Chương 
        III Đệ Tam Yếu 
        Niệm Phật Phải Dứt Trừ Lòng Nghi 
        
        Khải Đề: 
        Niềm tin là bước đạo 
        sơ nguyên, 
        Mà nỗi trần ai lắm sự duyên! 
        Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh 
        Lại nghe mai đẹp mến non Thiền. 
        Bồ Đề gieo khéo nguyền viên giác 
        Không hữu còn thương chấp nhị biên 
        Tín đức ví bền như hạnh nguyện 
        Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây Thiên. 
        Mục 
        A. Lòng Tin, Cửa Vào Tịnh Độ 
        Tiết 15 Sự 
        Trọng Yếu Của Lòng Tin 
        Chúng sanh nơi thế 
        giới Ta Bà này, nhân vì ở vào đời ác năm trược, phiền 
        não nặng nhiều, hoàn cảnh bên ngoài ác liệt, sự tu hành 
        không dễ gì tiến bộ. Lại mỗi khi chuyển sanh thường 
        bị lạc mê, nên sự chứng đạt rất khó. Tiên đức hằng 
        than: "Số xuất gia nhiều như lông trâu, nhưng người đắc 
        đạo như sừng thỏ." (Xuất gia như ngưu mao, đắc đạo 
        như thố giác). Lời này có thể hình dung cho điều vừa nói 
        trên. Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là bậc đã kinh nghiệm 
        qua con đường thành Phật, biết rõ lối nào dễ bước, 
        nẻo nào khó đi. Vì thế Ngài mới vận lòng bi trí, đặc 
        biệt mở ra pháp môn Niệm Phật. Người tu môn này tuy chưa 
        dứt phiền não, mà có thể đới nghiệp vãng sanh. Khi về 
        đến Tây Phương rồi, nhờ nhiều thắng duyên của cảnh 
        ấy, sự tiến tu chứng đạo rất dễ dàng như cầm lấy món 
        đồ trước mắt. 
        Đức Thế Tôn đã có 
        lòng đại bi như thế, lẽ ra mọi người đều được đắc 
        độ với pháp môn này, nhưng kẻ vãng sanh lại có phần ít 
        là tại sao? Đó là bởi chúng sanh trí kém nghiệp nặng, 
        hoặc nghi lời Phật nói không chịu tu, hoặc tuy tu mà lòng 
        tín nguyện không chí thiết, hoặc tuy niệm Phật mà chỗ 
        dụng công không đúng với lời Phật dạy. Vì thế tuy có 
        tu hành vẫn không đem đến thành quả. Đó là lỗi ở người, 
        chớ không phải ở pháp. 
        * Kinh Hoa Nghiêm nói: 
        "Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của 
        tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng 
        tin hay tựu quả Bồ Đề của Phật." Thế nên đối 
        với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu. Nếu 
        mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị 
        sụp đổ, mà tất cả công hạnh giải thoát cũng không thành. 
        Đức tin này không phải mê tín, chính là lòng tin nương 
        theo trí huệ, là sự đặt trọn vẹn niềm tin vào lời 
        của Phật, Bồ Tát và chư vị Tổ Sư đã dạy trong kinh điển. 
        Tạo sao đã nương theo trí huệ lại còn phải đặt trọn 
        vẹn niềm tin vào lời dạy của những bậc ấy? - Bởi môn 
        Tịnh Độ thuộc pháp Đại Thừa, đã là đại pháp tất nói 
        nhiều cảnh giới siêu việt khác thường, nên có những điều 
        mà trí huệ phàm phu không thể suy lường nổi. Khi xưa trên 
        hội Linh Sơn, đức Thế Tôn nói Kinh Pháp Hoa, có năm ngàn 
        bậc Đại Đức Thanh Văn, đã chứng từ sơ quả Tu Đà Hoàn 
        đến đệ tứ quả A La Hán, không tin tưởng lui ra khỏi Pháp 
        tịch. Đối với cảnh chính đức Phật còn tại thế thân 
        nói pháp, với các vị Thanh Văn thánh giả trí huệ đã siêu 
        thường, mà còn có sự không tin, thì ta thấy pháp Đại 
        Thừa chẳng phải dễ tin hiểu. Cho nên trong kinh Đại 
        Thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ 
        nhiều kiến chấp, thiếu lòng tin nghe, vì e họ sinh lòng 
        khinh báng mà mang tội. Đến khi Đại Thừa pháp được lan 
        truyền rộng, các vị cổ đức khuyên người học Phật khi 
        nghiên cứu về loại kinh này, chỗ nào dùng trí huệ hiểu 
        được cố nhiên là tốt, chỗ nào suy gẫm không thấu 
        triệt vẫn đặt trọn vẹn niềm tin nơi lời của đức 
        Thế Tôn. Như thế mới tránh khỏi tội lỗi khinh báng đại 
        pháp, và không mất phần lợi ích. 
        Trong Kinh Phật 
        Thuyết A Di Đà, đức Bổn Sư đã đôi ba phen nhắc nhở 
        về lòng tin, như các đoạn: "Cho nên Xá Lợi Phất! Các 
        ông phải nên tin nhận lời ta và lời nói của chư 
        Phật!... Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay khen ngợi công đức 
        không thể nghĩ bàn của chư Phật. Các đức Phật kia cũng 
        khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta, mà nói 
        lời như sau: 'Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm được việc rất 
        khó khăn ít có! Ngài đã có thể ở trong đời ác năm trược 
        là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng 
        sanh trược, mạng trược của quốc độ Ta Bà, chứng quả 
        A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì các chúng sanh nói ra 
        pháp môn mà tất cả thế gian đều khó tin ấy.' - Xá Lợi 
        Phất! Nên biết ta ở trong đời ác năm trược làm việc khó 
        khăn sau đây, là đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, 
        vì tất cả thế gian nói ra pháp khó tin này, thật là điều 
        rất khó!" 
        Đức Thế Tôn trí 
        huệ nhiệm mầu, mà đã nói những lời ấy, thì biết pháp 
        Tịnh Độ thật khó tin, và lòng tin là điều rất quan hệ! 
        Nhiều vị cổ đức cũng bảo: "Pháp môn Tịnh Độ 
        rất khó thâm tín, duy hạng phàm phu đã gieo căn lành niệm 
        Phật và bậc Đăng Địa Bồ Tát mới tin nhận được mà 
        thôi. Ngoài ra những chúng sanh khác cho đến hàng Nhị Thừa 
        hoặc quyền vị Bồ Tát đôi khi cũng không tin nhận pháp môn 
        này." Khi xem những lời như trên, ban sơ bút giả cũng 
        lấy làm lạ tự hỏi: "Tại sao đệ tử Phật lại không 
        tin lời của Phật? Hàng Nhị Thừa và quyền vị Bồ Tát trí 
        huệ siêu việt, chỗ tu chứng đã cao, sao lại không tin pháp 
        môn Tịnh Độ?" Nhưng về sau, khi thấy trong hàng xuất 
        gia có những vị giảng giáo lý tinh thông, song lại không 
        tin có cõi Cực Lạc và bài bác sự niệm Phật vãng sanh, 
        chừng đó mới công nhận lời kia là đúng. Nhân đây lại 
        tìm trong kinh, thấy nói đạo nhãn của bậc A La Hán và Bích 
        Chi Phật chỉ ở trong phạm vi tam thiên đại thiên thế 
        giới, gồm một ngàn triệu thái dương hệ. Mà môn Tịnh Độ 
        thuộc về giới ngoại đại pháp, cõi Cực Lạc ở ngoài đại 
        thiên thế giới, như vậy làm sao hàng cực quả Nhị Thừa 
        có thể thấy biết tin nhận được? Còn hàng quyền vị 
        Bồ Tát chưa chứng vào cảnh giới đại phương đẳng, chưa 
        thấy được mười phương Tịnh Độ, nên có vị không tin 
        nhận lẽ dĩ nhiên. 
        * Điểm căn yếu 
        của môn Niệm Phật là: Tín, Nguyện, Hạnh. Ba điều này tương 
        quan với nhau như cái đảnh có ba chân, thiếu một tất 
        phải sụp đổ. Trong đây tín lại là nền tảng, nếu 
        thiếu nhu yếu này, thì không thể khởi sanh Nguyện và phát 
        động Hạnh tu trì cho thiết thật. Riêng về điểm Tín, đại 
        khái có ba điều: Trước tiên, phải tin lời đức Thế Tôn 
        nói, nhận chắc cõi Cực Lạc từ nhơn vật đến cảnh 
        giới đều có thật. Kế đó, phải tin đức A Di Đà không 
        có lời nguyện dối, chúng sanh dù nghiệp nặng, nếu niệm 
        đến danh hiệu Ngài, quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng 
        sanh. Thứ ba, phải tin ta niệm Phật, nguyện về cõi Phật, 
        quyết sẽ được thấy Phật được vãng sanh, nhân nào 
        quả ấy không thể sai lạc. Ba điều này chỉ là khái 
        yếu, nếu suy diễn ra rộng, trong ấy gồm có sáu phần: tin 
        mình, tin Phật, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý. Điều 
        thứ nhất bao gồm tin lời Phật và tin sự, lý Tịnh Độ 
        đều có thật. Điều thứ hai bao gồm tin đại nguyện của 
        Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài. Điều thứ 
        ba bao gồm tin bản tâm mình, nguyện lực mình, và nhân cùng 
        quả của công hạnh niệm Phật. Nhân chắc ba điều vừa nói, 
        mới gọi là tin sâu. Lại tin sâu không phải thuộc lời nói 
        bên ngoài hay ý nghĩa phân biệt mà là sự thể nhận, là tâm 
        trong sạch không còn một điểm nghi ngờ. Cho nên khi xưa ông 
        Vương Trọng Hồi hỏi một vị thiện trí thức: "Làm 
        sao quyết chắc được sanh về Cực Lạc?" Vị ấy đáp: 
        "Chỉ tin nhận sâu, là chắc chắn được vãng 
        sanh." Ông ghi nhận và ngộ giải lời nói ấy, quả nhiên 
        về sau được toại thành như ý nguyện. 
        Sự tin sâu có ích 
        lợi là như thế. 
        Tiết 16 Những Điều 
        Làm Giảm Phá Niềm Tin 
        Trong giới tu hành, có 
        những kẻ cũng khuyên dạy niệm Phật, song lại giáo hóa 
        theo cách thức của ngoại đạo. Lại có những vị vì chưa 
        thông hiểu hay nhận thức sai lạc về Tịnh Độ, nên sanh 
        ra bài báng. Đại khái như bảo: - Tịnh Độ là môn hành trì 
        của ông già bà cả, hạng căn cơ thấp kém - tu Tịnh Độ 
        là ỷ lại yếu hèn, không thể tự lực giải thoát nổi, 
        phải nhờ cậy vào tha lực - hay niệm Phật là pháp hủ 
        bại chờ chết, chỉ độ tử chớ không độ sanh. Những 
        sự lạm dụng và hiểu lầm trên đây, có mối hại dẫn 
        dắt quần chúng theo đường tà và khiến thối chuyển cùng 
        hủy hoại niềm tin của người niệm Phật, nên cần phải 
        giải thích để làm sáng tỏ pháp môn Tịnh Độ. Xin để 
        qua những người không tin nhân quả, Phật pháp, mà chỉ nhìn 
        xét những vị có hình thức dính dáng với đạo Phật. 
        * Có những người hình 
        thức là tăng ni, cũng ở chùa hay am cốc, nhưng không học 
        hiểu Phật pháp, chỉ tu luyện theo bàng môn. Họ là những 
        kẻ mang chiêu bài Phật Giáo bán tạp hóa ngoại đạo. 
        Những người này có đồ chúng của họ, đều bí mật 
        truyền đạo cho nhau. Nhiều người tuy nói tham thiền, song 
        kỳ thật chuyên luyện điển, hoàn toàn không hiểu Thiền là 
        gì. Đối với môn Tịnh Độ, họ bảo phải tưởng câu 
        niệm Phật từ đơn điền thẳng tắt ra sau lưng, đi dọc lên 
        theo xương sống rồi vòng xuống trở lại đơn điền, gọi 
        là chuyển pháp luân. Đó là cách luyện khai thông hai mạch 
        Nhâm, Đốc, theo ngoại phái, không phải của đạo Phật. Có 
        kẻ dạy phải nín thở niệm Phật luôn một hơi, rồi 
        nuốt ực nước bọt một cái, gọi là để củng cố chân 
        nguyên. Có kẻ đem sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật bố khắp 
        châu thân. Có người lại giải thích Kinh A Di Đà theo 
        ngoại thuyết như: Ao sen thất bảo là bao tử, bảy hàng cây 
        báu là xương sườn, bát công đức thủy là máu, tủy, và 
        các thứ nước không sạch trong thân... Những kẻ đã mượn 
        Phật pháp để tu theo ngoại đạo này đâu phải là chánh tín, 
        làm sao được vãng sanh giải thoát? 
        * Ngoài những kẻ 
        ngoại đạo nương bóng Phật pháp, còn lại là những vị 
        đệ tử chánh thức của Phật. Trong đây, có nhiều vị tuy 
        tin hiểu pháp Niệm Phật, công nhận lời Phật dạy về môn 
        này, song Tịnh Độ không phải là tâm niệm sở thích của 
        họ, nên họ tu theo các môn khác. Những người này đều là 
        những bậc tu hành chân chánh trong Phật pháp. Song cũng có 
        một ít người vì học theo giáo lý của các tông phái khác, 
        không hiểu sâu về Tịnh Độ, lại do tư tưởng môn đình, 
        chẳng những không tin Tịnh Độ Tông còn sanh lòng hủy báng. 
        Lệ như có người 
        theo Thiền Tông, mới tu học Thiền chưa bao lâu, đã phản 
        đối niệm Phật. Họ đâu biết rằng nhiều bậc đại đức 
        cao tăng khi xưa như các Ngài: Vĩnh Minh Thiền sư, Tử Tâm Tân 
        Thiền sư, Thiên Y Hoài thiền sư, Viên Chiếu Bản thiền sư, 
        Từ Thọ Thâm thiền sư, Nam Nhạc Tư thiền sư, Pháp Chiếu 
        thiền sư, Tịnh Yếu thiền sư, Tịnh Từ Đại Thông thiền 
        sư, Thiên Thai Hoài Ngọc thiền sư, Đạo Trân thiền sư, Đạo 
        Xước thiền sư, Tỳ Lăng Pháp Chân thiền sư, Cô Tô Thủ 
        Nạp thiền sư, Bắc Nhàn Giản thiền sư, Thiên Mục Lễ 
        thiền sư v.v... là những vị siêu xuất bên Thiền Tông, sau 
        khi tham ngộ được minh tâm kiến tánh, đều qui hướng về 
        Tịnh Độ. Những vị này đối với Thiền, họ là bậc đại 
        tri thức hoằng hóa về tông môn, đối với Tịnh, họ là 
        bậc danh đức khuyên dạy niệm Phật. Điều này có thể 
        chứng minh Tịnh Độ và Thiền đều không chướng ngại 
        nhau, hà tất phải đem lòng hủy báng? Lại như một vị cao 
        tăng mới thị tịch gần đây là Hư Vân thiền sư, ai cũng 
        nhận là bậc siêu ngộ; nhưng khi ở Thiền Đường thì Ngài 
        giảng về đạo lý tham thiền, ở Niệm Phật Đường Ngài 
        lại khuyên dạy về niệm Phật. Với môn Tịnh Độ chẳng 
        những Ngài không phản đối mà lại còn tán dương. Vậy 
        thử hỏi những người vừa mới tu Thiền đã vội bác 
        niệm Phật, sự học hiểu và công phu hành trì có bằng các 
        bậc cao đức trên đây chăng? 
        Lại như những người 
        theo Duy Thức Tông, mới học Duy Thức chưa bao lâu, đã 
        phản đối niệm Phật, họ không biết rằng vị đệ nhất 
        Tổ Sư khai sáng về Duy Thức Tông ở Trung Hoa là ngài 
        Huyền Trang, mà hiện nay họ đang thừa học, đã không 
        phản đối, lại còn truyền dương môn niệm Phật. Bằng 
        chứng là khi Ngài thỉnh kinh ở „n Độ về, có đem theo 
        quyển Kinh A Di Đà bằng Phạn văn, dịch thành tân bản, 
        nhan đề là Xưng Tán Tịnh Độ Nhiếp Thọ Kinh. Cho đến 
        vị Tổ thứ hai bên Tông Duy Thức là Khuy Cơ đại sư cũng 
        trứ tác thành một quyển A Di Đà Kinh Sớ, và ba quyển A Di 
        Đà Kinh Thông Tán Sớ. Và Thái Hư đại sư, một vị cao tăng 
        cận đại ở Trung Hoa, mọi người đều công nhận Ngài là 
        bậc thạc học trung hưng về Duy Thức Tông. Nhưng khi có người 
        tu Tịnh Độ thỉnh đại sư chỉ dạy thì Ngài cũng giảng 
        thuyết về niệm Phật. Những lời khai thị về Tịnh Độ 
        Tông của Ngài có đến bảy thiên, mà hiện nay chùa Thiện 
        Đạo ở Đài Bắc còn ấn bản lưu hành. Thế thì biết 
        những bậc cao đức bên Duy Thức Tông chẳng những không bài 
        bác Tịnh Độ, mà trái lại còn hoằng hóa tán dương. Xin 
        thử hỏi những người học Duy Thức chưa bao lâu mà phản 
        đối Tịnh Độ, sự học vấn tu trì có bằng các bậc 
        tiền bối đó chăng? 
        Bước đầu vào 
        cửa Tịnh Độ, cần có sự tin hiểu chính xác, nếu thiếu 
        đức tin làm sao phát nguyện và hành trì? Như trên thử xét 
        qua, ta thấy đại lược có ba hạng người gây sự giảm phá 
        cho giáo thuyết Tịnh Độ. Một là hạng người thế gian không 
        tin nhân quả, Phật pháp, nên hủy báng niệm Phật. Hai là 
        hạng tu theo bàng môn lạm dụng hình thức Phật pháp, chỉ 
        dạy niệm Phật theo lối sai lầm. Ba là những người trong 
        chánh pháp, sự nhận thức đối với môn Tịnh Độ còn nông 
        cạn đơn sơ, nên xem thường và bài báng. Mấy điều kiểm 
        duyệt như trên, người niệm Phật cần phải biết qua, 
        nhận định đâu là tà chánh ngụy chân, để giữ vững lòng 
        tin trên bước đường tu tiến. 
        Mục 
        B. Giải Thích Các Điều Nghi 
        Tiết 17 Những 
        Mối Nghi Thông Thường Về Tịnh Độ 
        Các điều không tin, 
        lạm dụng và kém nhận thức như trên, còn thuộc về phương 
        diện đứng bên ngoài mà nhìn vào cửa Tịnh Độ. Nơi đây 
        xin đề cập đến những kẻ thật ý muốn tu, hoặc đã 
        nhập môn. Có nhiều người thật tâm muốn niệm Phật, 
        hoặc đã từng hành trì rồi, nhưng vì sự học hiểu về 
        giáo lý còn kém, nên khi nghe kẻ khác biện luận bài bác, 
        liền khởi lòng nghi. Những mối nghi đó rất nhiều, nay 
        chỉ nêu ra ba điểm phổ thông mà lắm người thường vướng 
        phải. Mấy điểm ấy đại khái như: nghi Cực Lạc là 
        quyền thuyết, nghi pháp môn tu chứng quá dễ, nghi mình kém 
        duyên phước khó vãng sanh. Xin giải thích đại lược như 
        sau: 
        * 1- Có kẻ thấy 
        trong kinh điển tả cảnh Tịnh Độ quá trang nghiêm, bỗng 
        sanh niệm nghi rằng: - Cõi Cực Lạc là quyền tiện của 
        Phật nói ra để cho người hâm mộ gắng tu làm lành lánh 
        dữ, đại khái như thuyết thiên đường, hỏa ngục hay 
        cảnh Bồng Lai, để thưởng thiện phạt ác của các giáo 
        phái khác. Làm gì có một thế giới từ đất đai, cây 
        cối, lầu các đều bằng thất bảo như: vàng bạc, lưu ly, 
        pha lê, xa cừ, xích châu, mã não hợp thành? Lại còn thân 
        người bằng chất ngọc nhuyễn kim cương, hóa sanh từ hoa 
        sen không có già bịnh chết, các thức ăn mặc trân quý đều 
        tùy ý niệm hiện ra? Như thế toàn là những chuyện đâu đâu, 
        xa với thật tế hiện thấy trước mắt, làm sao tin được? 
        - Để giải thích điều 
        này, xin đáp: 
        - Những ý nghĩ đó 
        đều còn cuộc hạn theo sự nghe thấy của tai mắt phàm tình. 
        Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường 
        cảnh thánh. Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta, khi cụ 
        Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp trở về thuật lại, nói bên 
        ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa kéo người 
        bơi mà tự chạy. Cụ có vịnh hai câu thi: 
        Bá ban xảo kế tề 
        thiên địa. 
        Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền! 
        Hai câu này ngụ ý 
        khen người Pháp trăm việc hay khéo sánh bằng trời đất, 
        duy có sự sống chết là còn thuộc quyền tạo hóa định 
        đoạt mà thôi! Vua Tự Đức và triều thần nghe nói thế đều 
        không tin. Đến như ông Nguyễn Tri Phương là chỗ bạn thân, 
        cũng mĩm cười cho là cụ Phan đi xa về nói khoác. Thử 
        hỏi: - Vua Tự Đức cùng triều thần đều tự nhận mình là 
        người học thức, cho sự việc đó tai không nghe, mắt không 
        thấy, vượt quá sức tưởng tượng, nên không tin. Nhưng các 
        điều ấy quả thật không có chăng? Lấy một việc nhỏ này 
        suy ra, ta thấy nếu đem những định kiến theo tai nghe mắt 
        thấy và sự tưởng nghĩ phàm thường mà đo lường cảnh 
        thánh đều thành sai lạc. Hơn nữa, nếu không có Phật A Di 
        Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp 
        chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, 
        cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực 
        Lạc là hư huyền, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong 
        lúc hiện tiền bỗng được tâm khai thấy rõ ràng cảnh Tây 
        Phương trang nghiêm y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật 
        hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy 
        trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm 
        chỗ tựa nương? Cho nên do theo Thánh Ngôn Lượng và Hiện 
        Chứng Lượng (cách suy lường dựa theo lời Phật nói và 
        sự hiện chứng của người tu), ta phải tin rằng những 
        sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật. 
        * 2- Có người nghe nói 
        pháp môn Tịnh Độ hành trì giản dị mà được kết quả 
        rất mau chóng cao siêu, thì nghi ngờ rằng: - Đâu lại có phương 
        pháp thành Phật quá dễ dàng như thế? Bởi đường lối thường 
        thức của các môn tu là Chỉ và Quán. Khi hạ thủ dụng công, 
        trước tu Chỉ, kế tiếp Quán; hoặc trước tu Quán, kế 
        tiếp Chỉ. Lần lần tiến đến "trong Quán có Chỉ, 
        trong Chỉ có Quán." Khi tới trình độ "Chỉ Quán không 
        hai, định huệ tịch chiếu" mới gọi là bước vào 
        cảnh giới tự tâm. Rồi từ đó về sau, nếu mỗi đời đều 
        tiếp tục tinh tấn tu hành, theo như trong kinh luận nói, 
        phải trải qua một muôn đại kiếp mới lên ngôi Bất 
        Thối Chuyển. Tại sao chỉ niệm một câu Phật hiệu, ngay 
        trong đời này lại được vãng sanh lên ngôi Bất Thối, há 
        chẳng phải là quá dễ dàng ư? 
        Đề cập đến nghi 
        vấn nầy, chúng ta nên biết tu các pháp môn khác chỉ hoàn 
        toàn nương nơi tự lực, cho nên phải khó. Riêng đường 
        lối Tịnh Độ có hai năng lực, là tự tâm lực và Phật 
        tiếp dẫn lực, nên sự thành công rất dễ. Ví như một người 
        chân yếu, muốn tự mình lên tận đỉnh núi cao là điều 
        rất khó. Nhưng nếu kẻ ấy được một vị đại lực sĩ 
        khoác cánh tay phăng phăng đưa bước tiến lên, thì kết 
        quả đăng phong nào có khó chi! Về môn Tịnh Độ cũng 
        thế, khi ta chuyên tâm niệm Phật tức là lúc tâm lực phát 
        triển. Niệm đến một lòng không loạn, là lúc tâm lực hoàn 
        toàn hiện bày. Đang khi ấy nghiệp lực bị hàng phục không 
        còn làm chướng ngại, lại được thêm Phật lực tiếp 
        dẫn nên tuy nghiệp chưa trừ dứt, mà được vãng sanh. Khi 
        sanh về Tây Phương rồi, sống lâu vô lượng vô biên a tăng 
        kỳ kiếp, sự không thối chuyển cho đến khi thành Phật là 
        một điều hiển nhiên dễ hiểu. 
        * 3- Có kẻ lại nghi 
        rằng: Cảnh Cực Lạc mầu đẹp trang nghiêm vô lượng, 
        chẳng phải dùng ít nhân duyên căn lành phước đức mà 
        được sanh về. Nhìn gẫm lại mình, căn lành phước đức 
        còn sơ bạc, nghiệp chướng lại nhiều, mong gì đời này 
        được duyên tốt vãng sanh? 
        - Xin kính khuyên quý 
        vị ngàn muôn lần chớ nên nghi như thế. Bởi khi các vị 
        lần chuỗi niệm Phật được, là căn lành phước đức đã 
        sâu dày rồi. Thử nghĩ lại xem, trên thế gian này biết bao 
        nhiêu kẻ không nghe được danh hiệu Phật? Biết bao nhiêu 
        người tuy nghe hồng danh đức A Di Đà, nhưng mãi đoạt 
        lợi tranh danh, đeo đuổi theo các điều trần nhiễm, không 
        chịu niệm Phật? Nay các vị đã được nghe Phật pháp và 
        chí tâm niệm Phật, há không phải là có căn lành phước 
        đức lớn đó ư? Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo Di 
        Lặc Bồ Tát: "Nếu có chúng sanh nào nghe danh hiệu đức 
        Phật kia, vui mừng khấp khởi, cho đến một niệm, nên 
        biết kẻ ấy được lợi lớn, đã đầy đủ phước đức 
        vô thượng." Lời này đủ chứng minh: biết niệm Phật 
        tức là đã có nhiều phước đức căn lành rồi. Trong 
        Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có dẫn sự tích những người 
        phạm tội cực ác như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy 
        Cung và loài súc sanh như chim bát kha, anh võ, chí tâm niệm 
        Phật đều được vãng sanh. Phước đức căn lành của quý 
        vị đã vượt xa hơn những người ác và loại súc sanh kia. 
        Vậy cần chi phải e ngại là ngay trong đời này không được 
        sanh về Cực Lạc! 
        Tiết 18 Những 
        Mối Nghi Thiệp Lý 
        Ngoài ba điểm nghi 
        phổ thông như trên, còn những mối nghi về Tịnh Độ quan 
        thiệp tới đạo lý từ cạn đến sâu. Các điều nghi này 
        rất nhiều, nay chỉ xin nêu ra các chi tiết quan trọng để 
        giải thích, thể theo lối vấn đáp như sau: 
        1) Hỏi: Môn Tịnh Độ 
        là pháp sơ cơ, chỉ để cho kẻ ngu dốt, căn trí thấp kém 
        hành trì. Những người căn tánh cao phải tu Thiền hay Duy 
        Thức mới hợp lý. Vả lại bậc trượng phu phải có chí hùng 
        cường tự lập, nên căn cứ nơi sức mình mà giải thoát; 
        nếu cầu mong tha lực, chẳng tỏ ra hèn yếu lắm ư? 
        - Đáp: Với lời 
        hỏi này, trước tiên xin nói về căn cơ, sau sẽ trả lời 
        đến yếu tố tự lực tha lực. 
        * Pháp môn Tịnh Độ 
        không phải chỉ để cho bậc trung, hạ căn, mà còn thâu 
        nhiếp cả bậc thượng thượng căn. Bậc trung, hạ căn 
        niệm Phật sẽ dứt được phiền não nghiệp chướng, phát 
        sanh phước đức trí huệ, lần lần đi đến định cảnh, 
        tùy công phu thấp cao mà vãng sanh về chín phẩm sen nơi 
        Cực Lạc. Bậc thượng căn vừa đề khởi câu niệm Phật, 
        liền thâm nhập vào cảnh giới định huệ, đi đứng nằm 
        ngồi đều ở trong Niệm Phật Tam Muội, khi lâm chung sanh 
        về thượng thượng phẩm ở Liên Bang. Trong hàng tiên đức 
        đã có vị đi vào cảnh giới này, và trình thuật với câu: 
        Niết khởi sổ châu 
        thằng sách đoạn 
        Thể hương phạn thục dĩ đa thời 
        Ý nói: 
        Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt, 
        Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu. 
        Cho nên, câu niệm 
        Phật thâu nhiếp hết ba căn, với người cao nó thành cao, 
        với người thấp nó thành thấp. 
        Các bậc đại tri 
        thức trong Phật Giáo thường phê luận: "Pháp môn Niệm 
        Phật gồm nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, Mật." Tại sao 
        pháp Niệm Phật lại gồm nhiếp cả bốn môn này? - Sở dĩ 
        có điều ấy, bởi khi niệm Phật dứt trừ cả vọng tưởng 
        chấp trước, đó là Thiền. Sáu chữ hồng danh bao gồm vô 
        lượng nghĩa mầu, vô lượng nghĩa đều ẩn một và xuất 
        hiện từ nơi đấy, đó là Giáo. Niệm Phật đến cảnh 
        giới sâu, ba nghiệp đều trong sạch vắng lặng, đó là 
        Luật. Câu niệm Phật có công năng như một câu thần chú, 
        hay giải oan, trừ nghiệp, mãn nguyện, hàng ma đó là Mật. 
        Như Liên Trì đại sư, trong một năm nắng hạn lâu ngày, 
        thay vì niệm chú đảo võ, Ngài chỉ đi ngoài đồng gõ mõ 
        niệm Phật, đi đến đâu trời mưa đến đó. Và Viên 
        Chiếu Bản thiền sư, thay vì tham thiền, Ngài chỉ dùng sáu 
        chữ hồng danh mà được ngộ tánh bản lai, chứng vào 
        Niệm Phật Tam Muội. Cứ như đây suy nghiệm rộng sâu thêm, 
        câu niệm Phật cũng gồm thâu cả năm thời tám giáo, 
        nhiếp luôn sáu pháp Ba La Mật, như Triệt Ngộ đại sư đã 
        trình bày trong thiên Niệm Phật Bách Kệ. 
        Trong kinh lại nói: 
        "Chí thành xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được 
        tiêu tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử." Người 
        niệm Phật nếu hằng giữ định tâm, tất sẽ phát huệ đồng 
        như lối tu của các pháp môn khác. Hơn nữa, trên định tâm 
        mà xưng danh hiệu Phật A Di Đà, thì sự tiêu nghiệp chướng 
        sanh phước huệ càng cao thắng chóng mau. Vì thế, Liên Trì 
        đại sư đã khen pháp Niệm Phật là: đại thiền định, đại 
        trí huệ, đại phước đức, đại thánh hiền. Theo Quán 
        Kinh: người tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng 
        địa ngục hiện, nếu chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà 
        cho đến mười niệm, thì Ngài liền hiện thân tiếp dẫn 
        sanh về Cực Lạc. Từ một kẻ cực ác, chỉ dùng mười 
        niệm mà được vãng sanh, lên ngay ngôi Bất Thối Chuyển 
        thật là điều rất hy hữu. „n Quang đại sư đã khen: 
        "Pháp Niệm Phật bậc cực cao niệm đến một lòng không 
        loạn, chứng vào Tam Muội, kẻ cực thấp chỉ dùng mười 
        niệm thành công, là điểm đặc sắc mà chưa thấy pháp môn 
        nào có." 
        * Về vấn đề tự 
        lực tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh Độ chỉ hoàn toàn nương 
        nơi tha lực là lầm. Người niệm Phật phải đem hết tự 
        lực dứt trừ phiền não, trì niệm cho đến cảnh giới tâm 
        mình, và tâm Phật tương ứng. Từ cảnh giới đó, hiện 
        thời hành giả được Phật phóng quang thầm nhiếp thọ, 
        khi mạng chung sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Sự tiếp 
        dẫn mới là yếu tố chánh của tha lực, vì thế giới 
        Cực Lạc cách xa cõi Ta Bà này đến mười muôn ức Phật 
        độ, còn không phải sức thần thông đạo lực tầm thường 
        có thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần 
        phải nhờ tha lực tức thần lực của Phật hoặc chư thánh 
        tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình biết gắng hết 
        sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý. Nếu trên 
        sự chuyên học ấy, lại được vị giáo sư giỏi kèm theo 
        chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm, kết quả thi đỗ 
        sẽ là phần bảo đảm. Trên tự lực của hành giả, thêm 
        tha lực của Phật gia bị tiếp dẫn cũng lại như thế. 
        Vậy sự kiện chính mình đã gắng hết sức để tu, lại 
        cầu thêm tha lực cho được kết quả mau chóng, có phải là 
        một điều hèn yếu lỗi lầm chăng? Sự cao diệu của môn 
        Tịnh Độ, chính các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ 
        Hiền, Mã Minh, Long Thọ; các vị Tổ Sư như Vĩnh Minh, Trí 
        Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn túc 
        ở các tông, đều khuyến nguyện vãng sanh. Chê Niệm Phật 
        là thấp kém chỉ để cho bậc hạ căn tu hành tức là chê 
        chư Bồ Tát, Tổ Sư và các vị cao đức đã nói trên. Bảo 
        niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là chưa 
        hiểu biết chi về môn Tịnh Độ. 
        2) Hỏi: Cổ thi có câu: 
        Thân khinh luyện đắc 
        đồng tiên hạc 
        Cực Lạc hoành hoành nhứt trực phi. 
        Ý nói: 
        Luyện thân nhẹ được đồng tiên hạc, 
        Cực Lạc bay ngang thẳng trở về! 
        Thế thì ta cứ tham 
        thiền, chờ khi chứng được thần thông, chừng ấy có 
        thể đi về Cực Lạc, hoặc tùy ý sang các cõi Tịnh Độ 
        khác. Như vậy, hà tất phải khăn khăn niệm Phật cầu về 
        Cực Lạc làm chi? 
        - Đáp: Hai câu thi trên, 
        ý nói cảnh giới cảm thông từ hành giả dung hòa với 
        thần lực nhiếp thọ của Phật, chớ không phải chỉ cho 
        cảnh giới thần thông. Xin tuần tự giải thích hai điều 
        ấy, trước tiên hãy nói về cảnh giới thần thông. 
        * Theo trong kinh, đạo 
        nhãn và thần thông của bậc sơ quả Tu Đà Hoàn thuộc 
        phạm vi một tiểu thế giới, gồm bốn cõi ác thú, bốn đại 
        châu, một núi Tu Di, một nhật nguyệt, sáu cõi trời Dục, 
        và một cõi Sơ Thiền. Đạo nhãn và thần thông của bậc 
        nhị quả Tư Đà Hàm ở trong chu vị một tiểu thiên thế 
        giới; bậc A Na Hàm, một trung thiên thế giới; bậc A La Hán, 
        một đại thiên thế giới. Bậc Sơ Địa Bồ Tát, đạo nhãn 
        thấy được một trăm cõi Phật cùng trăm đức Phật, 
        chứng một trăm Tam Muội; thần lực có thể phóng ánh sáng 
        và làm rung động một trăm cõi Phật, đi sang khắp một trăm 
        Phật độ. Đạo nhãn và thần thông của bậc Nhị Địa 
        Bồ Tát ở trong chu vi một ngàn cõi Phật; bậc Tam Địa 
        Bồ Tát, một trăm ngàn cõi Phật. Cứ như thế lần lượt 
        tăng gấp bội lên mãi cho đến bậc đệ Thập Địa Bồ Tát 
        thuộc ngôi Pháp Vân, thần thông đạo lực, bao hàm vô biên 
        quốc độ. Từ thế giới Ta Bà này sang Cực Lạc cách mười 
        muôn ức Phật độ. Số ức của „n Độ thời xưa có ba 
        bậc, mà mức trung bình là một triệu bây giờ. Như thế, 
        nếu lấy mười muôn nhân cho một triệu (100.000 x 1.000.000) 
        thì Ta Bà cách Cực Lạc đến một trăm ngàn triệu Phật độ. 
        Lại về Phật độ, tức phạm vi ứng thân giáo hóa của 
        một vị Phật, có đức Phật lấy một đại thiên thế 
        giới gồm một ngàn triệu thái dương hệ làm một Phật độ; 
        có đức Phật lấy hai, ba hoặc trăm, ngàn, muôn, ức cõi đại 
        thiên làm một Phật độ; có đức Phật lấy từ một 
        hằng hà sa cho đến nhiều hằng hà sa cõi đại thiên làm 
        một Phật độ. „y là chưa kể những khoảng trống xa cách 
        từ Phật độ này đến Phật độ kia. Như thế ta thấy 
        từ Ta Bà đến Cực Lạc, chẳng những bậc A La Hán, mà 
        với thần thông của các vị hạ địa Bồ Tát cũng khó 
        nỗi tìm sang. Cho nên khi xưa ngài Mục Kiền Liên tuy hiện 
        thân ở ngôi A La Hán, song kỳ thật là bậc Bồ Tát thị 
        hiện làm Thanh Văn để tu Bồ Tát hạnh, nghe Phật nói Kinh 
        A Di Đà, có lúc đã dùng sức thần thông của mình tìm sang 
        Cực Lạc. Nhưng Ngài tìm mãi không thấy, sau cùng lạc đến 
        thế giới của Phật Tu Di Tướng. Núi Tu Di cao tám muôn 
        bốn ngàn do tuần, mỗi do tuần trung bình là sáu mươi 
        dặm, Phật Tu Di Tướng và dân chúng ở cõi ấy, thân hình 
        đều to lớn như núi Tu Di. Khi ngài Mục Kiền Liên đến cõi 
        này, thấy Phật đang thuyết pháp cho đại chúng nghe, liền 
        đi vòng quanh trên miệng bát của một vị tăng. Vị tăng 
        ấy bạch với Phật rằng: có một con trùng nhỏ giống hình 
        người bò trên miệng bát của mình. Phật Tu Di Tướng 
        bảo: "Không phải thế đâu, đó chính là vị Thanh Văn 
        đệ tử thần thông bậc nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni ở 
        thế giới Ta Bà, tên gọi là Mục Kiền Liên." Ngài 
        Mục Kiền Liên nghe nói thế, liền hiện thân lớn bằng núi 
        Tu Di, đồng với thân lượng chúng sanh ở cõi ấy, bạch 
        với Phật nguyên nhân mình đi lạc đến thế giới này, và 
        kính xin Phật dùng thần lực đưa trở lại quốc độ Ta Bà. 
        Như thế, ta thấy nếu căn cứ nơi thần lực, thì thần thông 
        không rộng lớn, chẳng thể đi về Cực Lạc. 
        — thời mạt pháp này, 
        người tham thiền ngộ đạo còn khó có, nói chi chứng đến 
        Sơ Quả Tu Đà Hoàn! Khi chưa chứng quả tất phải bị luân 
        hồi, sự khỏi sa đọa còn không bảo đảm, bàn đến 
        việc mỗi đời tiếp tục tiến tu trải qua vô lượng vô 
        số kiếp, chờ chứng được ngôi vị thượng địa Bồ Tát 
        để có thể sang Cực Lạc, phải chăng là một điều hư tưởng 
        viễn vông? Dù có đủ thần thông sang Cực Lạc, mà muốn 
        ở cõi đó, phải quy kính xưng niệm danh hiệu đức A Di Đà, 
        mới được lưu trụ. Ví như nhà giàu kia có một vườn hoa 
        tươi đẹp, sức ta có thể vượt tường đi vào, nhưng 
        thật ra muốn vào đó thưởng ngoạn, còn phải thưa hỏi 
        chủ nhơn. Bởi thế, khi xưa ngài Duy Ma Cật dùng thần thông 
        đem những tòa ngồi nghiêm đẹp cao bốn muôn hai ngàn do 
        tuần ở cõi nước Phật Tu Di Đăng Vương về nơi tịnh 
        thất, chỉ riêng các bậc đại Bồ Tát đã từng lễ kính 
        cúng dường mười phương chư Phật mới lên ngồi được. 
        Ngoài ra những vị tân phát ý Bồ Tát cho đến hàng Thanh Văn 
        đại đệ tử, tuy có thần thông dư sức vượt cao hơn 
        bốn muôn hai ngàn do tuần, song không thể lên ngồi. Ngài 
        Duy Ma Cật biết những tòa sư tử này do công đức phước 
        báo của Tu Di Đăng Vương Như Lai, liền bảo với các vị 
        ấy xưng danh hiệu quy kính đức Phật kia, sau đó mới lên 
        ngồi được. Thế nên biết, muốn về cõi Cực Lạc phương 
        Tây, sự xưng niệm đức Phật A Di Đà, là một điều tất 
        yếu. 
        * Cảnh giới tự tâm 
        cảm thông với thần lực nhiếp thọ của Phật là thế nào? 
        Kinh nói: "Phật A Di Đà thường phóng quang nhiếp thọ 
        tất cả chúng sanh niệm Phật ở mười phương không bỏ sót." 
        Cho nên khi ta niệm Phật, liền được nguyện lực quang minh 
        của Phật âm thầm nhiếp thọ. Lúc hành giả nhứt tâm 
        niệm Phật, thì nghiệp lực chìm lắng, tâm lực lộ bày, 
        ánh sáng của tự tâm giao tiếp với quang minh của Phật, nên 
        hiện tiền có thể thấy cảnh Tây Phương, hoặc thần linh 
        dạo chơi miền Tịnh Độ. Sức tâm nguyện thanh tịnh hướng 
        về Tây Phương của hành giả gọi là tự tâm lực, hay tự 
        lực; sức phóng quang nhiếp thọ để dẫn độ của Phật A 
        Di Đà gọi là Phật nhiếp thọ lực, hay tha lực. Nhờ hai năng 
        lực ấy nên tuy chưa được thần thông rộng lớn mà hành 
        giả niệm Phật có thể sanh về Tây Phương. Khi lâm chung, 
        người niệm Phật tùy theo công đức của mình, hoặc thấy 
        Phật đến tiếp dẫn, hoặc thấy Bồ Tát hay Thánh chúng đến 
        tiếp dẫn. Có vị tuy không thấy chi cả, nhưng do nguyện 
        lực của mình và sức quang minh hướng dẫn của Phật, nên 
        cũng được vãng sanh. Sự quan trọng của tha lực là như 
        thế. 
        3) Hỏi: Tu Tịnh Độ 
        cần phải chứng Niệm Phật Tam Muội, hoặc ít nữa đi đến 
        cảnh giới nhứt tâm bất loạn, mới được vãng sanh. Như 
        thế người hạ căn chưa chắc đã thực hành nổi. Vậy thì 
        kẻ thấp kém ngu tối làm sao được sanh về Cực Lạc? 
        Nếu kẻ hạ căn ngu tối không vãng sanh được, sao lại 
        gọi pháp môn Niệm Phật thâu nhiếp cả ba căn? 
        - Đáp: Thật ra với 
        căn cơ thời nay, cảnh giới nhứt tâm bất loạn trong lúc 
        hiện tiền, còn không có mấy người đi đến, huống chi là 
        Niệm Phật Tam Muội! Nhưng, theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, 
        kẻ tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa 
        ngục hiện, chí tâm xưng danh hiệu Phật A Di Đà từ một 
        cho đến mười niệm, liền được Phật hiện đến tiếp 
        dẫn vãng sanh. Thế thì sự nhứt tâm được vãng sanh, là 
        chỉ cho khi lâm chung chớ không phải lúc hiện tiền. Nếu lúc 
        bình thời niệm Phật được nhứt tâm, nhưng sau đó lại 
        chuyển hướng tu theo pháp môn khác không cầu vãng sanh, thì 
        làm sao được về Cực Lạc? Mà muốn được nhứt tâm khi 
        lâm chung, thì lúc bình thời phải tập câu niệm Phật cho 
        thuần thục. Do bình thời thường niệm Phật, dù chưa được 
        nhứt tâm, nhưng chủng tử niệm Phật dồn chứa đã 
        nhiều, lúc sắp chết, hành giả khởi niệm Phật nó liền 
        phát hiện mạnh mẽ nên được nhứt tâm. Kẻ hạ căn 
        niệm Phật được vãng sanh, thường ở trong tình trạng 
        ấy. 
        4) Hỏi: Niệm Phật 
        cốt để ngăn trừ vọng tâm, chận đứng phiền não, đi đến 
        chỗ vô niệm. Đã như thế thì cứ để tâm thanh tịnh, 
        lần lần sẽ tiến vào cảnh giới vô niệm, cần gì phải 
        niệm Phật cho nhọc sức lao hơi? 
        - Đáp: Điểm cứu cánh 
        của pháp Niệm Phật là Niệm Phật Tam Muội, chứng toàn 
        thể bản tánh Di Đà, tức cảnh giới Thường Tịch Quang 
        Tịnh Độ. Nhưng mục đích chánh yếu và cấp thiết của tông 
        Tịnh Độ, là cầu vãng sanh để bảo đảm không còn luân 
        hồi mê đọa, mượn hoàn cảnh ưu thắng ở cõi Cực Lạc 
        tu hành, cho mau tiến lên Phật quả. Vì lẽ ấy nên hành 
        giả của môn Tịnh Độ cần phải xưng niệm danh hiệu đức 
        A Di Đà. Chủ đích của môn Tịnh Độ là như thế, không 
        cấp thiết ở chỗ cầu cảnh giới vô niệm, mau chứng 
        ngộ tánh bản lai như bên Thiền Tông. 
        Tuy nhiên, khi thật hành 
        chủ đích này, hành giả phải niệm Phật cho được nhứt 
        tâm, nên dù không cầu vô niệm mà cảnh vô niệm vẫn tự 
        hiện bày. Hơn nữa, nhờ công đức niệm Phật giúp sức 
        cho mau tiêu nghiệp, nên cảnh giới ấy lại càng chóng 
        hiển lộ. — đây chúng ta thấy mở thêm một tia sáng: 
        muốn mau được vô niệm, được sớm ngộ tánh bản lai, 
        lại cần phải niệm Phật. 
        Đi sâu thêm, nếu là 
        người căn tánh Đại Thừa, tất phải hiểu niệm Phật là 
        để thành Phật. Như chỉ hiểu niệm Phật cốt để ngăn 
        trừ vọng tưởng, tức đã lạc vào Ngũ Đình Tâm Quán 
        của Tiểu Thừa. Tại sao niệm Phật là để thành Phật? - 
        Bởi khi vừa đề khởi câu niệm Phật, thì quá khứ, hiện 
        tại, vị lai đều mất, tuy có tướng mà lìa tướng, tức 
        sắc là không, hữu niệm đồng vô niệm, đi ngay vào cảnh 
        giới bản giác ly niệm của Như Lai, đương thể là Phật 
        chớ còn chi nữa? Nếu cho rằng có niệm là còn trệ nơi 
        hữu vi thì khi đức Thế Tôn hiện các tướng hữu vi như 
        ăn cơm, khoác y, đàm luận, thuyết pháp đi đứng nằm 
        ngồi, đều trệ nơi hữu vi và không phải là Như Lai sao? 
        Lại nếu cho rằng còn niệm Phật chưa phải là vô niệm, 
        thì chư tôn đức bên Thiền Tông khi tham thoại đầu, 
        giảng luận, hoặc có lúc tụng kinh, lễ bái, sám hối, kinh 
        hành đều thuộc về hữu tướng, không phải là thiền ư? 
        Nên biết đạo lý của vô vi là "làm tất cả việc 
        hữu vi mà không thấy có tướng làm", vô niệm cũng 
        thế; chớ không phải tuyệt cả hành động, ngôn ngữ là vô 
        vi vô niệm đâu! Bởi chẳng rõ lý này nên nhiều kẻ chấp 
        không cho rằng: Niệm Phật như chiếc xe chạy đi thêm chở 
        nặng, hoặc như trong vàng còn lẫn chì, trong cơm lẫn cát, 
        không được nhẹ nhàng thuần nhứt, thật đã sai lầm! 
        Nhưng niệm mà không 
        niệm là cảnh giới của bậc thượng thượng căn; nơi đây 
        chỉ khái luận qua để giải mối nghi chấp. Riêng bậc 
        trung, hạ căn gắng niệm Phật cho thuần thục cũng đã quí 
        lắm rồi! 
        5) Hỏi: Thể của các 
        pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng vắng 
        lặng. Khi tâm ta thanh tịnh, dù ở Uế Độ cũng thanh tịnh; 
        trái lại như không thanh tịnh, tuy ở Tịnh Độ vẫn phiền 
        não rộn ràng. Nếu đã có sanh tất phải có diệt hay có 
        sanh là có tử. Thế thì bỏ Ta Bà cầu sanh về Cực Lạc, 
        chẳng là trái đạo lý ư? 
        - Đáp: Vấn đề này 
        có hai nghĩa. Xin thể theo lời của Trí Giả đại sư trong 
        Thập Nghi Luận và phụ thêm đôi chút ý kiến để giải thích, 
        phân làm tổng đáp cùng biệt đáp. 
        Về phần tổng đáp, 
        nếu cho rằng cầu về Tịnh Độ là bỏ đây tìm kia, không 
        hợp với lý Chân Như bình đẳng. Thế thì trụ Ta Bà không 
        cầu sanh Cực Lạc, há không bị lỗi bỏ kia chấp đây sao? 
        Còn như bảo: "Tôi không cầu kia cũng không chấp đây", 
        lại cũng mắc vào lỗi đoạn diệt. Cho nên kinh Kim Cang Bát 
        Nhã nói: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng: Nói phát tâm 
        vô thượng Bồ Đề là đoạn diệt hết tướng của các pháp. 
        Tại sao thế? Vì phát tâm vô thượng Bồ Đề, đối với các 
        pháp không nói tướng đoạn diệt." 
        Về phần biệt đáp, 
        xin giải thích về lý vô sanh và tâm tịnh. 
        Vô sanh cũng chính là 
        lý bất sanh bất diệt. Bất sanh là các pháp do nhân duyên 
        giả hợp mà sanh, không tự thể, nên không thật có tướng 
        sanh. Vì nó hư huyễn, không phải thật từ đâu sanh hiện, 
        nên gọi là bất sanh. Bất diệt là khi các pháp hoại 
        diệt, cũng không tự tánh, không bảo rằng mình hoại 
        diệt. Vì nó không thật có chỗ trở về, dứt mất, nên 
        gọi là bất diệt. Cho nên lý vô sanh hay bất sanh diệt, không 
        phải "ngoài các pháp sanh diệt mà có." Vì thế 
        chẳng phải không cầu sanh Tịnh Độ mà gọi là vô sanh, 
        hoặc sanh về Cực Lạc, là có tử diệt, trái với lý vô 
        sanh đâu! Đó là luận về lý, riêng về sự thì người 
        sanh Tịnh Độ tất lên ngôi bất thối, sống lâu vô lượng 
        vô biên a tăng kỳ kiếp. Trong thời gian ấy tiến tu đã dư 
        chứng quả vô sanh. Như thế đâu còn vấn đề: có sanh có 
        diệt, hoặc có sanh có tử mà phòng ngại! 
        Lý tâm tịnh cũng 
        thế, dùng tâm thanh tịnh ở Ta Bà hành đạo, cùng trụ tâm 
        thanh tịnh ở Cực Lạc để tu tiến, nào có ngại gì? Kinh 
        Duy Ma nói: "Tuy biết các cõi Phật, cùng với hữu tình 
        không, mà thường tu Tịnh Độ, để giáo hóa quần 
        sanh." Cho nên người trí tuy siêng cần niệm Phật cầu 
        sanh Tịnh Độ, mà không chấp có tướng sanh, vì nó không 
        thật có; tuy biết rõ các pháp xưa nay hằng thanh tịnh 
        vắng lặng, mà không ngại gì cầu sanh Tây Phương, mượn 
        thắng duyên tu tiến để giáo hóa loài hữu tình. Đây mới 
        là chân vô sanh, và cũng thật là nghĩa tâm tịnh tùy chỗ 
        thanh tịnh. Trái lại, kẻ kém hiểu biết bị tướng sanh ràng 
        buộc, nghe nói sanh liền nghĩ là thật có sanh, có tử 
        diệt; nghe nói vô sanh lại chấp không sanh về đâu cả. 
        Họ đâu biết sanh chính là vô sanh, vô sanh há ngại gì 
        sanh; và tâm tịnh lại có ngại gì cầu về Cực Lạc ư? Vì 
        không hiểu lẽ ấy, họ sanh lòng tranh chấp thị phi, khinh 
        chê người cầu sanh Tịnh Độ, thật lầm lạc xiết bao! 
        Tiết 19 Những 
        Mối Nghi Căn Cứ Theo Kinh Điển 
        Ngoài những điều 
        trên, lại có nhiều người học Phật, căn cứ các lý 
        thuyết thế giới kinh văn, mà đặt các nghi vấn về môn 
        Tịnh Độ. Nhân tiện, cũng xin tiếp theo thể vấn đáp để 
        giải quyết các mối nghi ấy. 
        1) Hỏi: Kinh Kim Cang 
        nói: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bóng, 
        bọt". Thế thì cảnh Ta Bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc 
        cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn 
        cầu về cảnh huyễn làm chi? 
        - Đáp: Thật ra các 
        cõi Uế Độ và Tịnh Độ trong mười phương đều dường 
        mộng huyễn; nhưng khi nào chứng được Như Huyễn Tam 
        Muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như 
        thế, vẫn thấy nó là thật, vẫn bị nó chi phối, vẫn còn 
        biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng 
        bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn 
        đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi 
        là huyễn? Nên biết môn Tịnh Độ là phương tiện nhiệm 
        mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng 
        sanh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ dẫy đầy chướng 
        duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó 
        tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường 
        tịch. 
        Lấy một thí dụ như 
        tại cõi Ta Bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn ào là 
        huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là 
        huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh 
        gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có 
        phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo 
        khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ núi non thanh vắng 
        dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng 
        khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là 
        điều xa vời trái với thật tế. Ta còn phàm phu hãy cứ 
        theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con 
        mắt thánh nhìn nói quá cao xa, thành ra vọng ngữ và có 
        hại. 
        Khi xưa cũng có một 
        Thiền giả cho cõi Cực Lạc là huyễn mộng, niệm Phật 
        cầu vãng sanh vô ích. Triệt Ngộ đại sư nghe lời này, 
        liền bảo: "Không phải thế đâu! Từ bậc Thất Địa 
        Bồ Tát trở về trước, đều tu hành ở trong mộng. Đến 
        như đối với mộng lớn vô minh, thì bậc Đẳng Giác vẫn 
        còn say ngủ. Duy riêng chư Phật mới có thể tôn xưng Đại 
        Giác, là những bậc hoàn toàn thức tỉnh mà thôi. Khi tự 
        thân đã ở trong mộng, thì sự vui khổ vẫn uyễn nhiên, 
        vui cũng thấy vui, khổ còn biết khổ, sao được gọi mình 
        là người tỉnh mơ, cảnh là huyễn mộng? Thế thì thay vì 
        ở trong cảnh mộng khổ của Ta Bà, sao bằng về cảnh 
        mộng vui nơi Cực Lạc! Huống chi mộng ở Ta Bà là từ 
        mộng vào mộng, bị cảnh duyên nghiệp lực lôi cuốn, mãi 
        luân hồi sống chết chìm mê. Còn cảnh mộng ở Cực Lạc 
        là từ mộng đến giác, lần lượt sẽ thức tỉnh hoàn toàn 
        chứng lên quả Phật. Cho nên mộng huyễn vẫn đồng, mà 
        duyên cảnh mộng ở hai nơi thật chẳng đồng vậy. Thế thì 
        sự niệm Phật cầu vãng sanh chẳng là cần thiết lắm ư!" 
        Lời cổ đức giải 
        thích như thế, thì sự cầu sanh đã được hiển minh. Tuy 
        nhiên, bài kệ trong Kinh Kim Cang nói đó, vẫn còn là lời phương 
        tiện để cho chúng sanh lìa quan niệm chấp có theo phàm tình. 
        Tiến một bước cao hơn, như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: 
        "Như Lai vì hạng người căn tánh tối, mà nói các pháp 
        như huyễn vắng lặng, vì e họ sanh chấp kiến; vì hạng người 
        căn tánh sáng, nói tướng hảo của chư Phật, bởi họ như 
        hoa sen chẳng nhiễm trần." Cho nên Tu Bồ Đề là bậc 
        giải ngộ lý không bậc nhứt, tuyệt không danh tướng, mà 
        đức Thế Tôn lại thọ ký cho ông về sau thành Phật, 
        hiệu là Danh Tướng Như Lai. Thế thì lý mầu không danh tướng 
        chẳng ngoài danh tướng, tất cả pháp mộng huyễn đều là 
        Phật pháp chân thường. Và đi sâu đến chỗ viên dung, như 
        đức Lục Tổ nói, thì phàm phu nguyên là Phật, phiền não 
        tức Bồ Đề, tất cả vô minh huyễn vọng đều là thể viên 
        minh chân giác của Như Lai tạng. 
        2) Hỏi: Kinh Pháp 
        Bảo Đàn nói: "Không niệm, niệm mới chánh. Có niệm, 
        niệm thành tà." Như vậy, niệm Phật có phải là tà 
        vọng chăng? 
        - Đáp: Về đạo lý 
        vô sanh vô niệm, đoạn trước đã có nói. Nơi đây xin đáp 
        một cách thẳng tắt: - Chẳng phải không niệm Phật, không 
        tụng kinh, gọi là vô niệm. Mà thường hằng niệm Phật 
        tụng kinh, nhưng tâm địa rỗng không, chẳng chấp thấy mình 
        có niệm tụng, mới gọi là vô niệm. Trái lại, dù ngồi 
        an tĩnh lòng không suy nghĩ chi cả, mà còn cảm thấy biết 
        cho mình, có sự ngồi thiền, vẫn gọi là "có 
        niệm". Nếu nghĩ rằng "không niệm" là chẳng 
        niệm Phật, tụng kinh, thuyết pháp, không có sự suy tư, thì 
        thành ra gỗ đá; muốn tránh lỗi chấp có, lại lạc vào 
        lỗi chấp không. Thế thì đã trái với ý kinh chỉ dạy. 
        Cho nên đức Lục Tổ mới nói tiếp: "Có, Không đều 
        chẳng tưởng. Ngồi được bạch ngưu xa". Bậc cao đức 
        bên Tịnh Độ khi xưa, tuy hằng niệm Phật cầu vãng sanh, 
        song chẳng chấp tướng niệm Phật cầu sanh, nên đã có 
        lời kệ: 
        Có niệm đồng không 
        niệm, 
        Không sanh tức là sanh, 
        Chẳng phiền dời nửa bước. 
        Thân đến Giác vương thành 
        Nhưng, trên đây là 
        nói tác phong tu niệm của bậc thượng căn. Với hàng căn cơ 
        trung, hạ, cứ nên gắng công niệm Phật cho nhiều, dù còn 
        chấp thấy mình có niệm có tha thiết cầu sanh, cũng là điều 
        tốt. Bởi nếu được như thế, khi mạng chung tất vãng 
        sanh về Tây Phương, chừng ấy kết cuộc cũng sẽ chứng vào 
        cảnh giới vô niệm vô sanh, đâu có điều đáng lo ngại! 
        Bằng chẳng lượng sức mình, ưu cầu cao thắng, nê chấp 
        theo kinh văn trên, đối với đạo lý vô niệm chưa thể làm 
        nổi, với sự thấy có niệm Phật có cầu sanh lại không 
        muốn thật hành, kết cuộc cả hai đều hỏng, vẫn chỉ là 
        phàm phu trong vòng luân hồi thống khổ mà thôi! 
        - Hỏi: Trong Kinh Pháp 
        Bảo Đàn, đức Lục Tổ bảo: "Người phương Đông 
        tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Người Tây Phương 
        tạo tội, niệm Phật cầu sanh về cõi nào?" Như thế 
        thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật 
        cầu vãng sanh? 
        - Đáp: Đức Lục 
        Tổ và các vị cao đức bên Thiền Tông đứng trên cương 
        vị truyền bá tông chỉ duy tâm, nên mỗi lời nói phải căn 
        cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tánh, 
        và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: nếu tâm được 
        thanh tịnh, thì tuy ở Ta Bà cũng tự tại giải thoát; tâm 
        không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân 
        hồi. Thật ra, đối với người tu Tịnh Độ hiểu đạo lý, 
        lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải 
        niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp tướng; 
        chớ không phải bác sự niệm Phật cầu vãng sanh. Đức Thích 
        Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư Đại Bồ Tát và chư 
        vị Tổ Sư đều khuyên niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Hai 
        vị Tổ bên Thiền Tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ 
        đều khuyên niệm Phật; và chính ngài Long Thọ đã chứng 
        ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh về Cực Lạc. Nếu đức 
        Lục Tổ quả thật có ý bài bác sự Niệm Phật, thì 
        chẳng hóa ra bài bác đức Thích Ca Mâu Ni, chư Phật, chư 
        Bồ Tát, Tổ sư, và cả hai vị tiền bối trong tông của mình 
        là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên, nếu hiểu lầm rồi đem 
        lời này chê bai niệm Phật, chính là bài xích và gieo mối 
        oan cho đức Lục Tổ vậy. 
        Lại, hành môn nào cũng 
        có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài 
        ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. 
        Ta thử đặt lại câu hỏi: "Người ở ngoài đời tạo 
        tội, vào chùa am xuống tóc ăn chay giữ giới tìm nơi thanh 
        vắng tu hành. Người ở chùa am tạo tội tìm nơi nào để 
        tu?" Nếu chỉ y theo lý mà bác như vậy, thì việc xuất 
        gia đến chùa am, ăn chay giữ giới, cho đến tụng kinh, 
        niệm Phật, trì chú, tham thiền, đều là lỗi lầm hết 
        cả hay sao? Pháp tu Tịnh Độ cũng thế, thật ra chẳng 
        phải người Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu 
        sanh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là 
        muốn mượn thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả Vô 
        Sanh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi 
        tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sanh, cũng là vì muốn 
        sớm thoát sanh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người 
        ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã 
        về cõi ấy, trên có Phật Bồ Tát, dưới có các bậc thượng 
        thiện nhơn, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc 
        giảng kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc 
        ở và các sự đau bịnh tai nạn oán thù, đường đạo 
        chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội? 
        Kết lại, câu nói 
        của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ là lời khai thị về lý 
        tánh thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi, không nên nghĩ 
        lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe 
        lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm 
        không, mới hợp với ý của Tổ. 
        Tiết 20 Cần Phá 
        Lối Chấp Nhị Biên 
        Những mối nghi về 
        Tịnh Độ theo loại trên hãy còn nhiều. Đó do bởi người 
        học Phật còn lối chấp hai bên, chưa dung hóa được giữa 
        tánh tướng, có không, sự lý. Vì thế nên mới dùng tánh 
        phá tướng, đem lý bác sự, lấy không bài có, và ngược 
        lại, để gây thành những tranh chấp nghi vấn phân vân. 
        Họ không ngờ sự lý tương tức, nghĩa là sự tức lý, lý 
        tức sự, nếu phân chia ra mà nhận định thiên lệch, thì 
        sự không thành chân sự, lý chẳng phải chân lý; cả đến 
        tánh tướng, có không, và các pháp nhị biên khác cũng như 
        vậy. Vì thế trong Kinh Duy Ma Cật mới nói đến Bất Nhị 
        pháp môn, nghĩa là pháp môn Không Hai, để phá trừ lối 
        chấp hai bên đó. Không Hai là dung hóa tất cả để nhập vào 
        tánh thể, chớ chẳng phải một. Đây mới thật là chân 
        cảnh của duy tâm. Ngoài ra, sự lập pháp riêng về hữu môn 
        hay không môn, cũng còn ở trong vòng phương tiện quyền hóa 
        mà thôi. 
        Kinh nói: "Chán 
        bỏ công đức hữu vi là nghiệp ma. Tham trước công đức vô 
        vi cũng là nghiệp ma." Cổ đức cũng bảo: "Pháp 
        hữu vi tuy huyễn, phế bỏ tất đạo nghiệp không thành. Pháp 
        vô vi tuy chân, chấp lấy thì huệ tánh chẳng rộng." 
        Những lời này chứng minh rõ, trên đường tu, sự lý không 
        thể rời nhau. Luận Trung Quán lại nói: "Vì chúng sanh 
        thông thường chấp trệ nơi hình thức nên kinh giáo mới dùng 
        lý không để phá trừ. Nếu vừa lìa bịnh chấp có, lại rơi 
        vào bịnh chấp không, tất chẳng còn thuốc gì chữa 
        khỏi." Bởi lý Bát Nhã không nghe cao siêu mầu nhiệm, nên 
        hàng trí thức khi xem đến những loại kinh này, phần 
        nhiều hay vương vào chứng bịnh "nói lý", việc gì 
        cũng lý thuyết hóa, khinh thường những người hành trì 
        theo sự tướng, gây thành lỗi ngã mạn tự kiêu. Miệng 
        họ tuy nói không, nhưng hành vi lại ở trong có, chính hợp 
        với câu: 
        Đầu mồm nói suốt 
        trăm phần diệu. 
        Dưới gót không ly một điểm trần! 
        * Khi xưa, các bậc 
        đại tri thức cũng thường dùng lý không để trừ bịnh 
        chấp có, nhưng chỗ tu chúng cùng sự khai hóa của những 
        vị ấy đúng tư cách và hợp cơ nghi, mới đem lại lợi ích. 
        Chẳng hạn như câu chuyện sau đây: 
        Có một vị thiền sư 
        tu hành rất tinh tấn, ban đêm chẳng ngủ và thường ngồi 
        mãi không nằm. Nhưng đã lâu năm dụng công, sư vẫn chưa 
        chứng ngộ. Trong chùa có chú Sa Di chẳng biết từ đâu đến, 
        xin nhập chúng. Ông này thường biếng trễ thậm chí nhiều 
        phen tiếng chuông công phu khuya nổi lên, vẫn nằm lỳ mãi 
        không ngồi dậy. Thiền sư biết được, gọi đến quở 
        rằng: "Sao đã vào chùa tu mà còn lười biếng cứ nằm 
        mãi như thế? Chú không nghe trong luật dạy: nghe chuông mà 
        vẫn nằm không ngồi dậy, tương lai sẽ đọa làm thân 
        rắn hay sao?" Sa Di đáp: "Thầy bảo tôi thường 
        nằm sẽ thành con rắn; còn thầy chấp cứ ngồi mãi cũng 
        thành con cóc, chớ có chứng ngộ được chi?" Sa Di nói 
        xong liền ẩn mất. Nhưng vị thiền sư đã tỏ ngộ. Thì ra 
        Sa Di này là một bậc đắc đạo, hiện thân đến khai hóa 
        cho thiền sư. 
        Ngoài ra, còn câu 
        chuyện Đơn Hà Thiên Nhiên hòa thượng cỡi lên cổ Phật và 
        chẽ đốt tượng Phật gỗ để phá quan niệm chấp Phật. 
        Sư Pháp Đạt vì ỷ mình đã tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa, 
        nên lạy đầu không chấm đất, bị đức Lục Tổ quở, để 
        phá quan niệm chấp pháp, chấp công đức. Ngài Bắc Tháp 
        sau khi chứng được Đại Tự Tại Tam Muội, viết danh 
        hiệu Văn Thù, Phổ Hiền lên chiếc khố để phá quan niệm 
        chấp Thánh Tăng. 
        Thuở xưa các bậc 
        đại tri thức, mức tu chứng đã cao, biết tùy cơ nghi mà hóa 
        đạo, lại những hành giả trong thời ấy có nhiều bậc thượng 
        căn, nên sự giảng về lý "không" thường có lợi. 
        Đời nay người trung, hạ căn nhiều, cách giảng hóa nên 
        dung hòa sự lý, tánh tướng, mới không gây nghi ngờ và làm 
        thối đạo tâm của người học Phật. Nếu đa số người 
        chưa thể một bước đi thẳng vào cảnh chân không mà bác 
        bỏ hình thức, tất sẽ diễn thành tai nạn "chưa được 
        lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè", làm sao tránh khỏi 
        cảnh đắm chìm? Lại còn một điều nên để ý, nếu nói 
        lý không mà mình chưa được không, hoặc chưa có đôi 
        phần tư cách nào trên sự tu, tất chẳng thể cảm hóa người, 
        chỉ thành cuộc tranh chấp hơn thua vô ích. Trước đây, bút 
        giả đã có lần chứng kiến cảnh tượng ấy: Một đại 
        đức thông hiểu giáo lý ở ngụ nơi chùa nọ dạy kinh. 
        Vị sư trụ trì đã lớn tuổi, siêng tụng niệm nhưng 
        chấp theo cách thức xưa, thấy đại đức lối sống tự do 
        có vẻ tân thời, ý không ưa thích, liền bảo: "Thầy 
        khuyên dạy đạo mà ngày tối không thấy tụng một quyển 
        kinh, niệm một câu Phật, như vậy làm sao nêu mô phạm tu hành 
        cho đại chúng?" Vị đại đức đáp: "Cách tu có 
        nhiều lối, phải chạy theo hình thức như thầy, tối ngày 
        tụng niệm, mới gọi là tu sao?" 
        Kinh Kim Cang nói: 
        
          Nhược dĩ sắc kiến 
          ngã. 
          Dĩ âm thanh cầu ngã, 
          Thị nhơn hành tà đạo. 
          Bất năng kiến Như Lai! 
         
        "Chớ đức Lục 
        Tổ khi xưa đâu có tụng kinh niệm Phật gì, mà Ngài cũng 
        đắc đạo, làm Tổ được vậy?" Sư trụ trì đuối lý, 
        đành lặng yên. Xét ra, sư trụ trì có lỗi chấp nê hình 
        thức; vị đại đức tuy nói lý cao, song thật ra cũng 
        chẳng tham thiền tịnh niệm chi nên đã không cảnh giác 
        nổi mà còn gây thêm sự bực bội cho sư. 
        Trong hai lối chấp có 
        và không, sự chấp không rất nguy hại. Kinh Lăng Già cùng 
        Mật Nghiêm đều bảo: "Thà chấp có như non Tu, chớ 
        chấp không như hạt cải". Chấp có, ý nói hằng kiêng 
        nhân quả, sợ tội phước, lo giữ giới, tụng niệm, làm lành, 
        tuy bị hình thức bó buộc không tự tại giải thoát, nhưng 
        gây được công đức và thiện căn. Còn chấp không, mình 
        đã chưa chứng được chân không, lại chẳng chịu theo hình 
        thức, siêng tu công đức, tất sẽ luân hồi sa đọa. 
        Bút giả tự xét mình, 
        nghiệp chướng nhiều, căn tánh kém, vẫn không muốn lạm bàn 
        đến đạo lý cao siêu, sợ e hạnh chẳng xứng lời, trở 
        thành vọng ngữ. Nhưng với lòng thành muốn cho người dứt 
        nghi ngờ sanh tín tâm niệm Phật, nên bất đắc dĩ phải 
        thổ lộ ít nhiều. Hằng ví mình như người bại chân 
        ngồi ở ngả ba đường, tuy không tự đi được, song cũng 
        cố gắng chỉ nhắc hành khách tránh nẻo hiểm nguy, theo 
        lối đi rộng bằng an ổn. Còn sự biện luận để phân 
        biệt phải quấy kém hơn, tuyệt nhiên lòng không nghĩ đến! 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 | 05 
        | 06 | 07 | 08 
        | 09 | 10 | Mục 
        lục  |