-Phần
4-
Ð. Những Lời Khích
Lệ và Giáo Huấn Cuối Cùng
Phần này chia làm 3
tiết: tiết 1 lời khích lệ tổng quát, tiết 2 minh định
giáo lý căn bản, tiêt 3 những lời giáo huấn cuối cùng.
I. Khích Lệ Tổng
Quát.
Từ "các thầy tỳ
kheo, đối với mọi thứ công đức...không phải lỗi của
người dẫn đường": Kinh văn dạy: "Các thầy tỳ
kheo đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường
xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc
thù". Mọi thứ công đức là tất cả những công hạnh
được đề cập từ đầøu kinh cho đến cuối kinh, tất
cả những công hạnh đó đều gom vào trong tam vô lậu
học: Giới, Ðịnh và Tuệ. Những gì đức Phật dạy, ngài
khuyến khích hãy nỗ lực hành trì đừng để thời gian
trống rỗng và đừng để cho tâm phóng túng có cơ hội
khởi lên, lấy chánh pháp làm chỗ nương tựa, tâm lý được
bảo bọc bởi chánh pháp sẽ được an ổn và thanh tịnh.
Những lời nhắc nhở cuối cùng của Ðức Phật không
nhằm để tôn vinh vai trò đạo sư, cũng không xuất phát
từ động cơ phát triển tôn giáo hay chủ thuyết của mình,
mà chỉ vì lòng đại bi thương yêu chúng sinh, thương yêu
đệ tử muốn cho họ được sớm thành tựu giải thoát.
Mặt khác lời nhắc nhở không phải là lời răn dạy của
một vị thầy khó tính,muốn tạo một áp lực tâm lý để
gây ấn tượng cho tương lai, Ðức Phật như người cha thương
con, trước bước đường chia ly mong con hiểu và đi đúng
con đường mà cha đã đi, vì lợi ích chính người con. Kinh
văn dạy: "thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh
pháp ích lợi một cách cứu cánh, các con chỉ có nỗ lực
thực hành".
Thực hành bằng cách nào?
Và bắt đầu từ đâu? Ðức Phật dạy: "Hoặc trong núi
rừng, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các
thầy hãy ở một cách thư thái trong tịnh thất nhỏ, nhớ
và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên
mất". Lời dạy này của Ðức Phật tương ứng với
lời dạy trong kinh tạng Pàli và Ahàm: "lựa một chỗ
thanh vắng tịch mịch như núi rừng, gốc cây, khe núi, hang
đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy
ngồi kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt" (Tượng
Tích Tiểu Dụ kinh, TBK). Vấn đề lựa chọn nơi chốn tu
tập, một vài vấn đề cần đặt ra:
1. Nếu một người
mới vào đạo, chưa thuần thục trong giáo pháp, chua thọ
giới và chưa hành trì giới luật một cách đầy đủ
thuần thục , như vậy đức hạnh chưa thành tựu, mà vội
vàng tìm kiếm nơi vắng vẻ để tu niệm là một điều sai
lầm nguy hiểm, vì lẽ tu tập thiền quán phải dựa trên cơ
sở thành tựu giới học.
2. Chọn nơi thanh
vắng, tránh các ngoại duyên để chuyên tâm thiền quán là
hợp lý. Người xuất gia sống ở thành phố, hoặc ở gần
nơi ồn ào náo nhiệt, sống với công việc, tranh đấu,
rất khó tu tập. Tuy nhiên nếu biết sắp xếp công việc, tìm
nơi yên tĩnh như một căn phòng nhỏ ở trên lầu chẳng
hạn, vẫn có thể tu tập tốt mà không cần phải tìm
chốn hoang vu.
Phương pháp tu tập là
"nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận".
Nghĩa là có chánh niệm, thường quán chiếu các đối tượng
thân thể, cảm giác, tâm tư và giáo pháp; hoặc quán sát tu
tập 37 phẩm trợ đạo...điều quan trọng là đừng để quên
mất", tức là tu không gián đọan, thường niệm chánh
pháp. Có chánh pháp, nhớ chánh pháp và hành trì chánh pháp
thì cuộc đời sẽ không trôi qua một cách vô ích, khỏi
hối tiếc về sau.
Ðức Phật như vị lương
y, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, có lương y có thuốc, mà
bệnh nhân không uống thì bệnh vẫn không lành, lỗi không
phải do thầy thuốc mà do chính người bệnh, vì vậy Ðức
Phật dạy: "Như Lai như vị lương y biết bệnh và chỉ
thuốc, còn uống hay không không phải là lỗi của lương
y". Trong các kinh cũng thường gọi Ðức Phật là đại
y vương. Thí dụ Ðức Phật như vị lương y rất thân
thiết với đời sống con người vốn nhiều bệnh tật. Thí
dụ Ðức Phật như người dẫn đường cũng rất chính xác,
kinh văn Phật dạy tiếp: "Lại như người dẫn đưòng
rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi
mà không đi thì không phải lỗi của người dẫn đường".
Lời giáo huấn rất thiết tha và nhân bản, con người là
chủ nhân của chính mình, có thể tạo cho mình đời sống
hạnh phúc hay khổ đau. Ðức Phật không phải là một vị
thần linh hay thượng đế có quyền năng ban phúc hay giáng
họa, hay ban cho mình sự giác ngộ. Tương tự Ðức Phật đã
dạy trong Trung Bộ kinh khi Bà la môn Ganaka Moggallana hỏi:
"Do nhân duyên gì mà trong khi có sẵn Niết bàn, có bậc
đạo sư dẫn dắt mà có người chứng quả có người không
chứng qủa ? ". Ðức Phật lấy ví dụ thành Vương Xá,
có con đường đi đến thành, có người chỉ đường rành
rẽ. Vậy mà có người đi lầm lạc, có người đi đến đích.
Niết bàn cũng vậy, Như Lai chỉ là người chỉ đường đi
đến Niết bàn (K.Ganaka Moggallana, TBK I)
Lời khích lệ của Ðức
Phật đối với đệ tử rất thiết tha rõ ràng và hợp lý.
Giáo pháp đã được dạy cần phải hành trì, đời sống
ngắn ngủi đừng để trôi qua một cách vô ích. Phải tự
mình nỗ lực tiến lên đừng ỷ lại vào ai, ngay cả chính
Ðức Phật, vì Ðức Phật chỉ là người chỉ đường.
II. Minh Ðịnh Giáo
Lý Căn Bản
Từ "Các thầy tỳ
kheo đối với 4 chân lý...không còn hoài nghi gì nữa":
Kinh văn Phật dạy: "Các thầy tỳ kheo đối với 4 chân
lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn
tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu
giải đáp". Vấn đề nêu ra là Tứ diệu đế, trong
kinh Du Hành (Trường Ahàm) cũng có đoạn tương tự: "này
các tỳ kheo, các ông đối với Phật, Pháp, chúng Tăng và
chánh đạo có gì nghi ngờ nữa không? Ai nghi thì mau hỏi đi
cho kịp thời, để sau này khỏi ăn năn, giờ đây ta vẫn còn
mà giải quyết cho".
Giáo lý tứ diệu đế
được Ðức Phật coi là căn bản nhất, cốt lõi nhất
trong toàn bộ giáo lý đã dạy, vì vậy ngài chú trọng đến
một cách đặc biệt. Giáo lý tứ đế này bao trùm hệ
thống giáo lý Phật giáo, đúng như lời nhận xét của ngài
Xá Lợi Phất: "Chư hiền giả, ví như tất cả đấu chân
của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân
voi, vì dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân
về mặt to lớn. Cũng vậy chư hiền giả, tất cả các
thiện pháp đều tập trung trong Tứù Thánh Ðế" (Tượng
Tích Ðại Dụ kinh). Vì tứ diệu đế là căn bản nên sự
hiểu biết về tứ diệu đế rất quan trọng, liên quan đến
pháp môn tu tập và tiến trình giải thoát. Vì vậy Ðức
Phật lặp lại, nhấn mạnh để xác định tầm quan trọng
của giáo lý tứ đế, mặt khác giải quyết mhững gì còn
hoài nghi, chưa rõ, tạo một niểm tin vững chắc đối với
4 chân lý này. Thượng tọa Chơn Thiện trong "Phật học
khái luận" cũng nhấn mạnh: "Người học phật
phải ý thức sâu xa rằng Tứ Thánh Ðế chẳng những chỉ
là giáo lý nền tảng mà là nền tảng nhất của các giáo
lý nền tảng về mặt tôn chỉ" (PHKL T.206)
Ðức Phật hỏi 3
lần, không ai còn hoài nghi gì nữa, ngài A Nậu Lâu Ðà xác
định 4 chân lý sự thật là chân lý, không thể khác được,
với những ví dụ sinh động: "Mặt trăng có thể làm
cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng 4 chân
lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi
được". Ðiều đó nói lên sự hoàn hảo về mặt lý
luận cũng như về mặt thực tiễn của 4 chân lý.
Tác dụng và hiệu
quả của 4 chân lý đã đem lại niềm tin cho các đệ tử,
vì vậy không có gì phải hoài nghi về 4 chân lý ấy. Suốt
trong 45 năm hoằng pháp độ sinh giáo lý ấy đã được cọ
xát, thử thách ở nhiều góc độ khác nhau. Chân lý bao
giờ cũng là chân lý.
III. Những Lời Giáo
Huấn Cuối Cùng.
Từ "Chư tăng lúc
bấy giờ... những lời giáo huấn tối hậu của Như
Lai": Những lời giáo huấn cuối cùng của phần này
chia làm 3 phần:
1) Ðối với những đệ
tử hữu học, khi thấy đức Thế Tôn sắp diệt độ thì xúc
động, than thở bi cảm, đức Thế Tôn an ủi rằng:
a- Sự có mặt của
Ðức Phật ở cõi đời này nếu kéo dài thêm nữa cũng
phải đến lúc ra đi: "nếu Như Lai còn ở đời lâu
đến một đại kiếp đi nữa thì sự kết hợp nào rồi
cũng phải tan rã".
b- Những gì cần làm
thì đức Như Lai đã làm xong, sứ mệnh độ sinh đã hoàn
tất, sống thêm ở đời cũng không lợi ích gì nữa:
"Chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ. Như
Lai sống cho lâu cũng không còn lợi ích gì nữa".
c- Các đệ tử hãy
nỗ lực tu tập, hành trì dù Ðức Phật của thân xác không
còn nhưng Ðức Phật pháp thân thì vẫn thường trú bất
diệt: "Từ nay về sau đệ tử của Như Lai hãy triển
chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường
trú bất diệt".
2) Ðức Phật giáo
huấn về sự vô thường của thế giới và con người:
"Các thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là
chuyển biến vô thường , có kết hợp thì có tan rã".
Giáo huấn về sự vô thường của cuộc đời để khích
lệ tinh thần thoát ly, đừng bám víu vào cuộc đời. Nhìn
sự vô thường của cuộc đời, có hai thái độ xảy ra,
một là vì cuộc đời là vô thường nên tận dụng cơ
hội để tu tập không để cho thời gian trôi qua một cách
trống rỗng. Hai là vì cuộc đời là vô thường nên vội vã
hưởng thụ, sống buông thả không có trách nhiệm gì, thái
độ thứ hai này là của hạng phàm phu không biết thánh đạo,
không xu hướng thánh đạo. Ðức Phật dạy cho hạng người
thứ nhất: "Cuộc đời (vô thường) như thế, nên các
thầy phải nỗ lực tinh tấn để sớm cầu tự độ đem ánh
sáng trí tuệ để diệt trừ hắc ám vô minh".
Về sự vô thường
của thân thể, đức Phật dạy: "Như Lai diệt độ thì
cũng như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Ðây là một
vật tội ác và đáng bỏ, giả hiện là thân thể mà lại
chìm ngập trong biển già, bệnh, sống chết" thân thể
là vô thường, nếu không tu tập thì chính nó sinh nhiều
tội lỗi, đối với bậc đã đắc đạo , thân thể vẫn là
một gánh nặng sau cùng, vì sinh lý vật lý vẫn có những
quy luật của nó.
3) Ðức Phật nhấn
mạnh một lần nữa và đây là lời dạy sau cùng về bản
chất của vũ trụ nhân sinh:"Hãy thường nhất tâm, nỗ
lực ân cầu giải thoát. Toàn thể vũ trụ dầu pháp biến
động hay không biến động đều là trạng thái bất an và
tan rã". Ngài tuyên bố đây là giáo huấn tối hậu
của Như Lai. Biến động và không biến động là tất cả
trạng thái động và tĩnh của thế gian, cũng có nghĩa tất
cả pháp hữu vi. Lời dạy cuối cùng này cũng phù hợp
với lời dạy cuối cùng trong kinh trường Ahàm: "Tất
cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng
của Ðức Như Lai "(kinh du hành).
Lời cuối cùng thoát lên
một ánh chớp trí tuệ, khái quát bản chất đích thực
của đời sống, cũng như ánh chớp loé lên của lưỡi
kiếm trí tuệ chặt đứt mọi chấp thủ, mọi bám víu,
mọi ảo tưởng về cuộc đời ./.
Phụ Lục
(Phần Dịch Nghĩa)
Kinh Giáo
Huấn Vắn Tắt Của Phật Lúc Sắp Niết Bàn
(cũng gọi là Kinh Giáo Huấn Ðể Lại Của Phật)
-oOo-
Ðức Phật Thích Ca Mâu
Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hoá độ
tôn giả Kiều Trần Như, thuyết pháp lần cuối cùng hoá độ
tôn giả Tu Bạt Ðà La. Những người có thể hoá độ, Ngài
đã hoá độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây
song thọ, Ngài sắp Niết Bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm,
hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đã vì các
đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh
pháp.
Các thầy Tỷ kheo, sau
khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính
tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà
được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao
cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng không khác
gì tịnh giới vậy.
Giữ tịnh giới thì các
thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà,
nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh
doanh tài bảo. Tất cả việc này, hãy tránh như tránh hố
lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai.
Những việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn,
đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp
với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng
thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được
tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc. Chú thuật,
thuốc tiên, giao hảo huyền quí, và thân thiết với họ,
rồi hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm.
Phaỉ tự đoan tâm, chánh niệm cầu độ. Không được che
dấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Ðối
với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và
biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không nên tích
trữ.
Ðó là Như Lai nói tóm
tắt về sự giữ giới. Giới thì chánh thuận với căn
bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba la đề
mộc xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có
năng lực huỷ diệt thống khổ.
Thế nên, các thầy
Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót.
Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có
tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sanh. Do
đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú
ẩn cho mọi thứ công đức.
Các thầy Tỷ kheo, đã
ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan,
không cho phóng túng vào năm thứ dục lạc.Như kẻ chăn trâu,
cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má
của người. Phóng túng năm thứ giác quan, thì không những
chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không còn giới
hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà
không được chế ngự bằng giây cương, thì sẽ mang người
lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời,
còn giặc giác quan họa đến nhiều kiếp tai hại rất
nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người
có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không
cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng
không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.
Các thầy Tỷ kheo, năm
thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại
phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn
cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn
cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát
mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ
không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không
có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng
nhảy vọt, khó mà ngăn cản ; các thầy phải cấp tốc
tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm
tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một
chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên,các thầy Tỷ
kheo, hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình.
Các thầy Tỷ kheo,
thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống
thuốc, ngon không ham dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ
thể cho khởi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị
mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng
vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát
thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện
niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng
sức lực con trâu của mình chịu đựng nhiều ít, không dùng
quá sức đến nỗi kiệt lực.
Các thầy Tỷ kheo, ban
ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì
giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ,
giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều
ác, sinh trưởng điều thiện. Ðừng vì lý do ngủ nghỉ mà
để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy
nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm
cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường
rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ
nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng
như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy
phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra.
Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà
ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn. Sự hổ thẹn là
phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc
sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp
của con người. Thế nên các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn
biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm
thời mà thôi, được phép quên mất đức tinh ấy. Mất
hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp,
không hổ thẹn thì không khác gì câm thú.
Các thầy Tỷ kheo,
nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các
thầy cũng phải tự kiềm chế tâm mình, đừng cho giận
dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra
lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại
đạo nghiệp, hư mất công đức. Ðức tính của Nhẫn,
giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức
Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức
mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ
một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không
thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao,
vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và danh
tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự
giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy
phải đề phòng một cách thường trực, đừng cho xâm
nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận
dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành
đạo, không có phương pháp để khống chế, thế nên giận
dữ thì còn thể tha thứ được. Còn người xuất gia hành
đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ thì
thật là bất đáng ; không khác gì giữa bầu trời mây
trong mà sấm sét loé lửa là điều không thích hợp.
Các thầy Tỷ kheo, hãy
tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp,
mình mặt áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất
thực để sống ; tự thấy như vậy mà kêu ngạo còn nổi
lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kêu ngạo là
điều mà thế nhân còn không nên có, huống chi người
xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự giáng mình
xuống mà đi khất thực?
Các thầy Tỷ kheo, tâm
lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các
thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh
quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không
thể như vậy. Vì thề các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình,
lấy đức tính chất trực làm căn bản.
Các thầy Tỷ kheo,
phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi
nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu
hồ, không dục vọng, nên không có cái hoạ đó. Chỉ có như
thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã thực tập, huống
chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham
muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người,
cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính
ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh
ngộ nào cũng thừa thãi, không bao giờ có cảm giác thiếu
thốn. Có ít ham muốn là có Niết Bàn. Ðó là hạnh ít ham
muốn.
Các thầy Tỷ kheo,
muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự
biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ, là giàu sang, vui
thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng
thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đàng cũng
vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo,
biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì
luôn luôn bị năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người
biết vừa đủ phải xót thương. Ðó là hạnh biết vừa đủ.
Các thầy Tỷ kheo,
muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy hãy thoát
ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách
thư thái. Người ở yên tĩnh thì chúa trời Ðế thích và
chư thiên đều tôn kính. Vì thế mà các thầy hãy thoát ly
đồ chúng của mình, và đồ chúng của người, ở đơn độc,
thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt
gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng
quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập
hợp lại thì vẫn bị cái hoạ khô gãy. Thế gian ràng
buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác gì voi
già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Ðó là
hạnh siêu thoát.
Các thầy Tỷ kheo, nỗ
lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế nên
cấc thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước
nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người
hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo
lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng
khó mà có được. Ðó là hạnh tinh tiến.
Các thầy Tỷ kheo,
cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ
trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh
niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế
nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm
trí. Mất chánh niệm thì mất công đức. Nếu chánh niệm có
sức lực vững mạnh thì dầu phải vào trong đám giặc ngũ
dục, cũng không bị chúng sát hại, tựa như tướng sĩ lâm
trận mà mặt áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hải gì
nữa. Ðó là hạnh không quên chánh niệm.
Các thầy Tỷ kheo,
tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm
ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái
chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn
luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định
được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp
đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí
tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy
mất. Ðó là hạnh thiền định.
Các thầy Tỷ kheo, có
trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự
dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là
trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực
hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất
gia, lại không phải thế tục, không còn biết còn gọi là
gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt
biển sinh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với
ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa
sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái
tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí
tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy
rõ nhất. Ðó là hạnh trí tuệ.
Các thầy Tỷ kheo,
nếu hý luận đủ thứ thì tâm rối loạn. Như vậy, tuy đã
xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ
kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí.
Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có
cách cấp tốc diệt trừ cái hoạ hý luận. Ðó là hạnh không
hý luận.
Các thầy Tỷ kheo, đối
với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất
tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể
hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một
cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành.
Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại
thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất
nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng
để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực,
tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi
một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như
Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn uống
hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người
dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người,
nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người
dẫn đường.
Các thầy Tỷ kheo, đối
với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có
thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà
không cầu giải đáp. Thế tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng
không ai chất vấn. Vì lẻ chư Tăng không có ai còn hoài
nghi gì nữa. Bấy giờ đức tôn giả A Nâu Lâu Ðà quán sát
tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch đức Thế Tôn,
mặt trăng có thể làm cho nó nóng lên, mặt trời có thể làm
cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy
thì không thể cho khác đi được. Ngài dạy khổ thì thật
là khổ, không thể làm cho vui lên ; tập là nguyên nhân
của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa ;
diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân
diệt thì kết quả cũng diệt ; đạo là phương pháp diệt
khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch
đức Thế tôn, đối với bốn chân lý, các vị Tỷ kheo đây
đã quyết định, không còn hoài nghi gì nữa.
Chư Tăng lúc ấy,
những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt
độ hãy còn bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe
Phật liền được hoá độ, như trong đêm tối mà mà điện
chớp sáng là thấy ngay đường đi. Còn những người tu
tập đã hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ
rằng, Thế Tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.
Do đó tôn giả A Nâu Lâu
Ðà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt
bốn chân lý, nhưng đức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đều
được kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ
thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo, không nên buồn rầu. Nếu Như
Lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì sự
kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan
rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi
tha đã có đầy đủ.Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích
lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hoá độ, thì ở
trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như Lai đã hoá độ
tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hoá độ, thì Như Lai cũng
đã tạo yếu tố hoá độ cho họ. Từ nay về sau, đệ tử
của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp
thân của Như Lai thường trú bất diệt.
Thế nên, các thầy
Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến
vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì
cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy phải
nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí
tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh,
không một thứ chi bền bỉ. Như Lai được diệt độ thì cũng
như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Ðây là vật tội
ác và đáng bỏ, giả hiệu là thân thể mà lại chìm ngập
trong biển cả già bệnh sống chết, như thế người có trí
tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này như
trừ bỏ kẻ thù?
Các thầy Tỷ kheo, hãy
thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát.
Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động,
đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi, các thầy hãy yên
lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như Lai muốn
diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu
của Như Lai.
-ooOoo-
[Hết] |