"Con
Đường Hạnh Phúc",Viên Minh và Trần Minh Tài , Vô ThườngTam Tướng (Tilakkahana), Vô Thường (Aniccà), Khổ não (Dukkha) và Vô Ngã (Anattà) là ba yếu tố căn bản của toàn bộ giáo lý Đức Phật. Thêm vào ba yếu tố này, một mệnh đề thường được giáo lý đại thừa đề cập đến là "Vạn Pháp Như Thị". Thực ra mệnh đề này không phải là yếu tố mới mà chỉ là một hệ luận của ba định lý trên. Cũng vậy khi nói "Tất cả Hữu Vi Pháp đều Khổ não" (Sabbe sankhàrà dukkhà) chúng ta phải hiểu rằng mệnh đề này chỉ để nhấn mạnh nguyên lý thứ nhất "Tất cả Hữu Vi Pháp đều Vô Thường" (Sabbe Sankhàrà Aniccà). Lý Vô Thường không phải là giáo lý duy nhất của Đạo Phật. Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, một triết gia Hy-Lạp Herakleitos đã nói "Tất cả đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux) hay "Mọi vật đều trôi chảy" nghĩa là vạn hữu đều bị chi phối bởi luật Vô Thường, biến đổi. Về phương diện hiện tượng giới, chân tính của lý Vô Thường đã được chứng thực một cách hùng hồn qua kinh nghiệm giác quan của chúng ta.
Nhưng chúng ta có thể hỏi tại sao vạn hữu đều vô thường, biến đổi? Nên biết rằng luật Vô Thường phổ quát liên hệ mật thiết với định lý nhân quả, trong đó sự hình thành phỏng định hủy diệt và sự hủy diệt phỏng định một sự hình thành khác. Như kinh Màhàparinibbàna (Đại Niết Bàn, Trường Bộ Kinh) dạy: "Cái gì hiện hữu cũng phải có nguyên nhân, điều kiện và hủy diệt". Luật Vô Thường được biểu thị qua ba phương diện:
1. Vô thường trong kiếp sống: Ngày nay không ai phủ nhận tính cách bất khả hủy diệt của vật chất. Phật Giáo nhìn nhận vạn pháp tồn tại qua ba thời điểm: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chính kinh Pháp Hoa (Saddharma Pundarìka) dạy rằng: "Vạn pháp như thị". Về phương diện vũ trụ, thì không có bắt dầu, không có chấm dứt (vô thủy, vô chung). Thật vậy, khó mà chấp nhận được rằng "Có" sinh từ "Không", hay "Không" sinh ra từ "Có". Làm gì có một vật tự sinh mà không do những điều kiện đã có sẵn, và cũng không thể có một vật đi đến hủy diệt hoàn toàn? Tuy vậy, về phương diện cá thể, không một ai thoát khỏi định luật Vô Thường. Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức Phật dạy rằng:
Sinh, Lão và Tử là những bất hạnh lớn lao của kiếp người. Một đời sống được kể là bắt dầu từ khi mới sinh và trải qua các giai đoạn trưởng thành, dị biến (bởi bịnh, lão) và cuối cùng chấm dứt bằng cái chết. Vào thế kỷ thứ 4, Ngài Asanga (Vô Trước), một vị luận sư đại thừa sáng lập phái Yogàcàra (Du Già) đã viết trong Trung Quán Luận (Madhyànugama):
2. Vô thường qua sát na: Danh từ sát na (Khana) được dùng để chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Theo Abhidhamma Mahàvibhàsa (Đại Trí Luận) những sự biến đổi của hiện tượng giới được giải thích một cách rõ ràng như sau: "Vạn pháp luôn luôn biến đổi, không một vật gì có thể tồn tại trong hai sát na liên tiếp". Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na. Vào thế kỷ thứ 5, Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) đã viết trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) như sau:
Như vậy, có một nguyên động lực nào nhờ đó mọi vật biến đổi hay không? Tất cả xe cộ chạy được là nhờ dùng một động cỏ, máy xay chạy bằng gió, quả đất quay quanh trục và quĩ đạo vì ảnh hưởng của nó đối với mặt trời. Ngay cả một ngón tay của ta cũng không tự nó cử động được. Vì thế động lực của sự biến đổi, thể hiện theo một công thức gọi là Tứ-Hữu-Vi-Tướng: "Sanh, Trụ, Dị, Diệt", hay "Thành, Trụ, Hoại, Không", gọi là Tứ Tướng. Theo Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivàda), bốn tính chất của Pháp hữu vi được diễn tả như sau :
Tất cả mọi vật thay đổi đều qua bốn tác động trên. Tuy nhiên có một vấn đề đã được bàn luận sôi nổi trong những thế kỷ sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn là bốn tính chất sinh, trụ, hoại, diệt xảy ra đồng thời hay kế tiếp nhau. Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivàda) và Thượng Tọa Bộ (Theravada) chủ trương đồng thời, trong khi Sautrantika cho là kế tiếp. 3. Vô thường trong pháp Hữu Vi: Pháp Hữu Vi là tất cả những gì hiện hữu do nhiều nhân và duyên tạo thành. Trong sự biến đổi của pháp hữu vi, chúng ta có thể chấp nhận ngay rằng mọi vật đều có sự sinh diệt, nhưng khó mà thấy được sự sinh diệt đó trong từng giờ, từng phút. Mặc dù mệnh đề "Vạn Pháp Giai Không" có thể được xem như là kết luận cuối cùng của định luật vô thường, nhưng đó cũng chính là một cái bẫy nguy hiểm cho các học giả nghiên cứu Đạo Phật. Các học giả Tây Phương dịch chữ "Không" (Sunyatà) là "Hư Vô" (Nothingness) hay tệ hơn nữa là "Hủy Diệt" (Annihilation), và vì thế Mahàsunàtavàda bị gán là "Hư Vô Luận" (Nihilism). Người Phật Tử phải hiểu "Vạn Pháp Giai Không" là tất cả các Pháp Hữu Vi trong hiện tượng giới đều biến đổi không ngừng. Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ), một luận sư đại thừa, đã viết trong cuốn Madhyamika: "Chính vì 'Không' mà mọi vật trở thành khả hữu, thiếu nó thì không một vật gì trên thế gian này có thể có được". Nếu vạn hữu không thường biến chuyển thì làm thế nào có sự tiến hóa và phát triển? Và nếu cuộc sống cứ tiếp tục giữ nguyên như lúc bắt đầu không có hoại, diệt thì kết quả và ý nghĩa của nó sẽ ra sao? Trong cuốn Phật Giáo Đại Thừa Cương Yếu, thiền sư Suzuki viết:
Nhưng một vấn đề được nêu lên là: -- Đức Phật có chủ trương Không Luận như một vài đệ tử sau này của Ngài hay không? Câu trả lời là Đức Phật không hề lập một môn phái hay một triết luận riêng rẽ nào cả. Ngài cũng không khuyến khích môn đệ của Ngài chủ trương học thuyết này hay môn phái nọ, Ngài chỉ dạy con đường tự giác cho những ai tín nhiệm Ngài. Lời dạy của Ngài không phải để người sau rút tỉa thành những triết phái riêng của mình rồi cố chấp và bảo thủ, mà chỉ để cho những ai ứng dụng lời dạy đó như một phương tiện cho cứu cánh giải thoát ra khỏi thế giới vô thường giả tạm này. (Hiệu đính: 06-1999) [Mục lục] |
[Main Index] |
Last updated: 23-12-1999 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |