| THIÊN THỨ 
        MƯỜI BA (c) NHỮNG 
        CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo- THẮNG NGƯỜI 
        NGOẠI ÐẠO TÊN SUNDARÌ Sau khi Thành đạo, Phật 
        giáo phổ biến trong nhân gian một cách mau chóng và sâu rộng, 
        tất cả các hạng người từ vua chúa, hàng quí phái, các bậc 
        Trưởng giả đến hạng cùng đinh đều hồi đầu hướng 
        thiện. Vì vậy mà làm cho bọn tà kiến ngoại đạo phải bị 
        lui lần vào nơi bị bế tắc vì không người sùng bái kính 
        nể như xưa. Các vị Tổ sư của các 
        giáo phái trong thời kỳ ấy lấy làm căm tức Phật giáo nhứt 
        là đức Thế Tôn, nên hội lại nghiên cứu kế hoạch làm 
        cho mất uy tín của Phật. Những người có mặt tại hội 
        ấy có cô Sundarì (đọc là SUN ÐA RI) là người đẹp nhứt 
        và thông minh nhứt, nên được bọn ngoại đạo giao phó 
        trách nhiệm làm cho mất uy tín của Phật. Cô lại đi theo dấu 
        chơn của cô Cincà. Nhưng bọn ngoại đạo đã bị nếm mùi 
        thất bại nên kỳ nầy khôn hơn là: thuê bọn côn đồ giết 
        cô Sundarì rồi đem thây vùi ở đống hoa của tín đồ cúng 
        dường bữa trước gần bên tư thất của Phật ngự. Khi cô 
        ra vào chùa bọn ngoại đ?o làm như không hay biết chi hết 
        đến khi bọn chúng giết cô Sundarì vùi vào đống hoa xong, 
        bọn chúng truy hô lên là mất cô Sundarì. Sau khi tìm thấy 
        trong đống hoa héo bọn chúng liền vào tâu cho đức vua xứ 
        Thất La Phiệt và xin đức vua trừng trị đức Phật. Khi bọn ngoại đạo 
        đem tử thi vào thành và đem chuyện ấy truyền rao mọi nơi 
        để bêu xấu Ðức Phật rằng: Vì Ông Cồ Ðàm thầm vụng 
        yêu đương cô Sundarì , khi biết chuyện đổ bể ra nên giết 
        cô để diệt khẩu, nay đã tìm thấy nơi đống bông cũ gần 
        bên tư thất của thầy Cồ Ðàm. Khi ấy đức vua nghe bọn 
        ngoại đạo đem chuyện ấy nói mọi nơi, Ngài liền cho mật 
        thám phải đi dò thăm cho ra sự thật. Người thành Thất La 
        Phiệt, ngoại trừ các bực Thánh nhơn thì ai ai cũng lấy làm 
        chán nản mất đức tin với đức Thế Tôn. Còn chư Tỳ khưu còn 
        là phàm nhơn lấy làm bất bình vào bạch Phật chuyện ấy. 
        Ðức Thế Tôn liền dạy: Nầy chư Tỳ khưu, các thầy đừng 
        phiền trách hàng đại chúng, người nào nói xấu kẻ vô tội, 
        người ấy sẽ thọ lấy cái quả của mình đã làm. Rồi 
        Ngài dạy câu kệ: ABHMTAVADINIRIYAM UPETI YOPÀPAM KATVÀNA KAROMICCAHAM
 UBHOPI TE PECCA SAMÀBHÀVANTI
 NIHÌNAKAMMÀ MANUJA PURATTHATI.
 Nghĩa: Người nói xấu 
        kẻ khác bằng lời nói dối khi nói không thật, người ấy 
        phải bị đọa vào địa ngục. Hơn nữa, người nào làm việc 
        chẳng lành, lại che giấu tội ấy bằng lời nói rằng: 
        Tôi không có làm tội lỗi đê hèn ấy, rồi cố che không 
        cho ai biết. Hai hạng người ấy sau khi từ bỏ cõi đời nầy 
        sẽ bị thọ khổ trong bốn đường ác đạo. Người không 
        làm việc ác, hằng ngày làm lợi ích cho người đời, người 
        ấy sẽ thoát khỏi ác đ?o và sẽ được hưởng quả cao 
        thượng trong đời nầy và vị lai. Sau khi dứt câu kệ có rất nhiều vị đắc Thánh 
        quả. Ðồng thời ấy, mật 
        thám của đức vua đã bắt gặp được bọn côn đồ giết 
        nàng Sundarì đang uống rượu say cãi nhau rằng: Bộ chỉ có 
        một mình ngươi là người giết cô Sundarì sao? Chúng ta đồng 
        làm chuyện ấy thì phải được hưởng đồng đều. Mật thám liền bắt hết 
        bọn ấy đưa về thành để đức vua phán xét. Khi về đến 
        đức vua phán hỏi: Phải bọn ngươi giết cô Sundarì không? 
        Bọn côn đồ thú thật mọi việc. Ðức vua liền hạ chiếu 
        bắt hết bọn ngoại đạo đã chủ mưu chuyện ấy, tùy 
        theo tội nặng nhẹ mà xử. Khi ấy đức Thế Tôn 
        mới thuyết cho chư Tỳ khưu nghe rằng: Nầy các thầy Tỳ 
        khưu, không phải chỉ có kiếp nầy nàng Sundarì nói dối 
        và nói xấu Như Lai mà thôi đâu. Cô ấy đã từng nói xấu 
        Như Lai kiếp quá khứ rồi. Chư Tỳ khưu thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy 
        Túc Sanh Truyện ấy. Ðức Thế Tôn dạy: 
        Trong kiếp quá khứ có nhà vua tên Brahamadatta trị vì xứ 
        Bàrànasì. Khi ấy đức đại Bồ Tát sanh vào gia đình của 
        vị Ðại thần. Sau khi cha quá vãng đức Bồ Tát được 
        thay cha kế vị. Khi ấy đức vua có một 
        bà Hoàng hậu, đức vua lấy làm yêu thương. Lúc nọ, có loạn 
        ở biên cương, quan quân không dẹp nổi, nên đức vua phải 
        thân chinh. Trước khi đi Ngài cho Hoàng hậu hay và bảo phải 
        ở lại xem việc trào chánh thay Ngài. Hoàng hậu nằn nằn 
        đòi theo, nhưng không được đức vua chấp thuận. Lịnh bà 
        liền yêu cầu đức vua phải cho quan hầu về cho tin luôn 
        luôn, đức vua nhận lời. Khi đi mỗi do tuần đều cho về 
        một vị quan hầu để cho bà hay nhà vua đã đi đến nơi nào 
        và bình yên. Mỗi vị quan hầu về 
        cho tin, đều được lệnh bà chiếu cố một đêm với bà. 
        Từ kinh thành đến nơi nổi loạn xa ba mươi hai do tuần, 
        nghĩa là có ba mươi hai vị quan hầu về cho bà hay và bà đã 
        chiếu cố ba mươi hai vị. Sau khi dẹp xong loạn 
        quân đức vua hồi trào. Cũng mỗi do tuần đều cho một vị 
        về cho Hoàng hậu biết tin. Ba mươi hai vị ấy cũng được 
        bà chiếu cố mỗi vị một đêm với bà. Tính cả thảy là 
        sáu mươi bốn vị gần với bà trong khi đức vua dẹp loạn. Khi về đến thành đức 
        vua còn ở ngoài thành để cho quan hầu đưa tin vào cho vị 
        Ðại thần ở trào (là đức Bồ Tát) biết để lo chuẩn bị 
        tiếp đón Ngài. Ðức Bồ Tát liền vào hoàng cung báo tin 
        ấy cho Hoàng hậu hay. Khi bà trông thấy vị 
        Ðại thần trẻ tuổi đẹp trai thì bà ưng ý, bà liền tỏ 
        vẻ yêu đương, nhưng đức Bồ Tát cương quyết phản đối 
        chuyện đê tiện ấy. Bà cho biết sáu mươi bốn vị quan 
        kia đã làm như lời bà, mặc dầu vậy đức Bồ Tát cực lực 
        phản đối. Bà lấy làm tức giận sanh oán thù. Bà liền 
        nghĩ ra kế là vu cáo Ngài. Bà liền xé y trang cào mặt mày 
        trầy. Ðức vua ngự vào 
        thành đến hoàng cung thăm bà trước nhứt, thấy tình trạng 
        của bà như vậy phán hỏi, bà liền vu oan rằng: Ðã bị vị 
        Ðại thần ấy cưỡng dâm nhưng bà không bằng lòng nên bị 
        đánh đập như vậy. Ðức vua lấy làm tức giận truyền 
        đem Ðại thần ra xử tử. Nhưng đã là đức Bồ 
        Tát thì trí tuệ hơn người nên Ngài liền thuật lại câu 
        chuyện Hoàng hậu hành động đê hèn như vậy có cả sáu mươi 
        bốn vị quan làm bằng. Ðức Bồ Tát liền dạy đức vua phải 
        hành động cho đúng là một vị minh quân, và phải có ngũ 
        giới nhứt là phải có pháp không tây vị. Sau khi thuyết pháp xong 
        đức Bồ Tát xin xuất gia vào ở rừng Tuyết Lãnh. Sau khi thuyết Túc Sanh 
        Truyện xong Ngài dạy rằng: Vị đại Bồ Tát trong ấy 
        chính là Như Lai hôm nay, bà Hoàng hậu trong khi ấy chính là 
        cô Sundarì trong kiếp nầy. Ananda đức vua trong kiếp ấy. HÓA ÐỘ 
        NGOẠI ÐẠO SACCAKA SÀCCAM VIHÀYA 
        MATISACCAKAVÀDAKETUMVÀDÀBHIROPITAMANAM ATIANTABHMTAM
 PANNAPAVÌPAJALITO JITAVÀ MUNINDO
 TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
 Nghĩa: Ðức Phật sáng 
        suốt nhờ ngọn đèn tuệ. Ngài đã cảm thắng ngoại đạo 
        tên Saccaka là kẻ không ngay thật. Chỉ ưa thích sự nâng 
        cao lời nói mình như người dựng cột phướn, kẻ rất si 
        mê, chẳng khác người mù. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự 
        hạnh phúc phát sanh đến người. CHUYỆN TÍCH Khi đức Thế Tôn ngự 
        tại Kutagàrasàlà ở rừng Mahàvana gần thành Vesàlì. Trong 
        khi ấy có con của một người Nigraítha tên là Saccaka ở 
        trong thành Vesàlì. Saccaka là người rất có tài biện luận. 
        Khi đến vấn đạo một vị giáo chủ nào thì vị ấy 
        không sao trả lời câu hỏi của y được. Thật là một người 
        rất thông minh giỏi về việc vấn nạn người. Người thời 
        ấy đặt tên y là Ðại Trí Thức. Saccaka thường tự hào 
        khoe khoang tài mình giữa nơi hội họp rằng: Ta chưa từng gặp 
        bậc Sa môn hay Bà la môn hoặc các vị Tổ sư của một đạo 
        giáo nào tự xưng là A-la-hán hiểu thông mọi sự việc để 
        ta được vấn nạn cho mãn nguyện. Chỉ có những người 
        bị ta vấn nạn trước công chúng mồ hôi chảy ướt cả 
        châu thân vì thẹn là không trả lời được câu hỏi của 
        ta. Sự thật khi mà ta đã vấn nạn góc cột hoặc vật vô 
        tri giác nó cũng kinh sợ run rẩy lên. Nhờ chút tài mọn chưa 
        gặp người đối đáp nên tên ngoại đạo Saccaka tự kiêu, 
        tự đắc, ngạo mạn càng ngày càng nặng, khinh khi tất cả 
        các bực trưởng lão và các bực xuất gia. Khi ấy có nhiều vua 
        chúa, các quan cùng các nhà quí phái đưa con đến xin học với 
        y. Khi ấy y tự xưng cho mình là Giáo sư tên là Disàpamokkha 
        (có nghĩa là vị Giáo sư giỏi nhứt trong một châu). Bịnh ngạo mạn tự 
        kiêu càng ngày càng nặng, nên ngày nọ y mới nghĩ rằng: Ta 
        là người học nhiều hiểu rộng, lão thông kinh sử, trên 
        đoạt thiên văn dưới thông địa lý. Sự hiểu biết của 
        ta càng ngày càng thêm nhiều, ngày nào đây bụng ta không 
        còn có chỗ chứa nổi nữa nó sẽ nổ tung ra. Vậy ta phải 
        làm một cái niền để niền cái bụng lại để cho nó khỏi 
        nổ tung ra. Tôi (soạn giả) dịch đến đây lấy làm lạ 
        cho bực gọi là Ðại trí thức mà nghĩ chuyện trẻ con như 
        vậy. Nhưng tôi không dám bỏ đoạn nầy vì trong kinh nói 
        sao tôi thuật y vậy. Tất cả người trong 
        thời kỳ ấy lấy làm lạ và xôn xao bàn tính về cái bụng 
        niền bằng cái niền sắt của người ngoại đạo Saccaka 
        ấy. Tiếng đồn đại đến các lân quốc. Tên tuổi của Saccaka 
        không ai không biết và không ai không ca tụng kính nể. Vì vậy 
        mà bịnh của y càng ngày càng trầm trọng. Nếu y nghe rằng: 
        Nơi nào có các vị trí thức là Sa môn hay Bà la môn hoặc 
        ai chẳng hạn, không nề đàng xa hay cực nhọc y thân hành 
        đến vấn nạn. Ðồng thời ấy Hồng 
        danh của đức Ðại Giác cũng đang phổ biến sâu rộng 
        trong thế gian. Pháp bảo của Ngài chiếu ánh sáng huy hoàng 
        tất cả mọi nơi đều sùng bái và tu theo giáo lý của 
        Ngài nhiều không kể xiết. Hầu như thời kỳ ấy không một 
        ai không biết Phật là vị đại Sa môn Cồ Ðàm. Vị Chánh 
        đẳng Chánh giác, đấng Ðại Giác, đấng Ðại Từ Bi, đấng 
        Phổ độ những người bất kham v.v... Saccaka nghe tin ấy lấy 
        làm bất mãn vì y muốn rằng: Tiếng Ðại trí thức độc 
        quyền một mình y thôi. Nên y có ý định sẽ tìm Phật để 
        vấn nạn, làm cho Phật không còn thanh danh và mất hết uy 
        tín trong thế gian nầy. Ngày nọ, Ðại Ðức 
        Assaji (vị Ðại Ðức mà Ngài Xá Lợi Phất gặp đầu tiên 
        và do Ngài thuyết pháp nên đắc Tu-đà-hườn) đang đi khất 
        thực trong thành Vesàlì. Saccaka trông thấy Ðại Ðức từ 
        xa đi đến gần Ngài và hỏi: Thưa thầy, ông Sa môn Cồ 
        Ðàm hằng giáo hóa hàng đệ tử những gì? Ngài Ðại Ðức đáp: 
        Nầy Aggivesana , đức Thế Tôn hằng dạy chư đệ tử nhiều 
        pháp môn không sao kể hết được, nhưng có thể tóm lại 
        là: Sắc không thường. Thọ không thường. Tưởng không thường. 
        Hành không thường. Thức không thường. Sắc, Thọ, Tưởng, 
        Hành, Thức không thường là không phải của ta gọi là Vô 
        Ngã. Ðây là lời giáo hóa của đức Bổn Sư. Khi nghe xong trở về 
        nơi cư ngụ, gọi tất cả học trò lại đưa vấn đề đã 
        hỏi ngài Ðại Ðức ra bàn cãi nhau và mọi người nơi ấy 
        đều có quyền đưa ý kiến ra. Sở dĩ mà Saccaka làm như vậy 
        vì muốn tìm ra tất cả ý kiến mọi người cho thật chu đáo 
        đến vấn nạn Phật. Khi mọi người đều đưa ý kiến và 
        Saccaka đã thu lượm được rất nhiều ý kiến, y chắc rằng 
        đã chu đáo hoàn toàn rồi. Vì y đã chọn lọc những ý kiến 
        hay rồi. Saccaka liền tìm đến 
        Ðại Ðức Assaji hỏi Ngài: Nầy ông Assaji , ông xuất gia đây 
        có lợi ích chi cho ông? - Nầy Saccaka , bần đạo 
        xuất gia hầu được sự ích lợi là giải thoát. - Nầy ông Assaji ơi, lời 
        nói đây thật là chuyện vô ích, mà việc làm của ông là 
        nhân đi đến nơi địa ngục, không phải là lối đi đến 
        nơi an lạc đâu. Từ kiếp này đến kiếp sau xin ông đừng 
        bao giờ nói đến tiếng nầy nữa, lời ấy thật là lời 
        không nên nói. Thật là lời đáng ghê tởm. Ông hãy nghe lời 
        ta đây, ông hãy về chỗ của ông Cồ Ðàm đang ở và ta cũng 
        dẫn năm trăm đệ tử ta đến nơi ấy. Ông liền gọi năm 
        trăm đệ tử đắc ý của ông nhứt là năm trăm vị hoàng 
        thân vua Licchavì xứ Vesàlì , đến nơi Phật ngự. Theo thường lệ của 
        đức Ðại Giác thì hằng ngày sáng sớm thường dùng tuệ 
        giác xem coi chúng sanh nào có duyên lành với Ngài để Ngài 
        đi tế độ. Sáng hôm ấy đức Thế Tôn thấy Saccaka đã 
        đi sâu vào lưới giác ngộ của Ngài, ông ấy sẽ bỏ lòng 
        tự cao tự đại, xuất gia theo Phật giáo. Sau khi thoát sanh 
        được sanh về cõi trời, sau khi Như Lai nhập diệt, ông nầy 
        sẽ là người đem Phật giáo truyền bá tại Tích Lan. 
        Saccaka sẽ sanh vào gia đình Bà la môn, là người có trí tuệ 
        không ai có gì đo lường được, có lòng trong sạch với Phật 
        giáo, xuất gia theo vị Ðại Ðức tên là Moggalliputta đắc 
        A-la-hán quả. Vậy Như Lai nên quá độ cho được Saccaka nầy. 
        Nên đến sáng ngày đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành 
        Vesàlì khất thực, sau khi khất thực xong đức Thế Tôn 
        không dẫn chư Tỳ khưu về chùa mà lại dẫn lại ngự dưới 
        một cội cây ở nơi rừng Mahàvana và thọ thực nơi ấy. Saccaka cũng dẫn đệ tử 
        vào rừng Mahàvana gặp đức Thế Tôn đang ngự nơi ấy. Y 
        liền đến gần tính vấn nạn Phật nhưng khi đến gần lấy 
        làm kinh sợ nên tỏ vẻ kính trọng chớ không hách dịch như 
        gặp các vị khác. Ông ta liền hỏi: - Nầy ông đại Sa môn, 
        thật là hân hạnh được gặp ông hôm nay. Tôi được nghe 
        danh tiếng của ông vang rền như cồn, vì vậy nên tôi cố 
        tìm ông hầu luận đàm pháp lý với ông. - Nầy Saccaka , nếu ngươi 
        muốn hỏi ta bao nhiêu và những gì thì cứ hỏi tự tiện hỏi. 
        Như Lai rất vui lòng giải đáp những gì thắc mắc của ngươi. - Nầy ông Cồ Ðàm, 
        ông hằng giáo hóa tín đồ những gì? Và những lời chỉ 
        giáo ấy phần nhiều là gì? - Nầy Aggivesana , Như 
        Lai hằng dạy hàng đệ tử như vầy, những lời dạy c?a ta 
        phần nhiều là Sắc không thường, Thọ, Tưởng, Hành, Thức 
        không thường. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải 
        là ta, không phải của ta. Các pháp đều không phải là ta, 
        không phải của ta. Như Lai hằng dạy hàng đệ tử như vậy. - Nầy ông Sa môn Cồ 
        Ðàm, tất cả các thứ giống đều mọc lên tươi tốt đều 
        nhờ vào quả địa cầu, lớn lên cũng nhờ quả địa cầu. 
        Cũng ví như tất cả những hành vi và các việc làm của ta 
        cũng nhờ quả địa cầu, nghĩa là vì có quả địa cầu thì 
        ta mới có chỗ ở mà hành sự; điều nầy ta muốn đề cập 
        đến là vì nhờ có Sắc là của ta, Thọ là của ta, Tưởng 
        là của ta, Hành là của ta, Thức là của ta. Nhờ ta ở 
        trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức mới có hưởng được 
        tất cả mọi sự việc khoái lạc trong đời. - Nầy Aggivesana , 
        ngươi nói như vậy có phải ý ngươi muốn nói như vậy: Sắc 
        là của thân ta, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là của 
        thân ta có phải vậy không? - Phải vậy, mà tất cả 
        những người có mặt nơi đây cũng đồng ý với ta như vậy. - Nầy Aggivesana , nay 
        ngươi đến đây để đưa ra ý kiến chắc của ngươi là: 
        Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chắc là của thân ta. Những 
        vật ấy đều ở dưới quyền sử dụng của bản thân ta. 
        Giờ đây nếu thật Sắc ấy là của bản thân ngươi thật. 
        Vậy ngươi hãy bảo Sắc của ngươi rằng: Sắc thân của 
        ta không được phép già. Nếu Sắc thân ấy vâng lời ngươi 
        thật nghĩa là không già. Khi ấy Như Lai xin tin theo ngươi rằng: 
        Sắc là của ta. Sẽ lo săn sóc và bồi bổ cho thân nầy, 
        mà cũng hết lòng thương mến nó. Ngươi nên bảo tóc của 
        ngươi rằng: Tóc hãy đen hoài đừng bạc. Răng hãy ở mãi 
        mãi với ta đừng rụng. Thử coi những vật ấy có vâng lời 
        ngươi chăng? Thật ra nếu ngươi có khẩn cầu van xin tới 
        đâu đi nữa, Sắc ấy cũng chẳng bao giờ vâng lời ngươi, 
        nó sẽ từ từ thay đổi theo thời gian và theo ý nó. Vậy nay ta hỏi ngươi: 
        Sắc ấy có phải là của ta chăng? Vậy từ đây đi ngươi 
        hãy bỏ ý định: Các Sắc là của ta. Saccaka không thể trả 
        lời được nên cảm thấy hổ thẹn vô cùng. Vì quá hổ thẹn 
        nên không đủ sáng suốt để đối đáp, nên ngồi lặng 
        thinh. Ðức Thế Tôn hỏi lần thứ nhì đến lần thứ ba mà 
        Saccaka cũng vẫn lặng thinh không trả lời được. Phàm một vị Chánh đẳng 
        Chánh giác không bao giờ hỏi ai đến bốn lần, nếu đến 
        lần thứ tư thì người ấy sẽ bị chết liền tại chỗ. 
        Khi đức Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba vài phút sau, có Dạ 
        xoa tên là Vajirapàni hiện ra tay cầm cây côn to, hào quang 
        cây côn ấy chiếu lòa cả mắt, đứng trên không trung hét 
        to lên rằng: Nầy Saccaka , nếu ngươi mà câu nệ và tự cao 
        không trả lời câu hỏi của đức Thế Tôn để làm cho ý 
        nghĩa đầy đủ, ta sẽ đập nát đầu ngươi ra. Vì đức 
        Ðại Giác không hề hỏi ai đến ba lần, mà nay đã hỏi ngươi 
        ba lần rồi, đến lần thứ tư ta không dung tha ngươi được. 
        Vì trước mặt đức Ðại Từ Bi nên ta đã dung cho ngươi 
        đến câu thứ ba rồi không còn dung câu thứ tư được. Nơi ấy chỉ có đức 
        Thế Tôn trông thấy Dạ xoa bằng Thiên nhãn của Ngài, còn 
        Saccaka trông thấy vì Dạ xoa muốn cho Saccaka thấy. Saccaka thấy 
        hình dung kỳ dị hung ác của Dạ xoa đã kinh khủng lắm rồi 
        mà còn bị đe dọa rằng sẽ đập nát đầu nữa nên 
        Saccaka liền cuối lạy đức Thế Tôn và nói: - Bạch đức Thế Tôn, 
        Ngài là nơi nương nhờ của tôi. Bạch Ngài, xin Ngài cứ hỏi 
        tôi xin đáp lời Ngài. - Nầy Saccaka , ngươi là 
        kẻ ngoan cố, chấp rằng: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức 
        là của ta, là ta, là vật dưới quyền sở hữu của ta có 
        phải vậy chăng? Hay là không phải? - Bạch Ngài, Sắc, Thọ, 
        Tưởng, Hành, Thức thật không phải ta. Không phải của ta. 
        Không dưới quyền sở hữu của ta. Không thể rầy la nó 
        được. Khi ấy đức Thế Tôn liền dạy rằng: - Pháp nào không thường 
        là vật đem khổ não đến ta, nếu vật nào đem khổ não đến 
        thì vật ấy không phải của ta, mà cũng chẳng phải là ta, 
        ba pháp ấy gọi là Vô thường, Khổ não và Vô ngã. Ðức 
        Thế Tôn còn dạy nhiều pháp khác nữa. Ðức Thế Tôn muốn nhắc 
        cho Saccaka có thêm trí nhớ và trí tuệ nên Ngài dạy rằng: - Nầy Saccaka , người 
        trong thế gian nầy khó mà gặp được đấng Ðại Giác, có 
        khi người phải luân hồi hằng trăm ngàn đại kiếp cũng 
        không gặp được đức Chánh đẳng Chánh giác. Hiện nay ngươi 
        là người có đào tạo nhiều duyên lành để dành trong vô 
        số kiếp nên mới gặp được Như Lai. Khi ấy, Saccaka cảm thấy 
        lòng trong sạch kính thành với Phật bảo. Ông mới nói: Bạch 
        Ngài Cồ Ðàm, chúng tôi những người có mặt nơi đây, 
        toàn là những kẻ si mê, tà kiến, cố ý đến để vấn nạn 
        Ngài, thâm tâm chúng tôi muốn vấn nạn Ngài, không cho Ngài 
        có lối thoát, bắt buộc Ngài phải kính phục chúng tôi. 
        Trái lại Ngài là đấng Ðại Từ Bi, dập tắt được tà 
        kiến của chúng tôi bằng Pháp bảo, ví như người bị rắn 
        độc cắn đang bị nộc hành thật là khổ sở, nhờ người 
        đem thuốc đến chữa cho lành mạnh; người cho thuốc ấy 
        chính là Ngài vậy. Hiện giờ tôi được sáng suốt cũng nhờ 
        Pháp bảo của Ngài soi đường, đã ra khỏi vòng tà kiến. 
        Tôi có thể làm cho tâm tôi được an vui. Ngài là vị đưa 
        sự an vui tiến hóa vĩnh viễn cho chúng tôi. Tôi xin thỉnh cầu 
        đức Thế Tôn và chư Tỳ khưu đến thọ thực nơi tư gia tôi 
        sáng mai nầy. Saccaka biết đức Thế Tôn nhận lời nên gọi 
        năm trăm đệ tử ra về và bảo rằng: - Mai nầy các ngươi hãy 
        đến tư gia ta để làm lễ trai Tăng đấy nghe. Sáng ngày, đức Thế Tôn 
        và chư Tăng đến thọ thực tại nhà của Saccaka. Saccaka lấy 
        làm vui mừng được đức Thế Tôn đến trai Tăng. Nên ông 
        lo lắng hết sức chu đáo. Khi trai Tăng xong ông liền bạch 
        Phật rằng: - Bạch hoá đức Thế 
        Tôn, Ngài là người ban bố sự an vui và hạnh phúc cho tôi. 
        Xin Ngài nhận tôi là người tín đồ Phật giáo. Ðức Thế Tôn dạy: - Nầy Saccaka , ngươi làm 
        phước lần nầy gọi là làm phước vĩ đại đúng theo 
        pháp Ba la mật, kiếp sau ngươi sẽ diệt tận tham ái, sân hận, 
        si mê không đi vào ác đạo nữa. THU PHỤC 
        LONG VƯƠNG NANDOPANANDA NANDOPANANDABHUJÀGAM 
        VIBUDHAMMA- HIDDHIMPUTTENA THERABHUJAGENA DAMÀPAYANTO.
 IDDHMPADESAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
 TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI.
 Nghĩa: Ðức Phật dạy 
        Ðại Ðức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thu phục 
        rồng chúa Nanh Ðô Pá Nanh Ðá (NANDOPANANDA) là rồng tà kiến 
        có nhiều thần thông. Nhờ dạy Ðại Ðức Mục Kiền Liên 
        mà đức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy. Do 
        nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến 
        người. CHUYỆN TÍCH Lúc nọ đức Thế Tôn 
        ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc 
        tại thành Thất La Phiệt. Khi ấy ông Trưởng giả vào thỉnh 
        cầu đức Thế Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ 
        thực nơi nhà của ông sáng hôm sau. Ðức Thế Tôn nhận lời 
        bằng cách lặng thinh. Phận sự của đấng 
        Ðại Giác là đến canh chót Ngài dùng tuệ nhãn xem coi 
        chúng sanh nào có duyên với Ngài sáng hôm ấy để Ngài đi 
        hóa độ. Ngày ấy, Ngài trông thấy Long vương Nandopananda là 
        rồng rất hung ác nhưng lại có duyên lành với Ngài. Ðức 
        Thế Tôn nghĩ: Vậy trong hàng đệ tử vị nào là người có 
        thể hóa độ Long vương nầy thay Như Lai. Ðức Thế Tôn thấy 
        Ngài Ðại Ðức Mục Kiền Liên là người có duyên thâu phục 
        Long vương. Sáng ngày, đức Thế Tôn 
        dạy Ðại Ðức Ananda cho năm trăm vị Ðại Ðức biết rằng: 
        Ðức Thế Tôn ngự lên cõi trời. Các vị liền tụ lại đông 
        đủ để cùng đi theo đức Thế Tôn. Ðồng thời, Long vương 
        Nandopananda dẫn cung phi mỹ nữ ra nơi đồng trống, hiện ra 
        một tòa lầu thật nguy nga đồ sộ. Toà lầu ấy trang điểm 
        bằng các thứ ngọc quí thật là đẹp. Long vương truyền dọn 
        yến ăn uống vui chơi. Ðức Thế Tôn dẫn chư 
        Ðại Ðức đến nhà ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc để thọ 
        thực, thay vì Ngài đi thẳng đến nhà ông Trưởng giả, trái 
        lại Ngài dẫn chư Tăng bay lên cõi trời Ðạo Lợi mà lại 
        bay qua lâu đài của Long vương đang ăn uống vui chơi. Trước 
        khi đi đức Thế Tôn dùng thần thông làm cho hào quang chiếu 
        sáng và Ngài phát nguyện rằng: Xin cho chư Thiên và nhân loại 
        cùng tất cả các loài có thức tánh đều trông thấy Như 
        Lai và chư Tăng ngự đi lên trên cõi trời. Khi phát nguyện 
        xong Ngài dẫn chư Tăng bay đi trên không như người đi trên 
        bộ, ai ai cũng trông thấy rõ ràng. Trong khi đức Phật và 
        chư Tăng đang bay đi, Long vương lại trông thấy, lấy làm tức 
        giận và rất ghét, nghĩ rằng: Bọn Sa môn nầy thật là dại 
        dột, không biết kính nể oai thần, không biết khiếp sợ 
        ta. Nếu họ muốn đi đến cõi Ðạo Lợi thì cứ đi, nhưng 
        xin đừng bay ngang qua đầu ta, nếu bay ngang qua đầu ta, thì 
        ta sẽ gây sự với bọn ấy liền. Chắc chắn rằng: Khi bọn 
        ấy bay ngang qua đầu ta thì cát bụi dưới chân bọn ấy sẽ 
        rớt lên đầu ta và vật thực của ta. Vậy trước hết ta 
        phải đón đường chúng không cho chúng đi ngang qua đây. Nghĩ xong, Long vương liền 
        dùng mình quấn lấy núi Tu Di cao tám muôn bốn ngàn do tuần, 
        rộng một muôn do tuần bằng cái đuôi, còn đầu thì che mất 
        cõi Ðạo Lợi ngoài ra Long vương còn làm cho mây bay khói tỏa 
        mịt mù tối đen làm cho không thấy đường đi. Ðại Ðức Ratthapàla 
        thấy bỗng dưng thiên ám địa hôn như vậy, nên đến gần 
        Phật và bạch hỏi. Ðức Thế Tôn đáp: 
        Có chuyện lạ như vậy là do nơi Long vương tên Nandopananda 
        đang giận dữ muốn làm hại Như Lai và đang nguyền rủa 
        Như Lai thậm tệ, đang dùng đuôi quấn núi Tu Di và đầu 
        che án cõi Ðạo Lợi làm cho trời tối không thấy chi hết. Ðại Ðức Ratthapàla 
        nghe vậy liền xin Ðức Thế Tôn cho phép Ngài dùng thần 
        thông để thâu phục Long vương tà kiến ấy. Ðức Thế 
        Tôn không nhậm lời. Lần lượt đến tám mươi vị đại 
        đệ tử đến xin kể có cả Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhưng 
        không vị nào được Ngài ban cho đặc ân ấy. Sau cùng đến 
        Ngài Mục Kiền Liên, đức Thế Tôn mới nhậm lời. Sau khi nhậm lời xong 
        Ngài liền dạy: Như Lai cho phép ngươi đi độ Long vương. 
        Như Lai cầu chúc ngươi thắng và thâu phục được Long 
        vương ấy. Ðức Thế Tôn ngồi trên hư không có chư Thánh 
        Tăng đứng hầu, để xem Ðại Ðức Mục Kiền Liên thâu phục 
        Long vương. Ðại Ðức thấy Long vương 
        biến hình to như vậy Ngài nghĩ rằng: Long vương nghĩ rằng, 
        biến thân hình như vầy là to lớn lắm rồi, vì Tu Di sơn 
        vương là núi to nhất mà y còn quấn bảy lần. Y định rằng: 
        Không còn có nhân vật nào lớn bằng. Vì vậy nên dám cả 
        gan muốn giết đấng Ðại Giác. Ta phải làm cho Long vương 
        mất hết tâm thâm độc nầy, bỏ lòng tà kiến. Ngài liền 
        hóa ra Long vương lớn gấp đôi Long vương Nandopananda và quấn 
        bên trên mình của Long vương ấy và siết chặt vào làm cho 
        Long vương Nandopananda bị ép chặt vào núi Tu Di, còn đầu của 
        Ngài Ðại Ðức hóa Long vương to hơn đầu Long vương 
        Nandopananda hằng trăm lần. Thân hình Long vương mà Ðại Ðức 
        hóa ra quấn Long vương Nandopananda mười bốn lần. Long 
        vương Nandopananda lấy làm khổ sở vì bị một sức mạnh lớn 
        hơn hằng triệu lần quấn và ép vào Tu Di sơn, hình như 
        xương bị gãy ra từng đoạn; không thể thở được thì 
        làm sao cử động được. Không còn chịu đựng 
        với sự khổ sở ấy nữa nên Long vương liền thu hết tàn 
        lực thổi ra một làn khói độc. Ðại Ðức biết rõ Long vương 
        nầy có một chất độc vô cùng tai hại, có thể làm chết 
        hết nhân loại và cỏ cây không thể sống được nếu không 
        bị cháy tiêu tức khắc. Ngài liền dùng thần thông thâu hết 
        chất độc đến đổi ngọn cỏ ở kề bên cũng không bị 
        rung động. Khi thấy đã dùng đến hơi độc vô cùng nguy hiểm 
        mà không làm gì được Ðại Ðức, Long vương liền hóa lửa 
        để đốt Ngài. Ðại Ðức liền dùng ngay thiền định về 
        chất lửa đẩy lui lửa của Long vương mà còn làm cho Long 
        vương bị nóng nảy không sao chịu nổi. Thân hình Long vương 
        bị lửa của bản thân mình hóa ra bao bọc coi như là một 
        cây lửa cao tám muôn bốn ngàn do tuần vậy. Long vương Nandopananda mới 
        nghĩ rằng: Người nầy tên gì? Từ đâu đến? Thần thông 
        cao đệ nhứt, hơn cả ta. Vậy ta nên hỏi xem cho biết. Long 
        vương mới hỏi: Ông tên chi? Từ đâu đến? Xin ông cho tôi 
        biết. - Bần đạo là đệ tử 
        chánh thức tay trái của đức Giác Ngộ tên là Mục Kiền 
        Liên. - Bạch Ðại Ðức, 
        Ngài là vị Sa môn, tại sao Ngài lại nỡ hành hạ tôi như 
        thế nầy. Ðây thật là việc mà Ngài là bực Sa môn không 
        bao giờ nên làm. - Nầy Long vương, chính 
        tâm bần Tăng không hề vì sân hận hay chút giận hờn gì 
        làm cho ngươi khổ, hay làm hại nhân vật. Nhưng bần đạo 
        đến đây vì tâm từ bi muốn giáo hoá Long vương đấy thôi, 
        thâm tâm bần Tăng chỉ muốn đưa Ðại vương ra khỏi nơi 
        tội lỗi tà kiến, để đi theo con đường chân chánh là 
        Bát chánh đạo. Vậy Ðại vương không nên phiền trách bần 
        đạo. - Bạch Ðại Ðức, 
        Ngài muốn vậy và làm như thế nầy thật là bất phải, 
        vì Ngài làm khổ tôi. Vì vậy nên tôi cho rằng: Ngài không 
        có hạnh kiểm như chư vị Sa môn khác. Ðại Ðức nghe Long vương 
        nói vậy Ngài liền hiện ra một vị Tỳ khưu, rồi Ngài dạy 
        rằng: Nầy Long vương Nandopananda , ngươi nên biết rằng: Mặc 
        dầu ngươi là Long vương nhưng vẫn còn trong hạng thú; ngươi 
        lại có sự dễ duôi quá đáng, không phân biệt tội phước 
        mà cũng chẳng hiểu tội phước, và lợi ích hiện tại và 
        vị lai gì hết. Ngươi không biết ân đức Tam bảo hơn cả 
        mẹ cha. Vậy ngươi có nên dùng lời đê tiện chưởi rủa 
        mắng nhiếc một bực Ðại Từ Bi như đức Chánh đẳng Chánh 
        giác hay không? Nầy Long vương, tâm ngươi thật là tâm si 
        mê tột độ. Nếu chân của đức Từ Bi mà chạm đến đầu 
        của ngươi là vạn hạnh cho ngươi lắm rồi. Ngươi có biết 
        tất cả chư Thiên, Phạm Thiên đều mong được có dịp để 
        đảnh lễ và cúng dường hay nghe lời giáo hóa của Ngài, cũng 
        mong được cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Ngài nhưng 
        vẫn còn khó có dịp may như vậy thay. Hơn nữa chúng sanh 
        trong tam giới khó mà gặp được đức Ðại Giác, có khi 
        sanh lại nhiều muôn ngàn kiếp cũng chưa có dịp may để gặp 
        bực Ðại Giác, dầu cho dấu chân của Ngài cũng khó trông 
        thấy. Còn ngươi là vị Long vương thuộc về một trong bốn 
        đường ác mà còn là con vật tà kiến lại dám chưởi mắng 
        vị Chánh đẳng Chánh giác, là vị Thiên Nhơn Sư, ngươi dễ 
        duôi khinh thường vị Chánh đẳng Chánh giác, đây cũng do 
        nơi nghiệp chướng của ngươi thật nặng nề. Nói xong Ngài liền đi 
        kinh hành trong lỗ tai mặt của Long vương ra lỗ tai trái. 
        Ði vào lỗ mũi bên nầy ra mũi bên kia, Long vương bị Ngài 
        đi kinh hành như vậy lấy làm khó chịu liền nói: Ðại Ðức, 
        lẽ cố nhiên của một vị Sa môn hằng hành theo chánh pháp 
        là Từ Bi. Còn Ðại Ðức thì không có lòng từ bi thương hại 
        tôi. Ngài đã nói rằng: Ngài chẳng giận hờn phiền hà 
        tôi. Nhưng tại sao Ngài hành hạ tôi như thế nầy. Lời nói 
        và việc làm của Ngài không đi đôi nhau chăng? Nói xong Long 
        vương liền hả miệng ra. Ðại Ðức Mục Kiền 
        Liên nghe vậy nghĩ rằng: Hôm nay ta đã nhứt định giáo 
        hóa Long vương nầy phải bỏ tà kiến, nên Ngài nói: Nầy 
        Long vương, chính ngươi không biết kính trọng các bực Sa 
        môn, Bà la môn là các bực hành chân chánh theo chánh pháp. Sở 
        dĩ bần Tăng phải hành ngươi như thế nầy vì ngươi có 
        tâm rất là hung ác sân hận, làm hại người. Giờ đây ngươi 
        lại còn có ý định nhai ta, nhưng trái lại ta không hề có 
        ý muốn làm hại ngươi. Vậy ngươi nên tỏ ra ngươi là kẻ 
        biết ân người như ta là người đến giáo hóa ngươi. 
        Ngươi nói rằng: Ta hành hạ ngươi, thật ra ta làm cho ngươi 
        khổ như vầy cũng chưa xứng tội ngươi. Ta có ý muốn gieo 
        duyên lành với ngươi, muốn cho ngươi trông thấy lợi ích 
        cao cả trong ngày vị lai. Nói xong, Ðại Ðức liền đi ngay 
        vào miệng Long vương đang hả răng bén như gươm đang sẵn 
        sàng để nhai Ngài. Long vương không thể nào nhai Ngài được 
        và để Ngài tự do đi kinh hành trong miệng, trong bụng. Ðức Thế Tôn biết 
        rõ trong lòng Long vương đã kinh sợ Ðại Ðức lắm rồi. 
        Ngài liền gọi Ðại Ðức rằng: Mục Kiền Liên, con đừng 
        quên rằng: Long vương nầy có rất nhiều thần thông. Ðại Ðức đáp: Bạch 
        đức Thế Tôn, đệ tử đã có công rèn luyện bốn phép 
        nguyện vọng pháp mầu, không thể dễ duôi lười biếng bỏ 
        qua công phu ấy thì đệ tử có sợ gì Long vương 
        Nandopananda nầy. Dầu cho có hằng muôn, ngàn Long vương như 
        thế nầy đệ tử cũng có thể thu phục để bỏ dữ về lành 
        được. Xin đức Ðại Từ Phụ đừng quan tâm chi. Long vương nghĩ: Vị Sa 
        môn nầy đã nói rằng: Không hề có tí giận hờn nào về 
        ta, nếu Ngài không giận hờn gì ta thiệt thì xin Ngài hãy 
        ra; không nên đi kinh hành trong bụng ta như vầy. Chỉ suy nghĩ thầm 
        trong tâm như vậy mà Ngài Ðại Ðức biết rõ, Ngài liền 
        hiện ra đứng ngay trước mặt của Long vương. Long vương thấy Ngài 
        hiện ra trước mặt, liền nghĩ: Vị Sa môn nầy thần thông 
        cao thượng, hơi thở ta có thể tiêu tan một quả núi đá. 
        Vậy sao ta không dùng hơi thở ta mà giết ông ta cho rồi. 
        Nghĩ xong Long vương liền gom hết hơi lại thở một cái thật 
        mạnh ngay vào người của Ngài Ðại Ðức, sức gió ấy độc 
        và mạnh hơn cả bão tố, nếu không do nơi oai đức của Ngài 
        thì núi rừng nơi ấy đều tiêu hoại hết. Vì biết tâm 
        Long vương hung ác nên khi ấy Ngài Ðại Ðức đã dùng thần 
        thông chế ngự được hơi độc ấy, mặc dầu chéo y của 
        Ngài cũng chẳng hề rung động. Long vương thấy hơi thở 
        của mình vô cùng dũng mãnh mà không làm gì Ngài Ðại Ðức 
        được thì lấy làm kinh sợ và nghĩ: Thật thầy Sa môn nầy 
        thần thông vô lượng vô biên; nếu ta cố tranh tài với 
        Ngài thì chắc lấy tai hại cho mình thôi. Vậy thượng kế 
        là trốn càng mau càng hay. Nghĩ xong liền bỏ chạy thật lẹ. Ðại Ðức thấy Long vương 
        tháo ra bỏ chạy thật lẹ, Ngài liền biến ra một giống 
        chim rất là hung dữ thường bắt rồng ăn đó là chim đại 
        bàng Kim sí điểu; chim nầy to lớn khác thường, một cái 
        đập cánh bay xa hằng mấy chục do tuần. Tiếng đập cánh 
        của đại bàng Kim sí điểu như sấm nổ lưng trời làm cho 
        Long vương kinh sợ không cùng liền thu hình nhỏ lại để 
        chun vào kẹt đá cho dễ nhưng đại bàng khôn hơn vỗ cánh 
        quạt tảng đá bay ra rất xa. Làm Long vương không biết trốn 
        tránh nơi nào; liền hiện lại nguyên hình, rồi hoá ra một 
        thanh niên tuấn tú, quì xuống đảnh lễ Ngài Ðại Ðức 
        van xin Ngài rằng: Xin Ðại Ðức mở lòng từ bi tha tội lỗi; 
        Tôi xin phát nguyện qui y hướng thiện. Tôi là kẻ tà kiến 
        không hiểu Ngài là bực Thánh nhơn. Xin Ngài thương hại tôi 
        như cha mẹ thương con còn trẻ dại lầm lỗi. Xin Ngài tha 
        thứ cho. Ðại Ðức liền đưa 
        Long vương đến nơi Phật ngự. Long vương thấy đức Thế 
        Tôn cùng chư Thánh Tăng ngự trên hư không rất lấy làm 
        kinh sợ, đảnh lễ xong rồi bạch Phật rằng: Bạch đức 
        đại Từ Bi Ngài là đấng Tế độ chúng sanh. Tôi là kẻ 
        tà kiến hung ác lầm đường tội ác không hiểu đâu chánh 
        đâu tà. Hiện giờ tâm tôi đã giác ngộ trông thấy rõ thiện, 
        ác. Từ hôm nay tôi xin cúng dường thân nầy đến Tam bảo. Ðức Thế Tôn liền 
        truyền Tam qui và Ngũ giới cho Long vương, và dạy nên hành 
        thêm thiện pháp, giúp đỡ quyến thuộc, nhẫn nại từ bi 
        v.v... Rồi đức Thế Tôn mới 
        dẫn chư Tăng đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Ðộc thọ thực. 
        Sau khi thọ thực xong đức Thế Tôn thuật lại chuyện Ðại 
        Ðức Mục Kiền Liên dùng thần thông thu phục Long vương 
        Nandopananda. Trưởng giả nghe câu chuyện ấy lấy làm trong sạch 
        với chư Tăng; ông xin cúng dường bảy ngày liền cho năm 
        trăm vị Thánh Tăng. Khi ấy đức Thế Tôn 
        mới dạy: Trong thế gian nầy không có vị đệ tử nào có 
        thần thông bằng Mục Kiền Liên. Kể từ ngày ấy đi Ðại 
        Ðức được liệt vào hàng đại đệ tử giỏi nhứt về 
        thần thông. -ooOoo- Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế |