|
"Con
Đường Hạnh Phúc",Viên Minh và Trần Minh Tài ,
Như Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ
(1993)
Ý nghĩa
thực chứng của
Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
Sau
khi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta rời bỏ cung điện nguy nga giã từ
vợ đẹp con thơ đi tìm chân lý, Ngài đã trải qua không
biết bao nhiêu thử thách nguy khó. Nhưng mục đích chuyến
đi của Ngài là tìm cho bằng được một lối thoát để
giải phóng cho mình và chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân
hồi, nên Ngài không quản khó khăn hiểm trở. Không tìm
được Chân Thiện Mỹ nơi các thầy Bà La Môn, Ngài cương
quyết thực hành phương pháp khổ hạnh. Chưa một ai trong
lịch sử nhân loại kiên trì khổ hạnh như Ngài. Ngay cả
tuyệt thực, tiết chế hỏi thở cho đến khi thân thể hao
mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng không
lay chuyển được ý chí sắt đá của Ngài.
Mặc dù ý chí kiên cường nhưng
xác thân đã quá kiệt quệ. Một hôm Ngài ngã quị bên dòng
sông Ni Liên Thiền (Neranjarà). Khi tỉnh dậy, Ngài mới
nhận ra rằng con đường khổ hạnh đến tột cũng chỉ là
hành hạ thân xác, mà trí tuệ lại càng thêm thoái hóa.
Mặc dù không lợi dưỡng, nhưng cần phải có một xác thân
tráng kiện thì tâm hồn mới lành mạnh, trí tuệ mới minh
mẫn. Như một nhạc công sử dụng đàn, nếu dây lên quá căng
thì sẽ đứt, nhưng nếu quá chùng thì đàn sẽ không thành
tiếng, chỉ có dây lên vừa phải thì tiếng đàn mới thanh
tao. Cũng vậy, chỉ có con đường trung đạo, không lợi dưỡng,
không khổ hạnh ép xác mới đưa đến cứu cánh giải thoát.
Nghĩ như thế, Ngài liền xuống sông
Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì trai khất thực. Sau khi
thọ thực, sức khoẻ được phục hồi; Ngài ngồi tĩnh
tọa dưới cội cây Bồ đề trên một nắm cỏ khô và tham
thiền nhập định. Nhờ năng lực an trụ của chỉ thiền,
như một bình nước đã được lắng trong không còn một chút
bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn khinh an thư thái và sáng
suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó, dần dần Ngài
hồi tưởng đến những kiếp sống quá khứ của mình. Ngài
nhớ rõ trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu,
thuộc giai cấp nào, vui khổ ra sao và sanh sanh tử tử trong
những cảnh giới nào. Tất cả chi tiết trong các kiếp
sống trầm luân của Ngài đã hiện lên trong ký ức rõ ràng
như một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Vào canh một, khi đang
chú tâm quan sát những hiện tượng sinh diệt của kiếp
sống, bỗng nhiên Ngài chứng ngộ được tuệ giác đầu tiên
tức là Túc Mạng Minh (Pubbe nivàsànussàti Nàna).
Kế đến Ngài suy xét đến kiếp
sống thăng trầm của chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi
để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho người thì sang giàu,
kẻ khốn khổ, người thông minh, kẻ ngu dốt và vì sao chúng
sanh vẫn mãi đắm chìm trong bể sanh tử không thể thoát ra
khỏi định luật vô thường, khổ não. Nhờ trí tuệ sáng
suốt, trong canh hai Ngài đã tìm ra giải đáp và chứng ngộ
tuệ giác thứ nhì là Thiên Nhãn Minh (Cutùpapàta
Nàna) tức là trí tuệ thấu triệt nguyên nhân sanh tử luân
hồi của tất cả chúng sanh. Ngài biết rằng do nơi nghiệp
thiện và bất thiện phát xuất từ thân, khẩu, ý mà chúng
sanh sinh trưởng trong những cảnh giới khác nhau, trình độ
khác nhau.
Đến canh ba, Ngài lại dùng trí
tuệ soi xét và tìm kiếm phương pháp nào khả dĩ chấm
dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức rằng: "Đây
là khổ, là phiền não và ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau
khổ, phiền não và ô nhiễm. Đây là sự diệt tận mọi
khổ đau, ô nhiễm. Và đây là con đường dẫn đến sự
chấm dứt mọi phiền não khổ đau." Nhận
thức như thế, tâm Ngài đã được giải thoát ra khỏi
dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu. Từ đó dòng
sinh tử luân hồi đã hoàn toàn chấm dứt đối với Ngài.
Đó chính là tuệ giác thứ ba mà Ngài đã chứng ngộ tức
là Lậu Tận Minh (savakkhaya Nàna) vậy.
Khi cuộc chiến thắng vinh quang
vừa viên mãn, cả tam thiên đại thiên đều rúng động, hào
quang ngũ sắc từ thân Ngài chiếu khắp tam giới. Chư thiên
trong mười muôn triệu thế giới ta bà đều đồng thanh
tung hô Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật và Thế Tôn.
Quả thật cuộc chiến thắng vẻ
vang của Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta có một ảnh hưởng sâu xa đối
với nhân loại. Chúng ta không lấy làm lạ khi nhiều người
tôn Ngài là bậc vĩ nhân, hoặc xem Ngài như một nhà đại
cách-mạng, giải phóng con người ra khỏi hai thứ xiềng xích
nô lệ: tinh thần nô lệ thần linh, thể chất nô lệ giai
cấp xã hội.
Chúng ta thử đưa ra vài nhận xét
về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni.
1. Bài học Hy Sinh
và Kiên Trì: Sức chịu đựng
gian khổ, Đức tính nhẫn nại bất thối chuyển và ý chí
tinh tấn vô tiền khoáng hậu của Ngài quả là một bài
học vô giá đối với những ai muốn noi gương Ngài đi tìm
chân lý. Mặt khác, đức tính hy sinh của Ngài quả thật vô
bờ bến. Mấy ai dám từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi
lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế mà Thái Tử đã lìa
bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy của một vị
Chuyển Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường chông
gai hiểm trở, miễn là thực hiện được lý tưởng tự giác
giác tha.
2. Bài học Trung
Đạo: Thời bấy giờ ai cũng
tin tưởng rằng thờ phụng thần linh hoặc khổ hạnh ép xác
mới được cứu rỗi. Có người tương đối sáng suốt hơn
cho rằng thân xác là nơi phát xuất những tội lỗi, những
ham muốn nhục dục. Bao lâu không còn nô lệ ở thân xác thì
tâm hồn mới được thanh thoát, do đó họ hành hạ xác thân
cho đến khi sức cùng lực tận để mong thoát khỏi ái
dục. Nhưng Đức Phật đã chứng nghiệm rằng khổ hạnh quá
đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể lành
mạnh. Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không thái quá,
không buông lung, mới đưa ta đến cứu cánh giải thoát. Con
đường Trung đạo đó là phương pháp duy nhất để chế
ngự thân, khẩu, ý hầu hướng dẫn hành động, lời nói và
tư tưởng theo lẽ chánh.
3. Bài học Thực
Chứng: Hầu hết các tôn
giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần linh và
con người phải quy phục trước uy quyền thưởng phạt
của Thượng đế. Sự thực chứng của Ngài chứng minh
rằng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật.
Bất cứ ai kiên trì, nhẫn nại, tinh tấn bất thối chuyển
như Ngài cũng có thể tự mình giải thoát, giác ngộ và
trở thành bậc siêu phàm. Mỗi cá nhân có quyền tự do
lựa chọn cho mình một hướng đi và chịu trách nhiệm về
mọi hành động của mình. Trong sạch hay ô nhiễm, hạnh phúc
hay khổ đau, trầm luân hay giải thoát đều do mình tạo ra.
Đây quả là một cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng nô
lệ mà trong đó con người phải phục tùng Thượng đế
chứ không thể trở thành Thượng đế của chính mình. Có
nô lệ chăng là con ngừời nô lệ nơi chấp ngã vì đã
tự tạo và tự trói buộc mình trong một thứ xiềng xích Vô
Minh, Ái Dục. Từ sự nô lệ đó con người trở thành phàm
phu, thấp hèn. Chừng nào giải phóng ra khỏi những thằng
thúc ấy con người mới được giải thoát và trở thành thánh
nhân, chứ không cần đến một đấng quyền uy cứu rỗi.
Đức Phật cũng là một nhà đại
cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi Ngài dạy
rằng: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng
mặn. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ".
Ngài chứng tỏ rằng một người trong giai cấp hạ liệt có
thể tự giác và trở thành toàn thiện. Trái lại, một người
trong giai cấp vua chúa hay Bà La Môn nếu hành động đê
tiện, không sáng suốt thì vẫn là kẻ hạ liệt.
Chúng ta còn học được ở sự
thực chứng của Ngài bài học "Chiến thắng
được mình là một chiến công oanh liệt".
Bên trong mỗi người đều có một đạo quân rất hùng
hậu đang ngự trị đời sống của họ. Muốn đánh đuổi
thứ ngoại xâm đó không phải là dễ, vì giặc phiền não
đã nằm ngay trong những phần sâu kín nhất của tâm hồn
chúng ta và đã trở thành một thứ nội tuyến nguy hiểm mà
Albert Camus gọi là "Kẻ lạ mặt". Hành động của
chúng ta hằng ngày bị chúng chi phối mà không hề hay
biết. Khi tỉnh tọa dưới cội cây Bồ Đề, chính Thái
Tử Sĩ-Đạt-Ta đã đối diện với những đạo binh ma này
và đã hàng phục chúng trước khi trở thành bậc Chánh đẳng
Chánh Giác. Bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác
giác tha phải rèn luyện ý chí quật cường và tinh thần dũng
cảm để phấn đấu vì "Chiến thắng vạn quân
không bằng tự chiến thắng mình".
Cuối cùng, chúng tôi xin trích
dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G Wells sau đây:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người
giản dị, có lòng nhiệt thành; một mình tự lực phát huy
ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người
như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần
thoại ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng
ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông.
Nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân
thời đều tương hợp với giáo lý ấy".
Và Sri Radhakrishman cũng nói rằng:
"Nơi Đức Phật Cồ Đàm ta nhận thấy một tinh hoa toàn
thiện của người Đông Phương, ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng
và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến
nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo
chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài
là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm
cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế
giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí. Đứng về
phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và
tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những
bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử".
(hiệu đính, 06/99)
[Mục lục] |