lan.

Nhật, Trung Hoa, Ðại Hàn cũng đã thiết lập những College [12] Phật học. Ở Nhật, nhiều Phật tử đã ủng hộ sự phát kiến của Ngài Enryo Inouye, người không những đã viết tác phẩm có sức thuyết phục lớn dưới nhan đề Bukkyo Katsu-ron (Phật giáo Thắng Luận) vào năm 1890, mà còn là người sáng lập ra College triết học Phật giáo. Trường College này thật sự là mô hình tái tổ chức trường lớp và College Phật học. Vài học viện đã được nâng lên đến mức đại học (University) và cung cấp cho tăng đoàn những phương tiện giáo dục cấp cao (Higher education, giáo dục sau cử nhân cho đến tiến sĩ) với nhiều bộ môn khác nhau. Mục tiêu chính yếu của các trường này là huấn luyện tăng sĩ trở thành những vị có chức năng truyền giáo, uyên thâm và phục vụ xã hội, và cũng để tạo điều kiện dễ dàng cho những học giả theo đuổi việc nghiên cứu triết học, văn học và văn minh Phật giáo.

Học đường và các College do giới Phật giáo thiết lập cho trẻ em cung cấp một nền giáo dục thế tục nói chung tùy theo chính sách riêng của mỗi quốc gia. Những học viện này đóng một vai trò quan trọng trong những giai đoạn đầu của các phong trào nhận diện văn hóa và độc lập dân tộc. Dần dần mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục (ngay cả vấn đề quản lý) của những cơ sở này bị thu hút vào những hệ thống học đường quốc gia đang phát triển. Những hệ thống học đường này đã thực hiện đến mức chính yếu chức năng văn hóa của những viện Phật học. ảnh hưởng của sự can thiệp Phật giáo vào nền giáo dục thế tục ở một số nước Á châu một mặt là nhằm khảo sát về tầm quan trọng của quốc ngữ, lịch sử và văn minh và mặt khác là cần chú tâm vào tầm quan trọng của nông nghiệp, thủ công nghiệp truyền thống và giáo dục hướng nghiệp. Như vậy Phật giáo đã mở đường cho bước quá độ từ sự phục vụ dân sự nhỏ hẹp nhằm vào những hệ thống học đường đến những phục vụ phản ánh những nhu cầu quốc gia rộng lớn hơn. Vấn đề giáo dục cho người Phật tử tại gia thực hiện qua những Trường học ngày chủ nhật (Sunday school). Ở Tích Lan và Thái Lan, nhà nước bảo trợ và giúp đỡ cho những lớp học ngày chủ nhật này.

 

IV. Ðặc Ðiểm Và Tính Ðặc Trưng Của Chương Trình Giảng Dạy Của Nền Giáo Dục Phật Giáo

Khi khảo sát những khái niệm, thể thức, phương cách và các phương pháp tiếp cận thực tế về giáo dục Phật giáo, qua nguồn tài liệu lịch sử và những viện Phật học đang hiện hữu ở Á Châu, ta có thể nhận biết một số đặc điểm quan trọng và tính đặc trưng của chương trình giảng dạy của nền giáo dục Phật giáo:

1. Tiêu chí và mục đích:

Mục đích tối hậu và tiến trình phát triển tâm lý của nền giáo dục Phật giáo là giúp cá nhân giải thoát khỏi mọi loại xiềng xích trói buộc. Sự giải thoát này do mỗi cá nhân tự đạt được bằng chính bước chân và óc sáng kiến của riêng mình. Thầy giáo là người tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên, là người hướng dẫn và hơn thế nữa là người khéo nêu gương cho sinh viên noi theo. Phương châm "Gương mẫu tốt hơn giáo huấn suông" được xem như một phương tiện giao tiếp đúng đắn giữa Thầy và trò. Thầy giáo nên lưu ý những điểm cá biệt của mỗi sinh viên và vạch ra những khóa huấn luyện riêng cho mỗi cá nhân (đặc biệt về những chủ đề thiền định) sao cho phù hợp với cá tính của người ấy. Bản thân vấn đề học tập không phải là mục tiêu tối hậu, mà là một tiến trình đưa đến tự nhận thức. Trong Phật giáo tiến trình này tương đồng với tiến trình tự giải thoát - mục đích tối hậu của đời sống tôn giáo. Ðiều giúp con người đạt đến tự nhận thức hoàn toàn là một chuỗi kinh nghiệm cá nhân. Chuổi kinh nghiệm cá nhân này không thể được sao chép lại để áp dụng cho bất cứ cá nhân nào khác, bằng bất cứ giá nào. Thời gian và phương pháp nhận thức trong tiến trình kinh nghiệm này cũng biến đổi như nhau.

Nguyên tắc huấn luyện tinh thần này được ứng dụng vào kinh nghiệm học tập trong Tăng đoàn Phật giáo. Theo tinh thần Phật giáo, không có một cuốn sách nào cũng không có một phần tài liệu nào được xem là tài liệu gốc để nghiên cứu, để làm chủ hoặc để nắm giữ như thẩm quyền chân lý. Hiểu biết vừa đủ để rèn luyện tinh thần và diệt trừ bản ngã là mục tiêu chính yếu. Ðiều đó nói lên rằng bản thân kiến thức không phải là mục tiêu của quá trình học tập. Ðức Phật trước sau như một đã bài bác những ai muốn trở thành những "người chỉ tinh thông sách vở hay con mọt sách." Tuy nhận thức rõ tầm quan trọng của thành tích học tập và sự học thuật có bổ ích cả về danh tiếng lẫn lợi lộc vật chất, tăng đoàn Phật giáo xác nhận rằng vấn đề học tập cần phải đi kèm với tình cảm đạo đức và nguyên tắc đạo lý. Quá trình học tập có giá trị chỉ ở mức độ giúp cho cá nhân trở thành một người tốt hơn về mặt đạo đức cũng như về tinh thần.

2. Học tập là nhằm huấn luyện bản thân:

Trong hệ thống giáo dục tu viện Phật giáo, hiện tượng thầy giáo đứng lớp giảng dạy cho tập thể sinh viên chỉ mới phát triển thời gian tương đối gần đây. Thầy giáo thường tiếp xúc mỗi cá nhân để nắm chắc khả năng tiếp thu bài học của sinh viên đồng thời để giảng thêm những bài học mới. Giảng dạy theo lối thuyết giảng hay giải thích bài học cho một nhóm sinh viên hiếm khi xảy ra và hoàn toàn giới hạn trong những vấn đề mà sinh viên không hiểu nổi hoặc hiểu sai.

Người học hầu như dành hết thời gian để tự học hiểu, sử dụng những bản luận giải, những bản giải thích chi tiết về bản luận giải, bản từ vựng đối chiếu, bản tham khảo mục từ và từ điển từ vựng. Nền văn học Phật giáo diễn bày bằng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau cũng có đầy đủ những tài liệu tự học như vậy. Có hai phương pháp đánh giá kết quả học tập: Yêu cầu của người học hoặc là chứng tỏ khả năng thu thập, rút tỉa những tài liệu học tập và chú giải hay chú thích về một bài kinh nào đó, hoặc là tham gia vào một cuộc biện luận với thầy, bạn và bảo vệ quan điểm của riêng mình. Kết quả cuối cùng của quá trình học tập thường được đánh dấu bằng một sáng tác mang tính sáng tạo của người học.

Trong hệ thống giáo dục tu viện Phật giáo, không có một tăng sinh nào được coi là thất bại. Trong khi những vị thông minh xuất chúng đi vào việc nghiên cứu và giảng dạy thì những tăng sinh trung bình sẵn sàng tiếp nhận nhiệm vụ duy trì và truyền thừa lại kinh văn nội điển bằng cách học thuộc lòng hoặc sao chép những bản kinh chọn lọc, hoặc in ấn kinh điển để phổ biến.

3. Những khía cạnh vận hành của sự thành lập khái niệm:

Phương pháp gợi hỏi vấn đề và hướng dẫn đệ tử hiểu rõ những giới hạn trong tiền đề và kết luận của họ đã góp phần chẳng những cho sự tiến triển một hệ thống logic học Phật giáo đặc biệt, mà qua sự tương tác, nó còn đóng góp cho việc hình thành lớn mạnh học thuyết nhận thức luận trong các trường phái triết học Ân Ðộ. Trong tiến trình này người Phật tử đóng một vai trò tiên phong trong việc đào sâu những cơ chế thành lập khái niệm.

Ðược phát triển chi tiết trong các bản sớ giải và luận giải sau này về tạng A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma Pitaka), phân ngành học thuật của Phật giáo này đã vượt xa khỏi học thuyết nhận thức luận thuần túy và vượt khỏi luôn cả ý thức về các phương diện vận hành, như được giải thích sau này bằng phương pháp huấn luyện và quán tưởng thiền đặc biệt là của Zen và của Phật giáo Tây Tạng.

4. Tác nhân thay đổi:

Việc huấn luyện tăng đoàn thành một nhóm tác nhân tự đổi mới là một đặc điểm quan trọng của nền giáo dục Phật giáo. Cơ chế tăng đoàn như một tổ chức dân chủ phân quyền của những người cùng địa vị có thể giúp tăng đoàn tiến triển tùy theo đặc tính và nhu cầu của những dân tộc khác nhau ở những thời điểm và nơi chốn khác nhau. Ðộng cơ thúc đẩy xuất phát từ một lý tưởng tiếp cận tương đồng với cả lợi ích cá nhân lẫn chủ nghĩa vị tha bác ái. Người tu sĩ Phật giáo đầu tiên từ bỏ cuộc sống thế tục tìm kiếm sự tiến bộ và giải phóng tinh thần của riêng mình. Tuy nhiên, trong đời sống tăng sĩ, vị ấy vẫn còn tham gia nhiều hoạt động nhằm mục đích duy trì tổ chức tăng đoàn và phục vụ đền đáp những người cư sĩ hộ trì Phật pháp. Khi tổ chức tăng đoàn nào có khả năng vượt qua mọi thử thách và tự phục hồi, thì tăng đoàn đó trở thành tác nhân thay đổi hữu hiệu nhất không những thay đổi trong cách giảng dạy mà còn tự thích nghi với sự thay đổi đó.

5. Mối quan hệ thầy-trò:

Khái niệm về người thầy của Phật giáo là một khái niệm mang ý nghĩa rộng lớn. Bất cứ người nào mà ta có thể học hỏi được một điều gì, dù là một chữ hay nữa chữ, người ấy cũng là thầy ta. [13] Cha mẹ được xem là những bậc thầy đầu tiên trong quá trình giáo dục (pubbàcariya). Giáo dục Phật giáo thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ tình cảm và đạo đức giữa thầy và trò. Mặc dù người học không bị bó buộc phải chấp thuận quan điểm của thầy hoặc xem thầy như một thẩm quyền chân lý không thể bác bỏ được, song theo truyền thống Phật giáo, người học nên tôn kính Thầy.

Mối quan hệ giữa thầy và trò cũng quan trọng ngang bằng mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái, bất kể tuổi tác giữa hai bên. Thầy không những phải bảo vệ trò thoát khỏi những nguy khốn của cuộc đời mà còn giới thiệu và ca ngợi trò đúng lúc trước bạn bè và thân hữu. Ðiều này dẫn đến một hệ quả quan trọng là thầy không bao giờ trở thành đối thủ của trò. Ngược lại chính sự thành tựu hay thành công rạng rỡ của trò càng làm cho thầy tăng thêm danh tiếng. Vì thế, trò mà dám ganh đua với thầy là điều vô cùng tệ hại. Những mối quan hệ song đôi được đẩy mạnh giữa thầy và trò như thế đã tạo nên bầu không khí lành mạnh trong quá trình học tập và tìm tòi kiến thức. Ðặc điểm nổi bật của nền giáo dục Phật giáo là không có sự căng thẳng nào xảy ra trong suốt quá trình học tập.

6. Phương tiện của ngôn ngữ nói:

Ngôn ngữ nói là phương tiện duy nhất được đức Phật và các vị đệ tử đầu tiên của Ngài sử dụng. Việc sử dụng ngôn ngữ nói như một phương tiện giáo huấn trong nền giáo dục tu viện Phật giáo chính quy là một vấn đề hạn chế. [14] Tuy nhiên trong hình thức giáo dục thông thường cho quảng đại quần chúng thì tăng đoàn Phật giáo trãi qua bao thời đại đã sản sinh những bậc diễn thuyết siêu đẳng, có sức thu hút, có nhịp điệu, có sức mạnh thuyết phục và có khả năng diễn thuyết tượng hình linh hoạt.

Mô hình truyền thống về cách thuyết pháp bắt nguồn từ đức Phật. Ta có thể tìm thấy những đặc điểm chứa đựng ở những bài pháp dài của đức Phật trong hầu hết các thời pháp của thời hiện tại. Tuy nhiên những nét đổi thay trong những bài pháp sau này là một chứng minh về khả năng hiện đại hóa đáng kể.

"Hai vị cùng tuyên giảng bài pháp" là cách thực hiện một trong những sự đổi mới như vậy. Thay vì chỉ có một vị tăng đảm nhiệm việc thuyết giảng thì ở đây hai vị sẽ cùng lên pháp tòa. Có thể lựa chọn một trong các phương thức thuyết giảng khác nhau sau đây. Một vị tuyên đọc bản kinh và vị kia sẽ giảng giải nội dung của đoạn kinh ấy bằng cách cung cấp những thông tin kiến thức Phật học căn bản và minh họa lời Kinh bằng những câu chuyện sống động. Hoặc để tạo không khí sinh động và thú vị cho người nghe pháp, một vị đặt câu hỏi và vị kia trả lời. Hoặc cả hai cùng tạo ra một thời pháp dưới dạng thức vấn đáp hay thảo luận trực tiếp với người nghe về những đề tài Phật học hoặc liên hệ Phật học mang tính cách xuất hiện ngẫu nhiên. Về phương thức thứ ba này, có thể không cần đến vị pháp sư thứ hai. Ở đây, chỉ cần một cư sĩ đóng vai người đặt câu hỏi và vị pháp sư là người trả lời. Chẳng hạn như để tái tạo lại cảnh tượng bài pháp vấn đáp nổi tiếng giữa đại đức Na-tiên và Ðại vương Menander của Hy Lạp, vị pháp sư sẽ đóng vai đại đức Na-tiên và vị cư sĩ thủ vai đại vương Menander. Cách thuyết pháp này sẽ gây nhiều ấn tượng kịch nghệ, làm cho người nghe khó quên. Trong nhiều trường hợp, tính kịch nghệ của lối thuyết pháp này càng tăng thêm hiệu quả. Chẳng hạn như tái hiện cảnh đức Phật Thích-ca-mâu-ni gặp gỡ, học đạo và được hai mươi bốn đức Phật quá khứ lần lượt thọ ký làm Phật. Ðây chỉ là một vài nét đổi mới của cách thuyết pháp như vẫn thực hành thường xuyên ở Tích Lan mãi cho đến một vài thập niên trước đây. Trong những quốc gia Phật giáo khác cũng có những cách thức đổi mới tương tự như vậy. Tuy nhiên, do sự bành trướng của loại hình giải trí hiện đại, phương thức thuyết pháp đặc biệt này đã bị lảng quên.

Phật tử là người đầu tiên trong những người sử dụng kịch nghệ làm phương tiện truyền bá tôn giáo. Ngày nay người ta đã chứng minh được rằng các kịch bản Ấn độ cổ xưa mang đậm nét chủ đề Phật giáo. Ngay cả, những đoàn kịch tôn giáo và kịch lưu động trong tất cả các quốc gia Phật giáo vẫn duy trì truyền thống này. Những đoàn múa du hành của Miến điện và Tây tạng là những đoàn đặc biệt trình diễn những chủ đề giáo dục đạo đức Phật giáo và lịch sử Phật giáo cho quảng đại quần chúng.

7. Phương tiện văn bản:

Khởi nguồn từ những chỉ dụ của vua Asoka, phương tiện truyền bá tinh thần Phật giáo cho quảng đại quần chúng trong triều đại Mauryan rộng lớn vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, người Phật tử đã sử dụng văn bản để phục vụ quần chúng bằng nhiều cách khác nhau. Bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, khi nội điển được đưa vào văn bản, hệ thống giáo dục Phật giáo đã lấy kinh sách làm tài liệu chính yếu trong vấn đề tự học.

Văn bản đã sớm trở thành một phương tiện truyền bá quan trọng của nền giáo dục Phật giáo phổ thông. Những quyển sách cổ xưa nhất thường được viết theo phong cách của giảng sư và trở thành cái gọi là các bài pháp dưới dạng văn bản. Cho đến thời gian rất gần đây, người dân quê vẫn còn duy trì việc đọc sách cộng đồng như một thú tiêu khiển, trong tu viện cũng như ở gia đình.

Trong hai địa điểm ở Mandalay và Miến điện, toàn bộ Tripitaka được khắc gọn gàng trên hàng trăm phiến cẩm thạch. "Thư viện" lộ thiên này đã lôi cuốn quần chúng khắp nơi đến tham khảo và nghiên cứu.

Việc trình bày những tác phẩm Phật giáo trên cờ, trên rèm treo tường như ở Nhật Bản, Ðại Hàn, Mông Cổ, Tây Tạng có cùng một mục đích tương tự. Ðộng cơ tôn giáo thuần túy bao giờ cũng bổ sung cho nền văn học Phật giáo phổ thông. Viết lách và ấn hành kinh sách Phật giáo được coi là một hình thức truyền bá chân lý (Dhammadàna). Trong kinh Pháp Cú, đức Phật đã khẳng định rằng "Tuyên ngôn chân lý bao giờ cũng siêu việt hơn tất cả các hình thức tuyên ngôn khác."

8. Phương tiện giáo dục ngắm nhìn:

Người Phật tử sử dụng điêu khắc và hội họa làm phương tiện truyền bá chứ không đơn thuần gói gọn trong việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ. Tường chùa đã tiến triễn thành một phương tiện giáo dục thông thường khác nữa. Những chủ đề nghệ thuật họa vẽ hoặc điêu khắc trên tường tu viện thường được rút ra từ nền văn học kể chuyện gồm những câu chuyện về đời sống quá khứ và hiện tại của đức Phật, tiểu sử những vị đại đệ tử, lịch sử Phật giáo và những câu chuyện mang tính tượng hình về thiên đường và địa ngục. Hành hương thường là chuyến du lịch mang tính nghiên cứu, nhằm tìm đến những ngôi chùa nổi tiếng về hội họa và điêu khắc.

9. Phương pháp học tập chung nhất:

Ðể đào tạo học giả và chuyên gia, nhà sáng tác, nhà truyền giáo, người tổ chức và người quản lý, người Phật tử duy trì vàphát triển hệ thống giáo dục chính quy với sự nhấn mạnh đặc biệt vào ba phương diện: đó là, sự ghi nhớ, thuật viết chữ (bút pháp), thuật luyện giọng và trình bày chính xác.

Ghi nhớ những bộ kinh, những tập luận giải nhiều tập được xem là phương tiện huấn luyện và trau giồi tâm trí. Nhưng khi sách vở lưu hành, thư viện phổ biến và việc sao chép kinh văn thực hành đều đặn, (hoặc ở Tây Tạng, Ðại Hàn, Nhật Bản và những nơi khác là việc in ấn các mộc bản), thì vấn đề ghi nhớ không còn là một nỗ lực để chứa cất dữ liệu trong não bộ nữa. Khả năng ghi nhớ để lập lại những bài kinh dài có thể vẫn được tán thán như một kỳ công, nhưng bản thân nó không được coi là một dấu hiệu đa văn. Việc học tập được đánh giá dựa trên khả năng thấy được mối tương quan và tổng hợp những gì đã thu thập thông qua nhiều phương tiện khác nhau. Không có một nhà giáo dục Phật giáo nào lại ủng hộ việc học thuộc lòng, tuy nhiên vấn đề biện luận thông thạo vẫn còn tùy thuộc vào chế độ huấn luyện trí nhớ một cách đúng đắn.

Viết chữ đẹp còn là một vốn quý giá hơn nữa. Trong truyền thống Phật giáo, viết chữ đẹp chính là dấu hiệu của sự uyên bác. Do vậy, người học thường dành một phần thời gian chính yếu của mình cho việc hoàn thiện thuật viết chữ. Trong những tu viện Tây Tạng, bút pháp được xem là một trong những hoạt động học tập chính yếu, vì huấn luyện trí nhớ phải đi kèm với viết lách và người học thường lấy những tập " sao chép" làm chứng cứ cho việc học tập.

Với tầm quan trọng của nền giáo dục gắn liền việc truyền khẩu, người học cần phải có khả năng đọc, nói rõ ràng và chính xác, phát âm rạch ròi. Ðây là vấn đề huấn luyện cần thiết cho nhóm xướng tụng kinh điển (vừa là nghi thức tôn giáo hằng ngày, vừa là hình thức phục vụ cho người cư sĩ) và cũng là vấn đề cần thiết cho việc thuyết giảng. Kinh Bộ Tăng Chi, bắt đầu bằng những pháp số ít nhất và tiến dần đến những pháp số nhiều hơn, được sử dụng chỉ cho mục đích này.

Như vậy, một trí nhớ tốt, chữ viết đẹp đẽ, dễ đọc và lời nói rõ ràng luôn gắn liền với quá trình học tập. Sự rèn luyện có phương pháp và kỷ luật chỉ có thể thành công qua năm tháng ứng dụng, được xem là có giá trị lớn và còn được các học giả cho là trọng tâm của vấn đề học tập.

10. Kinh nghiệm việc làm:

Trong nền giáo dục tu viện Phật giáo, việc học khôâng tách rời với việc làm. Người học dù là tu sĩ hay cư sĩ cũng phải thi hành một số nhiệm vụ khác nhau liên quan đến việc duy trì và bảo vệ tu viện. Những nghi lễ thông thường thường đi kèm với những loại công việc đặc biệt. Người học phải nắm vững một số công việc về nghề mộc (wood-work), công trình nề (masonry) và nghề kim khí (metal-wook) để sử dụng vào những dịp lễ lạc này. Các kỷ năng liên quan đến hội họa, nghệ thuật điêu khắc bằng giấy và bơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật khác có cơ hội phát triển. Những cựu sinh viên trung bình của hệ thống giáo dục Phật giáo là một người thợ lành nghề có nhiều kỷ năng điêu luyện và rất khéo léo. Trong hệ thống giáo dục Tây Tạng, Tăng sinh thực sự học thêm nghề mộc, nề, may và thêu bên cạnh các môn học phải thi cử khác.

11. Phục vụ xã hội:

Bổn phận của tu viện là phải đáp ứng nhu cầu cho những người cư sĩ hộ trì Phật pháp trong cộng đồng sống chung. Tăng sinh thường thực hiện các lễ lạc Phật giáo tại tư thất của quần chúng Phật tử để tạo kết và thắt chặc mối dây liên lạc với đời sống cộng đồng.

Việc giảng dạy cho lớp trẻ là nhiệm vụ chung. Bởi lẽ, trong hầu hết các nước Phật giáo, các bậc phụ huynh vẫn còn tiếp tục hỗ trợ đắc lực cho chư Tăng trong việc duy trì và truyền bá kiến thức dân tộc cũng như truyền thụ văn học Phật giáo cho thanh thiếu niên. Họ tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng hoặc để phát triển hoặc để trợ giúp và phục hồi nền văn hóa dân tộc và giáo dục Phật giáo. Những chương trình học tập không chết cứng, thường không có những quy chế bó buộc thời gian như thi cử hay được lên lớn, có thể giúp tăng sinh kết hợp việc học tập với kinh nghiệm công tác và phục vụ xã hội cũng như để kéo dài thời kỳ học tập cho đến khi hoàn cảnh còn cho phép.

12. Thúc đẩy ngành nghệ thuật và thủ công nghiệp:

Nghệ thuật và thủ công nghiệp dân gian cũng như âm nhạc là những yếu tố giáo dục Phật giáo phổ thông, thông qua các buổi lễ thường xuyên và chi tiết ở tu viện. Ðối với các công tác phục vụ xã hội, sự tham gia của tăng sinh chỉ có thể được tiến hành khi thời khóa học tập và thi cử không quá cứng ngắt.

 

V. Kết Luận: Nhu Cầu Nghiên Cứu Về Nền Giáo Dục Phật Giáo.

Như bài viết đã nêu rõ, nguồn tư liệu có được về giáo dục Phật giáo, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, thật là giới hạn. Ðể làm sáng tỏ triết học giáo dục của Phật giáo, hiện nay, một vài nổ lực đã được thực hiện chỉ với những thành quả khiêm tốn, do vì không có được sự phân tích toàn diện về nguồn tài liệu văn học giáo dục Phật giáo. Lịch sử giáo dục Phật giáo tự giới hạn mình trong những đoản văn giáo dục Ấn độ như đã được ghi chép trong những câu chuyện Phật giáo hoặc giới thiệu trong những tác phẩm mô tả của các nhà chiêm bái Trung Hoa (như Huyền Trang và Pháp Hiền chẳng hạn). Sự mất chỗ đứng của các tu viện đại học Phật giáo, những nỗ lực phục hồi nền giáo dục Phật giáo và ảnh hưởng văn hóa xã hội của những sự phát triển này trong mỗi quốc gia Phật giáo Á châu vẫn còn phải được nghiên cứu và đánh giá nghiêm chỉnh. Tầm quan trọng tương đương cần phải khảo sát và nghiên cứu là những khái niệm, phương cách, mô thức và phương pháp có thể ứng dụng được của nền giáo dục Phật giáo xưa nay, trong bất cứ phương diện nào, có còn thích ứng với những nỗ lực hiện hành về sự phát triển giáo dục hay không?

Thích Nữ Vân Liên dịch
thichnuvanlien@yahoo.com 

Tài Liệu Tham Khảo

Anagarika Dharmapala., Return to Righteousness: A Collection of Speechs, Essays and Letters (Colombo: Ministry of Cultural Affairs, 1965).

Anesaki, M., History of Japanese Religion (Tokyo: Tuttle, 1964).

Bell, A., The People of Tibet (Oxford: Clarendon, 1928).

Buchanan, F. R., Living the Life of a Zen Monk (Soc. Educ. 43: 522-26, 1979).

Dutt, S., Buddhist Education: 2500 Years of Buddhism (Delhi: Ministry of Information, 1956).

Guruge, A. W. P., From the Living Fountains of Buddhism (Colombo: Department of National Archives, 1984).

Kaung, U,. A Survey of History of Education in Burma before Britist Conquest and After (JJour. Burma Res. Soc. 46 (2); 9-124, 1963).

Mookerji, R. K,. Ancient Indian Education: Brahmanical and Buddhist. (London: 1947).

National Institute for Educational Research, Moral Eduacation in Asia: Report of a Joint Study on Moral Education in Asian Countries. (Tokyo: 1981).

Prip-Moller, J,. Chinese Buddhist Monastories: Their Plan and Its Function as a Setting for Buddhist Monastic Life. (Hongkong: Hongkong University Press, 1968).

Tambiah, S. J,. Buddhism and the Spirit Cults in Northeast Thailand (Cambridge: Cambridge University Press, 1970).

Watson, J. K. P, The Monastic Tradition of Education in Thailand. (Peadag. Hist. 13: 515-29).

Wells, K. E, Thai Buddhism: Its Rites and Activities (Bangkok: Suriyabarn, 1975).

-oOo-

Chú Thích:

[1] Dịch từ G. P. Malakasekera (Ed.) Encyclopeadia of Buddhism, Vol. V.

[2] Dìgha Nikàya. I, p. 189).

[3] Majjhima nikaya, I, p. 445.

[4] Majjhima nikaya, III, p. 1.

[5] Udàna.V, p. 5.

[6] Majjhima nikaya, I, p. 179ff.

[7] Vinaya, II, p. 5,7f.

[8] Anguttarànikaya VIII, p.16.

[10] Anguttara Nikaya, I, p.131.

[11] A.L. Basham nghi ngờ về sự chính xác của những con số này. Ông viết: "Thật khó có thể tưởng tượng rằng tu viện đại học Nalanda, một nơi không có đầy đủ tiện nghi, lại có thể cung cấp đủ chổ ở cho hàng ngàn tăng sĩ như ngài Huyền Trang đã mô tả." Ở đây, Basham đã đưa ra một giả định đáng ngờ về sự giống nhau của vật liệu xây dựng, về sự biến đổi của tu viện bao gồM việc tái kiến thiết trên 600 năm, khu vưcĩ bị quân xâm lược Hồi giáo phá hoại và sự hoàn tất của vấn đề khai quật khảo cổ hiện tại.

[12] College là trường đại học trực thuộc University, chuyên đào tạo các bộ môn cấp Cử nhân. Thường, nó được dịch là Trường cao đẳng hay Trường đại học cộng đồng, để phân biệt với trường University mà nó trực thuộc. Tuy nhiên hai cách chuyển dịch này không thích hợp lắm. Do đó, trong bài dịch này, người dịch tạm để nguyên là College. (Chú thích của dịch giả).

[13] Quan niệm này rất phù hợp với đạo lý tôn sư trọng đạo của Việt Nam và Trung Quốc: "Một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy; nhất tự vi sư, bán tự vi sư." Có lẽ cả hai truyền thống trên đều có nguồn gốc từ những giáo huấn về quan hệ thầy-trò trong đạo Phật. (Chú thích của dịch giả).

[14] Ý của đoạn văn muốn nói đến việc Phật giáo không chú trọng đến hình thức giáo dục suông (Nói nhiều mà không thực hành) nhưng đặt trọng tâm ở vấn đề giáo dục gương mẫu (thân giáo) và thực hành thiền định. (Chú thích của dịch giả).

-oOo-


Source: Ðạo Phật Ngày Nay - Buddhism Today, http://members.xoom.com/budtoday/


[Trở về trang Thư Mục]