Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam
Nghi Thức Tụng
Niệm
Chương VI
Phụ Lục
- Phụ lục 1: Cách Phát Âm Phạn Ngữ Pàli
- Phụ lục 2: Các ngày lễ và ngày giới
- Phụ lục 3: Xuất xứ, Ý Nghĩa và cách
dùng các kinh văn
- Phụ lục 4: Ý nghĩa của thờ phượng
- Phụ lục 5: Cách sử dụng các bản kinh
- Phụ lục 6: Từ ngữ Phật Pháp
Phụ lục 1 - Cách phát âm Phạn ngữ Paali
1. Ngôn ngữ Paali còn được gọi là Maagadhii là
ngôn ngữ của xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà). Ðó là một trong những trung tâm
Phật Giáo quan trọng bao gồm các địa danh nổi tiếng Vương Xá thành
(Raajagaha), Linh Thứu Sơn (Gijjhakuuta), Nalanda. Cũng chính tại vương quốc nầy,
vua Ajàtasattu đã tổ chức Ðại Hội Kết Tập Tam Tạng đầu tiên cách ba
tháng sau ngày Phật viên tịch.
2. Paali được gọi là Nam Phạn để phân biệt
với tiếng Sanscrit là Bắc Phạn. Vào thời Phật trụ thế, tiếng
Sanscrit là tiếng của giới quí tộc và hàng giáo sĩ Bà la môn mang tính
kinh viện và dùng cho nghi lễ theo kinh Veda. Ðức Phật dùng nhiều ngôn
ngữ khác nhau và Ngài khuyến khích dùng ngôn ngữ địa phương để
diễn đạt chánh pháp. Có lẽ vì tính cách đại chúng và địa dư nên Nam
Phạn Paali được chọn trong lần kết tập kinh điển lần đầu.
3. Ngày nay Nam Phạn Paali đã trở thành cổ ngữ. Tuy vậy
tất cả các quốc gia Phật giáo nguyên thủy đều dùng tiếng Nam Phạn
làm tiêu chuẩn cho kinh điển và nghi lễ. Các học giả Tây Phương đầu
thế kỷ nầy đã dùng Nam Phạn làm biểu chuẩn cho việc nghiên
cứu và giới thiệu Phật học. Hiện đang có những nỗ lực để
quốc tế hoá thuật ngữ Phật học từ các ngôn ngữ Sanscrit, Nhật ngữ,
Hoa ngữ và tiếng Tây Tạng.
4. Tiếng Paali tương đối dễ đọc. Có tất cả 41
mẫu tự gồm 8 nguyên âm và 33 phụ âm.
Các mẫu tự Pàli trong phiên bản Internet này
được viết theo qui ước:
8 nguyên âm:
a uu i ii u uu e o
33 phụ âm chia thành 6 nhóm:
k kh g gh "n
c ch j jh ~n
.t .th .d .dh .n
t th d dh n
p ph b bh m
y r l v s h .l "m
Cách đọc nguyên âm:
a |
đọc là |
ă |
như há |
td: aniika |
(á ni ká) |
aa |
đọc là |
a |
như cha |
td: baalaa |
(ba la) |
i |
đọc là |
í |
như tí |
td: isi |
(í sí) |
ii |
đọc là |
i |
như nghi |
td: iihaa |
(i ha) |
u |
đọc là |
ú |
như tú |
td: udara |
(ú đá rá) |
uu |
đọc là |
u |
như du |
td: uukaa |
(u ka) |
e |
đọc là |
ê |
như đê |
td: eka |
(ê ká) |
o |
đọc là |
ô |
như tô |
td: okaara |
(ô ka rá) |
- Các nguyên âm aa, ii, uu, e, o
đọc dài
- Các nguyên âm có phụ âm đi sau đọc dài. Thí
dụ: sattha (sát thá) âm "sát" đọc dài, tunha (tun
há) âm "tun" đọc dài.
- Cách đọc phụ âm lưu ý: những phiên âm có
gạch nối là những "âm láy" khi phát âm đọc nhanh như
"bờ" trong "bờ-há"
(1) Nhóm âm họng:
k |
đọc là |
ká |
như ka ki |
td: kata |
(ká tá) |
kh |
đọc là |
kờ-há |
như khá |
td: khaya |
(khá dá) |
g |
đọc là |
gá |
như gỗ |
td: gati |
(gá tí) |
gh |
đọc là |
gờ-há |
----------- |
td: gha.tii |
(gờ-há ti) |
"n |
đọc là |
ngá |
như ung |
td: sa"nkaa |
(săng ka) |
(2) Nhóm nóc giọng:
c |
đọc là |
chá |
như cháu |
td: canda |
(chanh đá) |
ch |
đọc là |
chờ-há |
------------ |
td:chando |
(chờ-hanh đô) |
j |
đọc là |
dzá |
như dzu |
td: jaani |
(dza ní) |
jh |
đọc là |
dzờ-há |
----------- |
td: jhaana |
(dzờ-ha ná) |
~n |
đọc là |
nhá |
như nhà |
td: ~naa.na |
(nha ná) |
(3) Nhóm âm não (không có âm Việt tương đương):
Khi phát âm giống như nhóm âm răng nhưng cong lưỡi lại, dồn hơi lên óc.
.t |
|
-------- |
|
td: .ta"nka |
(tăng ká) |
.th |
|
-------- |
|
td: .thaana |
(tha ná) |
.d |
|
-------- |
|
td: .daaka |
(đa ká) |
.dh |
|
-------- |
|
td: o.d.dha |
---------- |
.n |
|
-------- |
|
td: i.na |
(í ná) |
(4) Nhóm âm răng:
t |
đọc là |
tá |
như tú |
td: ta.ta |
(tá tá) |
th |
đọc là |
tờ-há |
như thứ |
td: thala |
(thá lá) |
d |
đọc là |
đá |
như đong |
td: dati |
(đá tí) |
dh |
đọc là |
đờ-há |
------------ |
td: dhana |
(đờ-há ná) |
n |
đọc là |
ná |
như non |
td: naga |
(ná gá) |
(5) Nhóm âm môi:
p |
đọc là |
pá |
như pa-pa |
td: pajaa |
(pá dza) |
ph |
đọc là |
pờ-há |
như phải |
td: phala |
(phá lá) |
b |
đọc là |
bá |
như báo |
td: baahaa |
(ba ha) |
bh |
đọc là |
bờ-há |
----------- |
td: bhaya |
(bờ-há dá) |
m |
đọc là |
má |
như mơ |
td: mana |
(má ná) |
(6) Các phụ âm không thuộc nhóm:
y |
đọc là |
dá |
như du |
td: yoni |
(dô ní) |
r |
đọc là |
rá |
như rõ |
td: rajani |
(rá dzá ní] |
l |
đọc là |
lá |
như lo |
td: laya |
(lá yá) |
.l |
đọc là |
------- |
---------- |
td: .liiyati |
|
v |
đọc là |
quá |
như qui |
td: vati |
(quá tí) |
s |
đọc là |
sá |
như sử |
td: sati |
(sá tí) |
h |
đọc là |
há |
như hổ |
td: hati |
(há tí) |
"m |
đọc là |
ăng |
như băng |
td: ta"m |
(tăng) |
Cách đọc vần ngược Paali:
k và g
trong vần ngược đọc như "c" trong "Nam Bắc"; td: agga
(ắc gá), sakka (sắc cá).
"n, .n, "m trong vần
ngược đọc như "ng" trong "ngang dọc"; td: sa"ngha
(săng gờ-há), ta.n.da (tănh đá), dhamma"m (đờ-ham măng).
c, j, .t, .d, t, d trong vần ngược
đọc như "t" ; trong chữ chén bát (giọng Bắc); td: satta
(sát tá)
~n trong vần ngược đọc như
"nh" trong "nhanh chóng" td: a~n~na (anh nhá).
n trong vần ngược đọc như
"n" trong "than đá" (giọng Bắc).
p, b trong vần ngược đọc như
"p" trong "áp đảo" thí dụ uppanna"m (úp pan
năng).
l, .l trong vần ngược đọc
"l" trong all của Anh ngữ. td: viruu.lha (quí run há).
s trong vần ngược đọc
"s" trong Texas (không có âm Việt tương đương)
y trong ey đọc như
"ây" trong "đông tây" ; td: aahuneyyo (a hú nây dô)
"n, "m chỉ đi với nguyên
âm trong vần ngược, tương đương với NG; td: ta"m [đọc là
tăng]
Một chữ thường thấy xuất xứ từ Bắc Phạn là Brahma
(phạm chí) đọc là "bờ-ram má"
Người học cần nhớ cách phiên âm để tự
học chỉ là tương đối nên học với thầy dạy là tốt nhất.
Dưới đây là một bản thí dụ về cách phát âm
Phạn ngữ Pàli với phiên âm bài kinh "Dâng Hoa"
Puujemi buddha"m kusumenanena
Pu jê mí bút d-hăng kú sú mê nă nê nă
Pu~n~nena me tena ca hotu mokkha"m
Pun nhê nă mê tê nă chă hô tú mốc khăng
Puppha"m milaayaati yathaa ida"m me
Púp phăng mí la da tí dá tha í đăm mê
Kaayo tathaa yaati vinaasabhaava"m
Ka dô tă tha da tí quí na să pha quăng
[^]
Phụ Lục 2 - Các ngày lễ và ngày giới
Các ngày lễ truyền thống Phật
Giáo
Ngày Phật Bảo (Visaakhapuujaa) nhằm đúng
rằm tháng Tư âm lịch. Kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni: đản sinh, thành đạo và viên tịch. Vì vậy còn được
gọi là Ðại Lễ Tam Hợp. Theo Phật giáo Bắc truyền chỉ kỷ niệm
sự kiện đản sinh nên gọi là Ngày Phật Ðản.
Ngày Pháp Bảo (Maaghapuujaa) nhằm Rằm
tháng Giêng âm lịch. Kỷ niệm ngày đức Phật thuyết kinh Giải Thoát
Giáo (Ovaadapaa.timokkha) về tôn chỉ của Giáo Pháp và tinh thần hoằng pháp.
Bài kinh được thuyết trong thánh hội gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị
thánh nhân vô lậu. Cũng ngày Rằm tháng Giêng, Ðức Phật xác định nền
tảng của Giáo Pháp đã thiết lập vững vàng và Ngài sẽ viên tịch.
Ngày Tăng Bảo (Kathina) có thể tổ
chức bất cứ ngày nào trong vòng một tháng sau mùa kiết hạ của chư Tăng,
tức từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Vì nghi thức chính của Ðại
Lễ là cúng dường và thọ nhận một lá y theo thể thức được qui định
bởi chính đức Phật nên Ðại Lễ nầy thường có tên Lễ Tăng Y Kathina. Chư
Tăng theo Phật Giáo Bắc Truyền nhập hạ từ Rằm tháng Tư đến Rằm
tháng Bảy.
Các ngày lễ văn hoá dân tộc
Ngày Tết Nguyên Ðán kéo dài
nhiều ngày đầu tháng Giêng âm lịch đánh dấu năm mới. Ðây là ngày lễ
trọng thể mang nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc. Nhiều người đi
chùa lễ Phật cầu phước đầu năm vì vậy ngày Nguyên Ðán trở thành một
đại lễ hằng năm tại các chùa.
Ngày Cha Mẹ. Cũng gọi là đại lễ Vu
Lan Báo Hiếu tổ chức vào Rằm tháng Bảy âm lịch. Ðại lễ mang ý nghĩa
ghi nhớ thâm ân sinh dưỡng và cầu phước cho cha mẹ hiện tiền cũng
như quá vãng. ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa ngày lễ cũng là ngày cầu
siêu độ cho người quá vãng nên cũng được gọi là ngày Xá Tội Vong
Nhân.
Ngày Thiếu Nhi. Cũng gọi là
Tết Trung Thu nhằm Rằm tháng Tám âm lịch. Mặc dù bắt nguồn từ Trung Hoa
ban đầu không liên quan đến tuổi trẻ nhưng các sinh hoạt vui chơi như
múa lân, rước đèn, ca hát đã biến ngày nầy trở thành ngày của tuổi
trẻ.
Các ngày kỷ niệm, tưởng
niệm, và các lễ khác
Ngày Quốc Tổ. Cũng gọi là Giỗ
Tổ Hùng Vương nhằm mùng Mười tháng Ba âm lịch đánh dấu triều đại
đầu tiên lập nên nước Việt.
Ngày Hiệp kỵ. Là ngày giỗ
chung chư vị tôn túc tiền bối dày công xây dựng và phát huy mối đạo
tại Việt Nam. Giáo Hội thường chọn Rằm Tháng Chạp để tổ chức lễ
nầy.
Ngày Chu Niên. Mang tánh cách địa
phương kỷ niệm ngày thành lập ngôi chùa. Ðây là dịp tưởng lệ
ghi công những Phật tử hữu công và hun đúc đạo tình trong một ngôi chùa.
Ngày An Cư Kiết Hạ. Có tánh cách
nội bộ hàng xuất gia. Nhằm Rằm tháng Sáu âm lịch. Ngày lễ vốn được qui
định trong Tạng Luật (Vinayapitaka). Ðức Phật cũng cho phép người cư sĩ tổ
chức cúng dường y tắm mưa đến chư Tăng vào dịp lễ nầy. Ðây cũng là
thời gian người cư sĩ tu bát quan trai trường trọn ba tháng. Cũng cần ghi
nhận rằng Rằm tháng Sáu là ngày đức Phật chuyển Pháp Luân tại Lộc
Uyển.
Ngày Thiền Học. Ðể phát huy
truyền thống pháp hành. Thường được tổ chức theo điều kiện địa
phương với một khoá tu học tiêu biểu. Thời lượng có thể là một
hay nhiều ngày.
Lịch trình kiểu mẫu các ngày lễ trong năm theo thứ
tự tháng dương lịch
Dương Lịch |
Ngày Lễ |
Âm Lịch |
Ghi chú |
Tháng 1 |
Ngày Hiệp Kỵ |
Rằm tháng Chạp |
|
Tháng 2 |
Tết Nguyên Ðán |
Ðầu tháng Giêng |
|
Tháng 3 |
Ngày Pháp Bảo |
Rằm tháng Giêng |
|
Tháng 4 |
Ngày Quốc Tổ |
Mùng Mười tháng Ba |
|
Tháng 5 |
Ngày Phật Bảo |
Rằm tháng Tư |
|
Tháng 6 |
|
|
|
Tháng 7 |
Ngày An Cư |
Rằm tháng Sáu |
|
Tháng 8 |
Ngày Cha Mẹ |
Rằm tháng Bảy |
|
Tháng 9 |
Ngày Nhi Ðồng |
Rằm tháng Tám |
|
Tháng 10 |
Ngày Tăng Bảo |
Rằm tháng Chín đến Rằm
tháng Mười |
|
|
Ngày Thiền học |
|
tùy duyên |
|
Ngày Chu niên |
|
tùy duyên |
Những điểm cần lưu ý
Ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo Trung Hoa, các
chùa Việt Nam thường khai kinh cúng dường đại lễ từ ngày mùng Tám cho
đến ngày Rằm. Lâu ngày một số lớn Phật tử hiểu lầm rằng chính lễ
là ngày mùng Tám. Trên thực tế các đại lễ trong Ðạo Phật đều nhằm
ngày Rằm.
Tại các quốc gia Âu Mỹ, người Phật tử tổ chức đại
lễ theo "mùa" hơn là đúng ngày ghi trong lịch bởi vì chỉ có thể
tổ chức vào cuối tuần và tình trạng thiếu Tăng Ni cũng khiến các
ngày tổ chức lễ phải được linh động.
Những ngày lễ nêu trên đã được Hội Ðồng Chưởng
Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thông qua trong phiên họp
ngày 11-3-1997 tại Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas, Hoa Kỳ dưới sự chứng
minh của Hoà Thượng Tăng Thống và các thành viên trong Hội Ðồng.
Các Ngày Trai Giới
Ngày trai dịch từ phạn ngữ Uposatha
có nghĩa là lấy sự qui định hạn cuộc thời gian làm nền tảng tu tập. Có
những học giới mà người cư sĩ không thể hành trì trọn đời,tuy
nhiên nếu phát nguyện gìn giữ trong một thời gian ấn định chẳng những
có thể trong sạch mà còn hoan hỷ tinh tấn nhiều hơn. Yếu tố
thời gian đó được qui định bởi đức Phật và cần hiểu rõ khi thực hành
trai giới. Thông thường có sự hiểu lầm về chữ "Trai" hay
đọc trại là "chay" có nghĩa là ăn-lê-hoát nhưng chữ trai
(uposatha) nguyên nghĩa là thời gian tu tập tịnh giới (trai hựu tác thời).
Lịch Ấn Ðộ chia mỗi tháng thành hai tuần:
thượng tuần và hạ tuần. Thượng tuần là tuần trăng đầy kể từ mùng một
đến ngày Rằm; hạ tuần tính từ trăng tròn đến ba mươi.
Thời Phật trụ thế ngày trai gồm các ngày đầu,
giữa và cuối thượng tuần cũng như hạ tuần. Như vậy tổng cộng có 6 ngày:
Mùng 1, mùng 8, 15, 16, 23 và 30 (tháng thiếu 29). Về sau các vị tôn túc
thêm hai ngày mùng 5 và 20.
Nếu tính như trên thì ngày sóc đúng mùng 1 và
ngày vọng đúng 16 (trăng tròn). Nhưng vì vài sự sai biệt (...) nên
các ngày sóc vọng và trai giới được qui định như sau: Mùng 5, mùng 8,
14, 15, 20, 23, 29, 30 âm lịch. Tháng thiếu: 28, 29.
[^]
Phụ lục 3 - Xuất xứ, Ý Nghĩa và cách
dùng các kinh văn
Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo
Nguyên Thủy là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Ðiển. Theo tinh thần tụng
niệm thì uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố:
a) Lời Phật là lời linh diệu. Ðức Phật là bậc
đại bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn mà còn
chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả Ananda trùng
tụng lời Phật thường với thoại đầu "Evam me sutam (tôi nghe như
vầy)." Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản của các kinh
văn tụng niệm.
b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự
thật được nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và
hiển. Trong kinh văn thường có câu: "Etena saccavaccena hotu me
jayama"ngala"m -- Nguyện nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát
tường". Khi tâm thành và ý kinh được hợp nhất thì lời kinh được
xem là chân ngôn.
c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Ðức Phật
dạy quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương.
Người tụng đọc kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận
được sự lợi lạc to lớn của sự tụng niệm.
d) Ðức tin trong sạch là hạt giống của thiện pháp.
Tụng niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy tâm
hồn hướng thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây
là lợi ích thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.
Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy được
thêm vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa và
duyên sự tụng đọc của các kinh văn.
Kinh Hạnh Phúc
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ Kinh
(Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 46 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ: Mahama"ngala
Sutta.
Chữ Hạnh Phúc được dịch thoát từ phạn ngữ ma"ngala
có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên bạch hỏi Phật
cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời. Ðức Phật trả lời
bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ mọi
lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội... Vì đề cập đến cát tường nên
bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những lời dạy
trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.
Kinh Từ Bi
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ Kinh
(Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 25 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ: Metta
Sutta.
Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba
bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát
triển hạnh từ ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng
của từ tâm; phần kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp
có hại cho lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ
cuối cùng là quả phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các
tỳ kheo trì tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các
thầy đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh
thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu
của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho
người tu tập lòng từ.
Kinh Châu báu
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ Kinh
(Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 39 London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Ratana
Sutta.
Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị
vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí
nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết
đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng
trong hành trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn
của bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên
hệ bất khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu
tập và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy
bài kinh nầy tại Vesalì nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và
phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì
niệm trọn đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalii. Kết quả
mọi tai ách đều được giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh
đều đặc thù nên Kinh Châu Báu trở thành quan trọng nhất trong các
bài kinh cầu an.
Kinh Chuyển Pháp Luân
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm ( Mahavagga) thuộc Luật Tạng
(Vinaya pitaka) cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaaya) [PTS
Kindred Saying V.420-431) Tựa kinh Phạn ngữ: Dhammacakkappavattana Sutta.
Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe
Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời
hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca Mâu Ni
đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp,
để giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như,
bậc thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp
Luân mà liễu ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp
hàng thiên chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong
nghi lễ đạo Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.
Kinh Vô ngã
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Mahàvagga) thuộc Luật Tạng
(Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikaaya I.
57. Tựa kinh Phạn ngữ: Anattalakkha.na Sutta
Ðây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương
pháp quán niệm năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và
các giác quan. Kinh chia làm bốn đoạn chính. Ðoạn I nói về sự trạng vô
hộ vô chủ của năm uẩn. Ðoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của vô
thường, khổ não và vô ngã. Ðoạn III xác định bản chất vô ngã của tâm
lý, vật lý trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Ðoạn IV nói
về trình tự giải thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn
được giảng từng uẩn riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm.
Bản dịch gom chung năm uẩn tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức
Phật thuyết nhằm khai thị năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị
hoàn toàn giải thoát nên thường được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.
Kinh Ðáo bỉ ngạn
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Dasapaaramii.
Ðáo bỉ ngạn hay ba-la-mật là pháp hành của các vị bồ
tát trên đường hướng đến giác ngộ. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa là pháp
đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Ðộ. Mười ba la mật là bố thí,
trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí
nguyện, từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba la mật: một là vì đại
nguyện tu tập hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một
phần thân thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn
được tính là ba mươi. Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm
tác động tín tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ
hiện tiền lẫn người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an
và cầu siêu.
Kinh Phật lực
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Buddhajayama"ngalagaathà.
Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật hoán
chuyển nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người, mãnh thú.
Ðức Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức độ
cho đến tuệ giác. Ðây là những sự kiện tiêu biểu các chướng
duyên xảy ra trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng bài
kinh không những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học
soi sáng thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy
được tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.
Kinh Thắng hạnh
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Jayaparitta.
Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết
tường. Mở đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo quả vô
thượng mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả chúng sanh.
Tiếp theo là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt theo đạo
lý thánh hiền. Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên
bài kinh nầy thường được đặc biệt dùng để chú nguyện trong các
khoá lễ cầu an.
Kinh Lễ Chánh Giác Tông
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Sambuddhagaathaa
Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười
phương ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra có tánh
cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con số nầy dựa
theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ tát trong suốt
quá trình huân tu giác hạnh.
Bậc Trí Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi hai
mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười hai
ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn
vị Phật.
Bậc Tấn Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi
bốn mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua hai
mươi bốn ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua một
triệu vị Phật.
Bậc Tín Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi
một trăm lẻ chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua
bốn mươi tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua
hai triệu vị Phật.
Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là nói
về truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập khó
thể nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa
nầy bài kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.
Kinh Bồ Ðề Phần
Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha. Tựa kinh Phạn ngữ: Bodhipakkhiyasangaha.
Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm
trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ
chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật dạy
rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị
biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu
nền tảng chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy
là bản đồ tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng
và cầu an.
Kinh Vô úy
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Abhayaparittagaathaa .
Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu
lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó
là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất
tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật
toàn giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh
thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an
tiêu tai.
Kinh Quán Niệm
Xuất xứ từ Dhammapada và Sutta Nipàtà. Tựa kinh dựa theo
nội dung quán niệm.
Ðây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về ba pháp
ấn: vô thường, khổ, vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của đời
sống giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên. Ba đoạn
đầu nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô ngã trong ba cõi;
đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của người hiểu
đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự liễu ngộ
thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu siêu và nghi
thức nhật hành.
Kinh Duyên Sinh
Xuất xứ từ Mahasaccakasutta, Trung Bộ Kinh I. M.I.237-251.
Tựa kinh Phạn ngữ: Pa.ticcasamuppaada .
Nội dung là một trình bày cô đọng về mười hai
duyên sinh. Ðề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo thành
sự hiện hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của giáo
lý Phật đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn.
Ðây là một trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo
truyền thống thì bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được
tụng trong khoá lễ cầu siêu.
Kinh Suy Niệm về Nghiệp
Phật ngôn sưu tập trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật nhân quả
và đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những được
minh định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết
thực để quán chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày.
Với nội dung chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm
mục đích soi sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.
Kinh Vạn Pháp Tổng Trì
Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ Dhammasangini, Tạng Diệu
Pháp.
Ðây là một trình bày hệ thống về bản thể
vạn pháp. Mỗi tiêu đề (màtikà) bao gồm trọn "biểu đồ
pháp giới". Những chiết trung nầy được dùng để trình bày lý
duyên hệ (paccayo) như những thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ
giải thì đây là bài kinh có thắng lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc
cảnh. Chính vì vậy Kinh Vạn Pháp Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá
lễ cầu siêu bằng Phạn ngữ.
Kinh Chúc Nguyện
Trích từ Kinh Tập (Sutta Nipaata), Kinh Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaaya)
Ðây là một bài kinh chú nguyện được dùng
nhiều nhất. Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình
ảnh được dùng làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận
nước của muôn sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm;
và ngọc như ý ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ
trên công đức đã làm và hướng nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang
lại phước lành đầy đủ. Bài kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.
Kinh Hồi Hướng Vong Linh
Trích Bộ Tiểu Tụng (Khuddakapaa.tha), Kinh Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Tiroku.d.dasuttam
Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy
trong một duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau khi
qua đời sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh
nầy thường tìm đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng.
Ðức Phật dạy về sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng
đúng cách. Kinh nầy được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.
Kinh Ghi Ri Ma Nan Ða
Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ (AnguttaraNikaaya), tựa kinh
phạn ngữ: Girimaananda.
Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường, vô
ngã, bất tịnh, hệ lụy, đoạn tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước, yểm
ly và hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc phục
bệnh căn. Ðức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả Ghi Ri
Ma Nan Ða khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi
bệnh. Do duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các
khoá lễ cầu tiêu tai thân bệnh.
Kinh Tứ Niệm Xứ
Trích từ Kinh Trung Bộ (MajjhimaNikaaya), tựa kinh Phạn
ngữ Satipathana Sutta .
Ðây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một trình
bày toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ,
trạng thái của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về
phương pháp quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả
pháp hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền
định. Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và
thực hành được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh
được tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.
Kinh Lễ Bái Sáu Phương
Trích đoạn từ kinh Si"ngalovada,
Trường Bộ Kinh (DighaNikaaya).
Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singàla về
nghi lễ trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương
theo tập tục. Ðức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và tôn
trọng. Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương
đông, nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan
hệ với một người trong cuộc sống. Ðó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ
chồng, thầy trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy
nếu được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi. Ðức Phật
đã nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống
người cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại
chúng.
Kinh Sám Nguyện
Dựa theo tinh thần tu tập truyền thống
Nội dung chính là sám hối mười bất thiện
nghiệp từ thân khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng
ngày. Những tâm sám nầy không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ mà
còn là những soi sáng mọi hành vi trong đời người. Cũng trong nội dung
kinh văn sám nguyện có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh
thần giới luật của một cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn bản cho
khoá lễ sám hối cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.
Kinh Lễ Hồng Danh
Trích trong bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo
Nguyên Thủy.
Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật. Ðây là
những bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni trong
giai đoạn sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ các ngài là
bày tỏ lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục mệnh của
chư Phật. Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những duyên sự đặc
biệt làm tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.
Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu và
Kệ Sám Hối Phụ Mẫu
Dựa theo tinh thần kinh Sonadanta, Kinh Bổn Sanh (Jataka)
Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ và
lời sám hối về lỗi lầm của con cái. Ðức Phật dạy bất hiếu là
trọng tội và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân
cha mẹ trong các thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó
thể hiện được tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.
Kệ Phật Sử
Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh (Buddhacarita), Kinh Tiểu
Bộ.
Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu
Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của thái tử
Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo. Ðức Phật
không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một nhân vật
lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của Ngài không mảy may
khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ và các khoá tu.
Kệ Chiêm bái Xá lợi
Dựa vào Biên Niên Sử của Bộ Tiểu Phẩm, Tạng Luật.
Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn sư Thích Ca
Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Ðạo Phật. Xá lợi và cây
Bồ Ðề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật được chính
Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn kính
còn nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài kệ
được tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.
Kệ Ba Pháp Ấn
Một trình bày các thực tướng vô thường, khổ, vô ngã
qua hiện thực đời sống. Với văn thể bình dị, bài kệ hướng dẫn
sự quán chiếu đối với mọi biến đổi, phiền lụy của thân tâm.
Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.
[^]
Phụ lục 4 - Nghi thức và Thờ phượng
I. Nghi Thức
Nghi thức các khoá lễ luôn luôn có 4 phần:
1. Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương
cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về duyên sự của buổi lễ.
Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Ðây là khởi đầu của tất cả khoá lễ
2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán ba ngôi
Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy đủ hay giản
lược.
3. Phần kinh văn: Gồm những Phật ngôn hay
kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng trong lời tác bạch.
Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh
thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những người tham dự khoá
lễ.
4. Phần hoàn kinh: Là phần sau cùng của
mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.
Chương I của quyển kinh nầy là các khoá lễ được
sắp sẵn với thời lượng và kinh văn cố định thích hợp cho những khoá lễ
đông người.
II. Thờ phượng
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam
Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên
thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.
Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ
phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những lễ phẩm cúng dường nên
tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.
Nên thiết lập bàn thờ ở nơi trang trọng. Ðộ
cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.
Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập
thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần.
Không nên xem thường yếu tố thẩm mỹ. Hình thức
trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong gia đình.
III. Tinh thần của nghi lễ
Có mười hạnh lành mang lại phước báu mà đức Phật
gọi là Mười Phước Hạnh (pu~n~nakiriyuuvatthu). Sự
tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước hạnh
nầy.
1. Bố thí. Danh từ nầy cần được
hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là cho,
tặng, cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh
lành nầy.
2. Trì giới. Giới là quyết tâm tránh
những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là những luật nghi
được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong các thời khoá. Nếu
có chư Tăng thì xin thọ giới.
3. Thiền định. Có nhiều phương
pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng đối tượng
là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một trong những phép
tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều có cả hai
phần nầy.
4. Cung kính. Là giữ lòng kính quí đối
với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức khiêm cung, giảm lòng
kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung kính là điều tối
cần.
5. Phục vụ. Là lòng vị tha vì lợi ích
cho người khác. Ðối với người tu tập, tinh thần phục vụ là cách hữu
hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong các khoá lễ
tụng niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu an,
cầu siêu và kỳ nguyện.
6. Thuyết pháp. Là sự chuyển đạt
những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các kinh văn là
Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai có duyên
lành lắng nghe.
7. Thính Pháp. Là nghe, học lời Phật
dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư trong điều
kiện khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa thính pháp.
8. Hồi hướng phước. Là nguyện lành
hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước không phải chỉ tăng
phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm, bổn phận với người
thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết thúc bằng lời hồi
hướng phước báu.
9. Tùy hỷ phước. Là cùng vui với
phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng rãi không
ganh tỵ và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy
hỷ "Saadhu lành thay" được dùng rất phổ
biến tại các quốc gia Phật giáo.
10. Huân tu chánh trí. Là làm thế
nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu sống với
tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai tác dụng định
tâm và khai thị.
Người có tín tâm chuyên trì tụng niệm lấy mười
phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ thì không bao giờ sợ lầm lạc
và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của mình.
[^]
Ghi chú: Các mẫu tự Pàli trong
phiên bản Internet này được viết theo qui ước:
[Mục lục] |