[BuddhaSasana]

[Unicode Fonts]


Chiếu Kiến Nghiệp Xứ - Vipassana Kammatthana
Tỳ Kheo Giác Chánh
Nhâm Thân, P.L. 2536 - 1992


       

Chương Sáu

Tri Vọng Diệt Vọng


Phân biệt từng phần của 6 căn, 6 cảnh, 6 thức là để hành giả dễ nhận thức cái nào Căn là Căn, cái nào Cảnh là Cảnh, và cái nào Thức là Thức. Chúng luôn sinh diệt, diệt sinh, chứ không phải là chỉ có một Tự Ngã đơn thuần và bất biến như chúng ta thường lầm tưởng. Nhưng vì chúng sinh diệt quá nhanh khiến cho chúng ta nếu không có học Abhidhamma và hành Vipassana, cứ tưởng có một Tự Ngã đơn thuần bất biến. Cũng giống như cái quạt máy có 3 cánh, nhưng khi cắm điện vào, cánh quạt xoay quá nhanh có thể khiến cho trẻ em lầm tưởng là một vòng tròn kín bít. Hoặc cái chong chóng có hai cánh, người ta chấm vào cánh chong chóng một điểm đỏ hoặc xanh. Khi gặp gió, cánh chong chóng xoay quá nhanh, ta nhìn vào thấy một vòng tròn đỏ, hoặc một vòng tròn xanh, tưởng chừng như vòng tròn ấy liền nhau, nhưng sự thật chỉ có một điểm đỏ hoặc xanh. Sở dĩ có vòng tròn đỏ hoặc xanh là vì nhiều lần xoay tròn quá nhanh, mắt ta nhìn không kịp nên thấy chỉ có một vòng tròn đỏ hoặc xanh vậy thôi.

Ðể hành giả dễ nhận rõ lý Vô Thường (sinh diệt, đổi thay) và Vô Ngã (không có một cá thể đơn thuần), chúng tôi xin đưa ra nhiều trường hơp khác nhau, và thường xẩy ra hàng ngày trong đời sống, rồi phân tích từng trường hợp một cho hành giả dễ nhận thức. Như khi " đi", chân dở lên, bước tới, để xuống, ta thử hỏi "Cái gì dở chân lên, bước tới và để chân xuống?". Một Linh hồn hay một Tự ngã, hay một Cá thể nào đó đi chăng? Không! Chỉ có sự đi chứ không có người (Tự Ngã, Linh Hồn) đi. Cái chân dở, bước là Sắc. Sắc gồm có Ðất, Nước, Lửa, Gió. Tư tưởng điều khiển cái chân dở, bước là Danh. Danh ở đây được chia ra có đến bốn uẩn: Thọ, Tưởng, Hành, và Thức. Như vậy, không phải là "người đi" mà chỉ có ngũ uẩn di động mà thôi. Thấy rõ thực tương của ngũ uẩn là Tuệ Vipassana vậy.

Khi co tay vào, hoặc duỗi tay ra, chúng ta thử hỏi "Cái gì co tay vào, hoặc duỗi tay ra?" Cái tay co vào, hoặc duỗi ra là Sắc. Sắc ở đây đại khái có 4: Ðất (Những gì có trạng thái cứng hoặc mềm), Nước (những gì có đặc tính chảy ra, hoặc quyến tụ lại), Lửa (những gì có tướng trạng nóng hoặc lạnh), Gió (những gì có trạng thái di động, hoặc phồng lên). Ý nghĩ điều khiển tay co vào, hoặc duỗi ra là Danh. Danh ở đây là Tứ Danh Uẩn: Thọ (những cảm giác khổ, lạc, ưu, hỷ, xả), Tưởng (những cảm tưởng nhớ ra cảnh Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc, Pháp), Hành (những tư duy thiện, bất thiện, và vô ký), Thức (ở đây là những Tâm Dục Giới). Như vậy, chỉ có ngũ uẩn di động chứ không có người (Tự Ngã, Linh hồn) co tay vào, hoặc duỗi tay ra.

Hoặc khi đứng, chúng ta thử tìm hiểu "Cái gì Ðứng?" Chỉ có tướng trạng Ðứng (ngũ uẩn trụ) chứ không có "người đứng" (không có Tự Ngã đứng). Hình tướng " đứng" đây nếu phân tích ra thì có năm nhóm đang kết hợp lại:

  1. Sắc Uẩn (Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong, Nhãn Vật, Nhĩ Vật, Tỷ Vật, Thiệt Vật, Thân Vật, Sắc, Khí, Vị, một sắc tính -- Nam tính hoặc Nữ tính, Ý vật, Mạng quyền, Dưỡng thực tố, Hư không, Thân biểu tri -- khi nào nói mới có khẩu biểu tri, Khinh, Nhu, Thích nghiệp, Sinh, Tiến, Dị, Diệt).
  2. Thọ Uẩn (Nhãn thọ, Nhĩ thọ, Tỷ thọ, Thiệt thọ, Thân thọ, Ý thọ. Trong 6 thọ này có cả Khổ, Lạc, Ưu, Hỷ, Xả).
  3. Tưởng Uẩn (Sắc tưởng, Thinh tưởng, Khí tưởng, Vị tưởng, Xúc tưởng, Pháp tưởng).
  4. Hành Uẩn (Thân hành, Khẩu hành, và Ý hành).
  5. Thức Uẩn (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức).

Như vậy cái gọi là "người đứng " đây chỉ là năm uẩn hiệp lại, ngoài năm uẩn không có một cá thể như Tự ngã hay Linh hồn. Ðúng như Tỳ Khưu ni Dhammadinna nói với Ông Visakha: "Này gia chủ, cái gọi là Tự ngã phải được hiểu là Ngũ Uẩn, chính năm Uẩn hiệp lại, người ta gọi là Tự Ngã. Ngoài ngũ uẩn không có Tự Ngã, nhưng cũng không có một Tự Ngã trong ngũ uẩn".

Hoặc khi nằm, hành giả có thể theo dõi hơi thở ra vô dưới hình thức phồng xẹp của cái bụng, nhưng không cần nói ra tiếng "Phồng à, Xẹp à", hay thì thầm, hoặc nghĩ trong Tâm với cái tên "Phồng, Xẹp", mà chỉ cần ghi nhận trạng thái Phồng Lên và Xẹp Xuống của cái bụng mà thôi. Khi thở vô (phồng) hành giả biết rõ, khi thở ra (xẹp) hành giả biết rõ; và khi hơi thở vô, hay hơi thở ra dừng lại hành giả cũng phải biết rõ.

Ðể hành giả dễ hiểu và hiểu rõ ràng cách niệm hơi thở, nhất là dễ nhận ra tướng trạng sinh diệt của hơi thở (thân hành), tôi xin phân tách kỹ như sau: Khi bắt đầu thở vô, cái bụng cũng bắt đầu phồng cho đến khi không còn thở vô nữa, cái bụng cũng không còn phồng thêm nữa, thời gian ấy ước chừng 10 giây đồng hồ, thì đây đầu tiên (giây thứ nhất) là trạng thái sinh của hơi thở vô, giây cuối (giây thứ 10) là trạng thái Diệt của hơi thở vô, 8 giây giữa (từ giây thứ hai đến thứ chín) là trạng thái Trụ của hơi thở vô. Sau khi không còn thở vô nữa (hơi thở vô diệt) thì bắt đầu ngưng, thời gian ngưng, ước chừng 6 giây, thì giây đầu là trạng thái Sinh của hơi thở dừng lại, giây cuối là trạng thái Diệt của hơi thở dừng lại, bốn giây giữa là trạng thái Trụ của hơi thở dừng lại. Sau khi hơi thở không còn dừng lại nữa (hơi thở dừng lại diệt) thì bắt đầu thở ra, ước chừng 10 giây, thì giây đầu là trạng thái Sinh của hơi thở ra, giây cuối là trạng thái Diệt của hơi thở ra, 8 giây giữa là trạng thái Trụ của hơi thở ra. Sau khi không còn thở ra nữa cái bụng cũng không còn xẹp thêm nữa (hơi thở ra diệt) thì bắt đầu dừng lại. Cứ như thế, hành giả ghi nhận từng giai đoạn của hơi thở.

Bây giờ chúng ta hãy suy nghiệm xem trong oai nghi nằm, niệm hơi thở vô (phồng), và hơi thở ra (xẹp) ấy. Ai nằm, cái gì nằm? Nếu dùng trí tuệ quan sát như nhà khoa học thí nghiệm thì ta sẽ thấy đúng như Abhidhamma giải thích: Chỉ có hành vi nằm chứ không có người (tự ngã) nằm. Bởi tiếng gọi là "người" tức là ngũ uẩn. Trong 5 uẩn đó:

1. Sắc Uẩn

Sắc uẩn tức là Thân. Thân nếu phân ra Tứ đại thì có: 20 thể thuộc về Ðất: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, bầy nhầy, bao tử, phổi, ruột già, ruột non, vật thực, phẩn, óc; 12 thể thuộc về Nước: mật, đàm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhơt, nước tiểu; 4 thể thuộc về Lửa: lửa làm thân ấm, lửa làm cho thân nóng, lửa làm cho tiêu hóa vật thực, lửa làm cho thân già; 6 thể thuộc về Gió: gió từ dưới quạt lên (như ợ), gió từ trên quạt xuống (như địt), gió quạt ở ngoài ruột, gió quạt ở trong ruột, gió làm cho thân cử động (như co duổi tay chân v..v.), gió ra vô nơi miệng mũi (tức hơi thở).

2. Thọ Uẩn

Thọ uẩn tức là những tình cảm, chẳng hạn như lúc hành giả đang Trụ trong oai nghi nằm, và đang theo dõi hơi thở vô (phồng), ra (xẹp). Nếu hành giả có cảm giác sự dễ chịu của Thân (như mát mẻ, hay êm ấm) thì đó là Thọ Lạc (sướng thân), nếu có cảm giác khó chịu của Thân (như nóng nực, đau nhức ...) đó là Thọ Khổ (khổ thân), nếu có cảm giác dễ chịu của Tâm (vui mừng, hoan hỷ) đó là Thọ Hỷ (tâm vui vẻ), nếu có cảm giác khó chịu của Tâm (sầu, não, ai, bi...) đó là Thọ Ưu (tâm lo buồn), nếu có cảm giác tự nhiên (không khổ, không lạc, không ưu, không hỷ) đó là Thọ Xả (tâm thản nhiên đối với cảnh).

3. Tưởng Uẩn

Tưởng uẩn tức là những sự hiểu biết do đã hiểu biết (nhận ra cái gì mà trước đã gặp) như hành giả đang nằm và đang theo dõi hơi thở vô, ra, bằng cách phồng, xẹp. Khi hơi thở vô, cái bụng phồng lên hành giả thấy và niệm "Phồng à" và khi hơi thở ra, hành giả thấy và niệm "Xẹp à". Sở dĩ hành giả gọi là "phồng" khi cái bụng căng phồng lên, và gọi là "xẹp" khi cái bụng xẹp xuống là do trước đây cha mẹ cô bác đã dạy như vậy. Bây giờ mỗi khi gặp lại (tức để ý đến nó) thì hành giả biết cái này là "phồng" và cái này là "xẹp". Ðó là Sắc tưởng.

Nếu hành giả không nhìn cái bụng phồng lên và xẹp xuống mà chỉ nghe tiếng hơi thở của mình khi thở vô, ra có tiếng như khò khè, hay tiếng thở phì phào, hổn hển, hành giả niệm "khò khè à!" Ðó là Thinh tưởng (vì trước đây đã có người dạy như vậy gọi là khò khè). Nếu hành giả khi thở vô nhằm mùi nước hoa, hành giả niệm "Thơm à!" Ðó là Hương tưởng (vì trước đó đã có người dạy "mùi như vậy gọi là mùi thơm"). Nếu hành giả khi ăn nhai nhằm miếng ớt, hành giả Niệm "Cay à!". Ðó là Vị tưởng (vì trước kia, đã có người dạy "vị của ớt gọi là cay"). Nếu hành giả nằm cấn phải một vật gì, hành giả niệm "Cứng à!" Ðó là Xúc tưởng (vì trước đã có người dạy như vậy gọi là "cứng"). Nếu hành giả đang nằm, bỗng bực bội một việc gì đó, hành giả niệm "Sân à!". Ðó là Pháp tưởng (Vì thuở trước đã có người dạy "tâm bực bội, khó chịu gọi là "Sân").

Tất cả cái biết của Tưởng đều là Cảnh Chế Ðịnh (Pannatti), vì ngôn ngữ do người ta định đặt ra, nó cũng là sự thật nhưng chỉ là sự thật của Thế tục (người ta định đặt để tỏ cho nhau được hiểu những gì muốn trình bày mà thôi), nên gọi là Tục đế (Sammuti-sacca). Nếu hành giả niệm theo cái biết của Tưởng (Sanna) chỉ có thể phát sinh Niệm (Sati) mà thôi chứ không phát sinh được Tuệ (Panna). Còn như hành giả niệm theo cái biết của Thức (chỉ biết trạng thái của sự vật ấy, chứ không gọi là chi chi cả) mặc dù cũng là phát sinh Niệm nhưng có thể phát sinh được Tuệ vì cái biết của Thức (Vinnana) rất gần với Tuệ. Nhận được bộ mặt thật của sự vật (bổn lai diện mục) thì sẽ thấy được sinh diệt của sự vật, cái biết thấy sự sinh diệt của sự vật là cái thấy biết (tri kiến) của Tuệ. Vì vậy, hành giả cần Niệm (ghi nhận) cái biết của Thức (bất tùy phân biệt) chứ không nên niệm theo cái biết của Tưởng.

Nhiều vị thiền sư viện lý do là hành giả sơ cơ khó niệm theo Cảnh Chân đế (Paramattha-sacca) của Thức nên cho niệm theo Cảnh Tục đế (Sammuti-sacca) của Tưởng. Thậm chí, nhiều vị dẫn chứng Phật ngôn. Rõ ràng Ðức Phật dạy niệm cảnh Chân đế tức là ghi nhận cái biết của Thức, thế mà những vị ấy giảng dạy một lúc rồi trở thành cảnh Tục đế, chỉ niệm theo cái biết của Tưởng! Như đoạn kinh Ðức Phật dạy ông Bahiya: "Khi thấy một vật gì, chỉ biết là thấy. Khi nghe một tiếng gì, chỉ biết là nghe... Cho đến khi Tâm suy nghĩ một việc gì, chỉ biết là suy nghĩ!" Các vị Thiền Sư lại giảng dạy hành giả: "Khi thấy một vật gì hãy niệm 'Thấy à! Thấy à!', khi nghe một tiếng gì, hãy niệm 'Nghe à! Nghe à!' cho đến khi Tâm suy nghĩ một việc gì, hãy niệm 'Suy nghĩ à! Suy nghĩ à!' " Hành giả nên lưu ý chỗ này, đây là chỗ bí yếu, chỉ cách đường tơ kẽ tóc -- giữa Tưởng và Thức -- (cũng như giữa Thức và Trí vậy, nhưng Thức gần với Trí hơn Tưởng). Ðồng ý là hành giả sơ cơ dĩ nhiên là khó nhận thức được, nhưng lần lần rồi sẽ nhận thức được, chớ chiều theo hành giả, chỉ dạy lệch lạc thì rất nguy hiểm! Cổ nhân có câu: "Những điều sai lầm dù có một triệu người chấp nhận chỉ là cộng thêm một triệu cái sai lầm, chứ không phải vì một triệu người chấp nhận mà trở thành một tí xíu chân lý được đâu! Vì chân lý không biết rùn xuống, cái gì rùn xuống không phải là chân lý!"

Thật vậy, nếu là chủ nhân của một hiệu buôn thì có thể chiều theo thị hiếu của khách hàng, nhưng là vị thiền sư thì không nên đắc nhân tâm với hành giả bằng cách là biến cải chân lý thực hành theo tri kiến của họ. Và ngược lại, nếu là khách hàng thì có thể đòi hỏi chủ hiệu buôn theo sở thích của mình. Nhưng là hành giả thì phải cố gắng tầm cầu chân lý theo sự hướng dẫn của thiền sư. Vì chủ hiệu buôn cần nhiều khách hàng để được tiền, còn hành giả thì cần phải nương theo hướng dẫn của thiền sư để được thọ pháp. Vả lại, đâu phải mỗi hành giả mới tập hành đều là kém Trí, mà thiền sư cứ viện lý do là hành giả sơ cơ phải tập theo phương pháp giả tạm. Lại nữa, cái gì đã đến với người ta đầu tiên, cái đó sẽ thành thói quen (tập quán) khó mà sửa về sau. Dù có sửa được cũng mất công vô cùng, chi bằng cứ dạy đúng phương pháp, ban đầu khó nhưng sau sẽ dễ, khỏi phải ngỡ ngàng nhiều lần, và có thể khiến hành giả sinh hoài nghi.

4. Hành Uẩn

Hành uẩn là những chủ ý muốn làm, có cả Thiện, Bất Thiện và Vô ký. Hay nói cách khác là tư cách Tâm xử sự với cảnh vật, có cả tốt, xấu, và không tốt không xấu. Như một người có đức tin đối với Ðấng tối cao nào đó chỉ vì nghe người khác nói rồi tin theo đó cũng là Tâm tốt nhưng thiếu Trí nên có thể hiến dâng trọn đời mình và làm bất cứ một việc gì dù việc đó có thể nguy hiểm đến tánh mạng chẳng hạn. Khởi điểm là tốt, nhưng lần lần làm các việc tội ác như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc là xấu. Chúng ta nên phân biệt: Ðức tin sơ khởi dù mê tín vẫn là Thiện (thiện dục giới ly trí), nguyện hiến dâng thân mạng cho đấng tối cao ấy là Phúc Hành, nhưng khi Tâm bắt đầu nghĩ đến việc làm các tội ác như sát sinh đó là Phi Phúc Hành. Chớ có tưởng lầm Ðức tin (dù mê tín) là Bất thiện, là Phi phúc hành. Ngược lại, càng không nên nghĩ các việc làm sau đó như sát sinh là Thiện, là Phúc hành. Và cũng không nên nghĩ rằng Tâm có đức tin (dù mê tín) và Tâm nghĩ đến cách làm tội ác cũng là một thứ Tâm. Tâm có niềm tin nơi Thượng đế là Tâm Thiện dục giới ly trí. Tâm sai khiến làm việc sát sinh, ác khẩu là Tâm Sân. Tâm sai khiến làm việc trộm cắp, tà dâm, ỷ ngữ là Tâm Tham. Tâm Tham và Tâm Sân sai khiến làm bất cứ việc chi đều là Phi phúc hành. Trái lại, Tâm Thiện Dục Giới dù do hợp trí hay ly trí sai khiến làm bất cứ việc chi như bố thí, trì giới, hành thiền đều là Phúc hành. Không bao giờ có việc Tâm Thiện làm việc sát sinh, trộm cắp; và ngược lại, Tâm Tham, Tâm Sân không thể làm việc trì giới, tu thiền. Mỗi việc làm có một thứ Tâm riêng, vì không phân biệt được chân lý này nên người ta dễ hiểu lầm rằng có một thứ Tâm làm nhiều việc khác nhau (cả Thiện và Bất thiện).

Ðể hành giả dễ nhận ra Tâm Thiện và Bất Thiện (Phúc hành và Phi phúc hành) tôi xin cử ra một số vấn đề như sau:

Khởi tâm muốn trộm cắp nhưng cảm thấy xấu hổ nên thôi. "Tâm muốn trộm cắp" là Tâm Tham, đồng sinh với Hành Uẩn (Phi phúc hành), gồm có Tham, Si, Vô tàm, Vô quý, Phóng dật ... "Cảm thấy xấu hổ nên thôi" là Tâm Thiện Dục Giới, đồng sinh với Hành Uẩn (Phúc hành), gồm có Tàm, Quý, Vô tham, Vô Sân, Hành xả ...

Khởi Tâm muốn Bố thí nhưng sợ hao phí của cải nên thôi. "Tâm muốn bố thí" là Tâm Thiện Dục Giới, đồng sinh với Hành Uẩn (Phúc hành), gồm có Tín, Niệm, Vô tham, Vô Sân, Bi, Tùy hỷ ... "Sợ hao phí của cải nên thôi" là Tâm Sân đồng sinh với Hành Uẩn (Phi phúc hành), gồm có Sân, Tật, Lận, Hối, Si, Vô tàm, Vô Quý, Phóng dật ...

Khởi tâm đi nghe Pháp, nhưng khi nghe Pháp nhất là đề Pháp "Vô Ngã" bèn sinh hoài nghi, không tin và bất mãn rồi bỏ ra về với ý nghĩ có tự ngã thường hằng nói Vô Ngã là sai! "Tâm muốn nghe Pháp" ở đây là Tâm Thiện Dục Giới ly trí đồng sinh với Hành Uẩn (Phúc hành), gồm có như Tẩm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỷ, Dục ... " Sinh hoài nghi không tin" là Tâm Si hoài nghi đồng sinh với Hành Uẩn (Phi phúc hành) gồm có Si, Vô tàm, Vô Quý, Phóng dật, Hoài nghi ... "Bất mãn" là Tâm Sân đồng sinh với hành Uẩn (Phi phúc hành), gồm có Sân, Tật, Lận, Hối ... "Nghĩ có Tự ngã thường hằng" là Tâm Tham tương ưng Tà Kiến đồng sinh với Hành Uẩn (Phi phúc hành), gồm có Tham, Tà kiến, Ngã mạn, Si, Vô tàm, Vô Quý, Phóng dật, Hôn Trầm, Thụy miên.

Khởi tâm muốn nghe Pháp, khi nghe Pháp hiểu được chân lý, phát đức tin Tam Bảo bèn xin thọ trì Qui giới, và bố thí v.v... "Tâm muốn nghe Pháp" là Tâm Thiện dục giới có thể hợp trí hoặc ly trí đồng sinh với Hành Uẩn (Phúc hành), gồm có Tầm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỷ, Dục... "Nghe Pháp hiểu biết được chân lý" là Tâm Thiện Dục Giới tương ưng Trí Tuệ đồng sinh với Hành Uẩn (Phúc hành), gồm có Tín, Niệm, Tàm, Quý, Vô tham, Vô sân, Hành xả, Tịnh thân, Tịnh tâm, Khinh thân, Khinh tâm, Nhu thân, Nhu tâm, Thích thân, Thích tâm, Thuần thân, Thuần tâm, Chánh thân, Chánh Tâm, Trí Tuệ ... "Phát đức tin Tam Bảo, thọ trì, qui giới, bố thí v.v..." đều là Tâm Thiện Dục Giới hợp trí đồng sinh với Hành Uẩn (như trên).

Khởi tâm muốn đi chùa làm phước như Dâng Y, Trai Tăng. Ta phải xem xét kỹ coi muốn đi làm phước ấy là do nguyên nhân gì? Như muốn "làm chủ lễ dâng y", do người khác nói "có phước" rồi tin mà muốn làm theo như vậy là Nhân lành (Phúc hành). Nhưng cũng có sự suy nghĩ tiếp theo sau: "Ta làm chủ lễ dâng y, ta sẽ được nhiều người khen ngợi", "Ta mong được khen ngợi" là Tâm Tham (ham danh) như vậy có nhân bất thiện (Phi phúc hành). Hoặc nghĩ "làm chủ lễ dâng y có phước lớn, đời sau ta được giàu sang, có sắc đẹp, được lên cõi trời v..v..." Tâm nghĩ "dâng y có phước" là Tâm Thiện Dục Giới hợp trí, là nhân lành (Phúc hành) nhưng ý nghĩ sau đó là Tâm Tham, do nhân Bất thiện (Phi phúc hành), hoặc nghĩ rằng làm chủ lễ dâng y được phước lớn, để đời sau này gặp Phật, được xuất gia dưới nghi thức "Ehi-bhikkhu". Như vậy Tâm khởi đầu và Tâm suy nghĩ tiếp theo sau đều Tâm Thiện Dục Giới hợp trí, là nhân thiện (Phúc hành), hoặc nghĩ dâng y có phước rồi làm, nhưng trong lúc gặp những chuyện trái tai gai mắt, bất bình, sân hận khởi lên ... thì nên biết rằng việc dâng y là Phúc hành, nhưng xen vào những Tâm Sân là Phi phúc hành. Cái nào Phúc hành là Phúc hành, cái nào Phi phúc hành là Phi phúc hành. Chớ có lầm lẫn mà đồng hóa tất cả Tâm khi làm việc dâng y đều là Thiện hoặc Bất thiện. Hay hệ thống hóa tất cả việc làm suốt thời gian dâng y đều Thiện hay Bất Thiện. Việc nào Thiện là Thiện, việc nào Bất thiện là Bất thiện.

Hành giả phải khéo phân biệt Tâm mình và việc làm của mình như người lựa gạo. Trong một chén gạo có gạo nguyên, có gạo nửa hột, có thóc, có sạn ... Với người có mắt sáng, họ sẽ phân biệt rõ: Ðây là gạo nguyên, đây là gạo nửa hột, đây là thóc, đây là sạn ... Chứ không nên quơ đũa cả nắm nói theo tư ý một cách vô ý thức rằng chén này toàn gạo không, hay chén này thóc không, hay chén này sạn không. Với người có trí, có học Abhidhamma và hành Vipassana, vị ấy sẽ phân biệt rõ như người có mắt sáng lượm gạo: đây là gạo nguyên (Tâm thiện hơp trí), đây là gạo nửa hột (Tâm thiện ly trí), đây là thóc (Tâm tham), đây là sạn (Tâm sân)...

Chúng ta gặp không biết bao trường hợp: Cùng một sự kiện, đối với người thích thì cái gì họ cũng cho là Thiện, thậm chí việc làm ấy kéo dài cả một năm, một tháng, hoặc một giờ. Trái lại, người không thích thì họ cho toàn là Bất Thiện. Nhưng sự thật thì đừng nói chi thời gian lâu cả một đời, một năm, một tháng, một ngày, một giờ hay một phút, mà chỉ trong một giây đã có triệu triệu Tâm sinh diệt. Trong số triệu triệu cái Tâm sinh diệt đó đã có hàng ngàn lộ trình tâm diễn tiến qua cả các Môn. Trong mỗi lộ trình của Tâm ấy, đối với phàm nhân như chúng ta thì tham, sân, si đầy dẫy, thỉnh thoảng mới có được một số Tâm Thiện khởi lên. Vì vậy, người hành Vipassana, vị Thiền sư luôn ngăn cấm không cho hành giả bày việc làm phước, trai tăng, v.v... vì việc làm ấy có thể có xen Bất thiện, bị phiền não chi phối và khó kiểm soát được Tâm!

Nếu hành giả là một vị xuất gia, thường ưa thích việc thuyết giảng Giáo Pháp cho người khác nghe, cũng nên phân biệt rõ khi khởi Tâm muốn đi thuyết pháp, coi việc "muốn đi thuyết pháp" đó do nguyên nhân nào (nhân Thiện hay Bất thiện) và trong khi thuyết pháp đó thường là Tâm thiện sinh khởi nhiều hay Bất thiện sinh khởi nhiều. Nếu muốn thuyết pháp cho người khác nghe để được phước, để đáp lại đức tin của người cư sĩ, để mở mang Chánh Pháp, để nối huệ mạng của chư Phật v.v... thì đó là nhân lành (Phúc hành). Trái lại, nếu muốn đi thuyết pháp để được danh, hoặc được lợi lộc, hay để công kích người khác v.v... thì đó là nhân chẳng lành (Phi phúc hành). Lại nữa, trong khi đang thuyết pháp, tâm hướng về Chánh Pháp, suy nghĩ Chánh Pháp v.v... là nhân Thiện (Phúc hành). Nhưng nếu để ý đến lễ vật sẽ được dâng (Pháp sư), hay để ý đến phụ nữ hoặc để ý thù ghét ai v.v... thì lại là nhân Bất Thiện (Phi phúc hành). Vì vậy, hành giả khi khởi Tâm muốn đi thuyết Pháp nên quán xét tâm mình và dù Thiện hay Bất Thiện cũng chẳng nên đi, bởi sẽ bị chi phối dễ dàng, nhất là phải tiếp xúc nhiều người. Phương pháp tu tập Vipassana, Ðức Thế Tôn có dạy rằng: EKAYANO MAGGO -- NHẤT THỪA Ðạo (Chỉ một xe đi trên một con đường).

5. Thức Uẩn

Thức uẩn là những cái biết. Biết Cảnh gọi là Tâm, bị Tâm biết gọi là Cảnh. Theo Abhidhamma, Tâm có 6 loại, 121 thứ. Tâm sinh diệt rất nhanh, chỉ trong một giây (giây đồng hồ, theo bản xưa là một khẩy móng tay) Tâm sinh diệt triệu triệu cái (lần). Ðể hành giả dễ nhận thức về Thức Uẩn trong khi cần Niệm Tâm, ở đây sẽ trình bày và phân tích sự diễn tiến của Tâm thức bằng các lộ trình tâm như sau:

Nhãn Thức là cái biết Cảnh Sắc nương nơi Nhãn Căn, có hai thứ. Một thứ biết Cảnh Sắc xấu gọi là Tâm Nhãn Thức quả Bất thiện thọ xả. Một thứ biết Cảnh tốt gọi là Tâm Nhãn thức quả Thiện vô nhân thọ xả. Cả hai Tâm Nhãn Thức đều có 7 Tâm Sở (sở hữu tâm) biến hành như nhau: (Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền "Căn", và Tác ý). Tâm Nhãn thức chỉ có khởi lên một cái (lần) trong mỗi lộ trình tâm như sau:

Hộ kiếp, Hộ kiếp Quá khứ, Hộ kiếp Rúng động, Hộ kiếp dứt dòng, Nhãn môn hướng Tâm, Nhãn thức, Tiếp thâu, Quan sát, Xác định, Ðổng lực 1, Ðổng lực 2, Ðổng lực 3, Ðổng lực 4, Ðổng lực 5, Ðổng lực 6, Ðổng lực 7, Na cảnh 1, Na cảnh 2, Hộ kiếp.

Trừ hai Sát na (Hộ kiếp) đầu và cuối, còn lại 17 Sát na (lần) giữa là một lộ trình tâm đầy đủ nhất. Cũng có những lộ trình tâm ngắn hơn như: Có 15 sát na (trừ 2 cái Na cảnh), Có 8 Sát na (Trừ 7 cái Ðổng lực và 2 cái Na cảnh), nhưng thật sự thì mỗi lộ trình tâm đều đủ 17 Sát na là nếu không có Na cảnh và Ðổng lực thì Hộ kiếp quá khứ được lập lại nhiều lần cho đủ số 17 Sát na (cái). Mỗi cái Tâm (sát na) đều có 3 sát na tiểu: Sinh, Trụ, Diệt. Khoảng giữa của các lộ trình tâm là Hộ Kiếp được diễn tiến vô số kể. Trong mỗi cách xử sự hàng ngày trong đời sống chúng ta, lộ trình tâm Nhãn thức được lập đi lập lại bằng nhiều lộ trình tâm như vậy mới có thể giải quyết được một vấn đề. Dĩ nhiên là Tâm Nhãn thức cũng như những Tâm khác phải sinh diệt nhiều lần và liên tục, nên người xưa nói: "Liền như nước chảy, tợ in xe vòng."

Nhĩ Thức là cái biết Cảnh Thinh nương nơi Nhĩ Căn. Có hai thứ: một thứ biết cảnh thinh xấu (tiếng làm Tâm khó chịu) gọi là Tâm Nhĩ Thức quả bất thiện thọ xả; một thứ biết cảnh tốt (những tiếng làm Tâm dễ chịu) gọi là Tâm Nhĩ Thức quả thiện vô nhân thọ xả. Cả hai thứ Tâm Nhĩ Thức đều có 7 Tâm Sở biến hình như nhau (Xúc, Thọ...). Tâm Nhĩ Thức chỉ khởi lên một lần (cái) và cũng ở vị trí cố định trong mỗi lộ trình tâm y như nhãn thức.

Tất cả đều giống như lộ trình tâm Nhãn Thức, chỉ khác là ở vị trí của một Sát na Tâm nhãn thức trong lộ trình tâm đổi ra Tâm Nhĩ Thức. Và Tâm Nhãn Thức thì biết Cảnh Sắc, còn Tâm Nhĩ Thức thì biết Cảnh Thinh. Chính sự hiểu biết rõ rệt về sự sinh diệt của Tâm thức như lộ trình tâm đã nêu trên, hành giả mới nhận thức được lẽ Vô Thường, Khổ não, Vô Ngã của Danh Sắc và khởi Tâm nhàm chán, muốn tìm con đương thoát ly ngũ uẩn. Ðúng như Phật ngôn: "Chư Hành đều Vô Thường, với Trí Tuệ thấy rõ, đau khổ được nhàm chán, đó là Thanh Tịnh Ðạo."

Tỷ Thức là cái biết Cảnh Khí (hơi mùi) nương nơi Tỷ Căn. Có hai thứ: một thứ biết Cảnh khí tốt (hương, mùi thơm) gọi là Tâm Tỷ Thức quả thiện vô nhân thọ xả; một thứ biết cảnh khí xấu (xú, mùi hôi, thúi) gọi là Tâm Tỷ Thức quả bất thiện thọ xả. Cả hai thứ Tâm Tỷ Thức đều có 7 Tâm Sở biến hành như nhau. Tâm Tỷ Thức cũng khởi lên trong mỗi lộ trình tâm một lần như Tâm Nhãn Thức. Chỉ khác là Tâm Tỷ Thức sinh khởi ở vị trí mà Tâm Nhãn Thức sinh khởi mà thôi. Và cũng ở vị trí này mà Tâm Nhãn Thức biết cảnh Sắc, Tâm Nhĩ Thức biết Cảnh Thinh, còn Tâm Tỷ Thức biết Cảnh Khí (Hơi hay mùi). Hành giả nhận thức được sự sinh và diệt của Tâm Tỷ Thức như lộ trình tâm đã nói trên, cũng có nghĩa là hành giả thấy được sự Vô Thường, Khổ não, Vô Ngã của Danh Sắc, và khởi lên Tâm nhàm chán, muốn tìm con đường thoát ly Danh Sắc. Ðúng như Phật ngôn: "Chư Hành đều khổ não, với Trí tuệ thấy rõ, đau khổ được nhàm chán, đó là Thanh Tịnh Ðạo."

Thiệt Thức là cái biết Cảnh Vị nương nơi Thiệt căn. Có hai thứ: một thứ biết Cảnh vị tốt (ngon, ngọt) gọi là Tâm Thiệt Thức quả thiện vô nhân thọ xả; một thứ biết Cảnh Vị xấu (cay, đắng khó chịu) gọi là Tâm Thiệt Thức quả bất thiện thọ xả. Cả hai thứ Tâm Thiệt Thức đều có 7 Tâm Sở biến hành như nhau. Tâm Thiệt Thức cũng khởi lên chỉ có một lần trong mỗi lộ trình tâm như Tâm Nhãn Thức. Cũng chỉ khác là Tâm Thiệt Thức sinh khởi ở vị trí mà Tâm Nhãn Thức sinh khởi mà thôi. Và cũng ở vị trí này mà Tâm Nhãn Thức biết cảnh Sắc, Tâm Nhĩ Thức biết Cảnh Thinh, Tâm Tỷ Thức biết Cảnh Khí, còn Tâm Thiệt Thức biết Cảnh Vị. Hành giả nhận biết được sự sinh và diệt của Tâm Thiệt Thức qua lộ trình tâm đã nói trên, cũng có nghĩa là biết được sự Vô thường, Khổ não, Vô Ngã của Danh Sắc. Và sẽ khởi lòng nhàm chán Danh Sắc, muốn tìm con đường thoát khỏi Danh Sắc. Ðúng như Phật ngôn: "Các Pháp đều Vô Ngã, với Trí tuệ thấy rõ, đau khổ được nhàm chán, đó là Thanh Tịnh Ðạo."

Thân Thức là cái biết Cảnh Xúc (Cứng, Mềm, Nóng, Lạnh, Lay động, căng phồng) nương nơi Thân căn. Có hai thứ: một thứ biết Cảnh xúc tốt (sung sướng) gọi là Tâm Thân Thức quả thiện vô nhân thọ lạc; một thứ biết Cảnh xúc xấu (đau nhức) gọi là Tâm Thân Thức quả bất thiện vô nhân, thọ khổ. Cả hai thứ Tâm Thân Thức đều có 7 Tâm Sở biến hành như nhau. Tâm Thân Thức cũng khởi lên chỉ có một lần trong mỗi lộ trình tâm như Tâm Nhãn Thức. Hành giả nhận biết sự sinh diệt của Tâm Thân Thức trong mỗi lộ trình tâm dù là Thân thức Thọ Lạc, hay Thân Thức Thọ Khổ đều là Vô Thường, Khổ não, Vô Ngã. Ðúng như Phật ngôn "Lạc là khổ, Khổ là gai nhọn" bởi vì "Hữu vi không thường thì phải sinh diệt, dứt sinh diệt rồi mới thật an vui... "

Ý Thức là cái biết Cảnh Pháp (Tự khởi trong Tâm, có tướng trạng riêng biệt, ngoài ra 5 cảnh trên) và cũng biết cảnh ngũ. Có đến 111 thứ Tâm Ý Thức: có 3 thứ gọi là Ý Giới và 108 thứ gọi Ý Thức Giới. Trong ba thứ Tâm Ý Giới đó, một thứ sinh trước ngũ song thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân thức) là Ngũ môn hướng Tâm (Khán ngũ môn), hai thứ sinh sau Ngũ song thức là Tiếp thọ Tâm (Tiếp thâu) trong mỗi lộ trình tâm, không thể thay đổi, đó là định luật tự nhiên (Citta-niyana). Những Sát na Tâm nối sau Tâm Tiếp thâu trong lộ trình tâm đều thuộc về Ý thức giới: Sát na Quan Sát có 3 thứ, Phân đoán có 1 thứ. Ðổng lực có 55 hoặc 87 (12 Tâm Bất thiện, Tâm vi tiểu, 8 Tâm thiện dục giới, 8 Tâm Duy tác Dục giới Hữu nhân, 9 Tâm thiện Ðáo đại, 9 Tâm Duy tác Ðáo đại và 8 hoặc 40 Tâm Siêu thể). Nếu Tâm Ý Thức biết cảnh Pháp thì lộ trình tâm thông thường được diễn tiến như sau:

H V R D K ÐÕ ÐÕ ÐÕ ÐÕ ÐÕ ÐÕ Ð M M H

(Hộ kiếp, Hộ kiếp Vừa qua, Rúng động, Dứt dòng, Khán ý môn, Ðổng lực 1 - 2- 3 - 4 - 5 - 6- 7, Mót, Mót, Hộ kiếp).

Hành giả nhận biết được sự Sinh Diệt của Tâm Ý Thức trong các lộ trình tâm sẽ thấy nó rất phức tạp, vi tế và đa dạng. Nếu gìn giữ Tâm Ý Thức cho trong sạch thì được giải thoát mọi triền phược. Ðúng như Phật Ngôn: "Tâm tinh vi khó thấy, tự diễn tiến (lộ trình) quay cuồng theo dục lạc, vô hình, ẩn hay sâu".

Các thứ Tâm Ý Thức không giống nhau trên phương diện Tâm sở. Có thứ có đến hơn ba mươi Tâm Sở phối hợp như Tâm Tham ... có thứ có hơn mười Tâm Sở phối hợp như các Tâm Ý thức vô nhân (Tiếp thâu ...). Hành giả nhận được lý Vô Thường vì xét theo lộ trình tâm (nối nhau sinh diệt), nhận được Lý Vô Ngã vì thấy rõ Lý Vô Ngã, bởi Tâm không phải là đơn thuần (chỉ có một) mà do nhiều Tâm Sở phối hợp, và cũng chẳng phải sẵn có tự nhiên mà do nhiều nguyên nhân trợ tạo như:

- Tâm Nhãn Thức sở dĩ được sinh khởi là do bốn Duyên:

1) Có Nhãn Căn (Mắt)
2) Có Cảnh Sắc (Vật bị thấy)
3) Có ánh sáng
4) Có sự chú ý.

- Tâm Nhĩ Thức sở dĩ được sinh khởi là do bốn Duyên:

1) Có Nhĩ Căn (Tai)
2) Có Cảnh Thinh (Vật bị nghe)
3) Có khoảng trống
4) Có sự chú ý.

- Tâm Tỷ Thức sở dĩ được sinh khởi là do bốn Duyên:

1) Có Tỷ Căn (Mũi)
2) Có Cảnh Khí (Hơi mùi)
3) Có gió
4) Có sự chú ý.

- Tâm Thiệt Thức sở dĩ được sinh khởi là do bốn Duyên:

1) Có Thiệt Căn (Lưỡi)
2) Có Cảnh vị
3) Có nước
4) Có sự chú ý.

- Tâm Thân Thức sở dĩ được sinh khởi là do bốn Duyên:

1) Có Thân Căn
2) Có Cảnh Xúc (Cứng, mềm, nóng, lạnh, lay động, căng phồng)
3) Có Ðất, Lửa, Gió
4) Có sự chú ý.

- Tâm Ý Thức được sinh khởi do một trong 14 duyên:

1) Do nhớ lại 6 cảnh đã gặp.
2) Do gặp 6 cảnh hiện tại giống như 6 cảnh quá khứ đã gặp.
3) Do gặp, học, đọc, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng.
4) Do 6 cảnh hiện tại trùng hợp với những gì đã học, đọc.
5) Do tin theo lời người khác nói.
6) Do có những sự vật ưa thích.
7) Do hồi tưởng nhân quả của lời nói và việc làm.
8) Do suy nghĩ về giáo lý cao siêu.
9) Do mãnh lực của nghiệp.
10) Do mãnh lực thần thông của người khác chuyển tâm.
11) Do một hay nhiều bộ phận trong thân thể thay đổi.
12) Do mãnh lực của Chư Thiên chuyển Tâm.
13) Do Trí tuệ hiểu biết Tứ Thánh Ðế.
14) Do tri kiến giải thoát.

Như vậy, rõ ràng Thức do các Duyên tập hợp mà sinh khởi. Ðúng như Phật ngôn: "Do Duyên mà Thức sinh, và Thức ấy có tên tùy theo Duyên ấy." Do duyên Mắt và các Sắc, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Nhãn Thức. Do duyên Tai và các tiếng, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Nhĩ Thức. Do duyên Mũi và các Mùi, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Tỷ Thức. Do duyên Lưỡi và các vị, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Thiệt thức. Do duyên Thân và các xúc, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Thân Thức. Do duyên Ý và các Pháp, Thức sinh ra và Thức ấy được gọi là Ý Thức. Cũng như thể do duyên củi, lửa sinh. Lửa ấy gọi là lửa củi. Do duyên cỏ, lửa sinh và lửa ấy gọi là lửa cỏ. Do duyên trấu, lửa sinh và lửa ấy gọi là lửa trấu ...

Khi gọi: "Do duyên Ý, ..." với Ý đây là Ý môn (Manod-vara), và Ý môn đây là hữu phần (Bhavanga). Hữu phần hay Hộ kiếp là thứ Tâm tục sinh (Sát na tâm khởi đầu của một kiếp sống) được tiếp diễn suốt cả đời sống của mỗi chúng sinh, nhưng loại Tâm này chỉ diễn tiến ngoài các lộ trình tâm (Cittavithi) cho đến khi chấm dứt kiếp sống, được gọi là Tâm Tử (Cuticitta). Ðời sống khác thì Tâm Tục sinh khác. Trong mỗi kiếp sống, Tâm tục sinh, hộ kiếp, tử luôn luôn đồng một loại, một thứ, chỉ khác cái Tâm mà thôi. Hễ tục sinh thứ Tâm nào - thì Tử cũng bằng thứ Tâm ấy. Và cũng không phải Tâm Ý môn (hữu phần Hộ kiếp) diễn tiến song song đồng thời với Tâm Thức khác. Nếu các Tâm trong Lộ trình sinh lên thì Tâm Hữu Phần không có, và khi có Tâm Hữu phần thì các Tâm trong lộ trình không có. Chúng tiếp nối nhau mà sinh khởi (Tương tục sinh) như dòng nước, nên Ngài Santakicco có viết:

Lẽ thường luân chuyển hằng phen,
Tục sinh, Hộ kiếp khởi lên lộ trình.
Nối nhau cho đến bỏ mình,
Liền như nước chảy, tợ in xe vòng.
Vậy, nên hiền trí xét xong,
Vô thường, Khổ não, Ngũ không: quyết hành.
Trau dồi Niệm Tuệ đành rành,
Trừ phàm, chứng Thánh cao thanh Níp Bàn.

Tỳ Kheo Giác Chánh
P.L. 2536 - 1992

-oOo-

Mục lục | Ðầu trang


[Thư Mục chính]

Last updated: 30-01-2001

Web master: binh_anson@yahoo.com
binh_anson@hotmail.com