BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Ba đặc tướng của đời sống

Phạm Kim Khánh


[03]

C. Vô ngã

Cái gì là gánh nặng?

- Năm uẩn (Khandha) là gánh nặng.

Ai chấp nhận gánh nặng?

- Ái-dục (Tanhã) chấp nhận gánh nặng.

Thế nào là vứt gánh xuống?

- Tận-diệt Ái-dục là vứt gánh xuống.

Ngũ-uẩn (Panca Khandha) quả thật là cái gánh nặng trỉu. Chấp nhận gánh nặng là đau khổ; vứt đi quẳng gánh xuống bên đàng là tiến đến hạnh phúc.

Khi ái-dục bị diệt trừ tận gốc rễ, tham ái khát khao không còn phát sanh trở lại. Gánh nặng cũ đã được đặt xuống bên đàng, không còn gánh nặng mới cần phải đặt trên vai.

Ðó là thành đạt Niết-Bàn, trạng thái tịch tịnh trường cửu.

Người đã có đức tin nơi Giáo-pháp và đã thâu thập một vài kiến thức căn bản về Danh (Nãma), Sắc (Rũpa), Vô-thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và Vô-ngã (Anattã) hãy cố gắng hành thiền minh sát. Ðây là pháp hành nhằm ghi nhận danh và sắc, luôn luôn trong trạng thái chảy trôi như một giòng suối trường lưu bất tức, nơi sáu cửa (Lục nhập hay Lục căn), đúng như được chỉ dạy trong pháp Tứ-Niệm-Xứ. Ghi nhận những gì mắt thấy, ghi nhận những gì tai nghe, ghi nhận những gì mũi hưởi, ghi nhận những gì lưỡi nếm, ghi nhận những gì thân xúc chạm, ghi nhận những gì tâm suy tư, chừng đó hành giả sẽ nhận thức tất cả những gì cần phải được nhận thức tương xứng với trình độ mà mình đạt đến.

Khi chuyên cần chú niệm như vậy, định lực của hành giả trở nên vững chắc mạnh mẽ, tâm trong sạch. Chừng đó hành giả có thể phân biệt rõ ràng Danh (Nãma), cái tâm hay biết, và Sắc (Rũpa), cơ thể vật chất, cái được hay biết. Hành giả sẽ nhận chân rằng không có cái gì có thể gọi là bản ngã (Attã) hay "Ta". Sự ghi nhận thường xuyên lập đi lập lại sẽ dẫn hành giả đến trạng thái thông suốt nhân và quả trong danh sắc. Cuối cùng mọi ý niệm về một bản ngã trường tồn sẽ tan biến một cách rõ rệt. Trước khi thực hành chú niệm hành giả có thể còn nghi ngờ không biết cái ta đã có hiện hữu không trong quá khứ, có vẫn còn đang hiện hữu không trong hiện tại và sẽ còn hiện hữu không trong tương lai. Sau khi thực hành minh sát tất cả mọi nghi hoặc đều chấm dứt vì hành giả đã thấu triệt tận tường bản chất thật sự của mọi hiện tượng.

Tiếp tục ghi nhận thêm hành giả sẽ thấy rằng trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) cùng với những thức liên hệ (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức) cũng đều tan biến. Tất cả đều vô thường. Tất cả đều phát sanh và tự nhiên hoại diệt. Những gì vô-thường ắt không thể làm thỏa mãn một cách trọn vẹn. Không có chi thật sự có thể chất vững bền. Như vậy thì có cái chi để bám níu vào mà gọi là "Ta" hay "của Ta". Tất cả mọi hiện tượng đều ở trong trạng thái di động, chảy trôi, vừa sanh đã diệt. Quán xét rốt ráo như vậy ta có thể xác quyết tin chắc và loại bỏ ý niệm một bản ngã trường tồn.

(Hai đoạn trên đây được trích dịch từ bài giảng về kinh BHARA SUTTA của ngài thiền sư Mahãsi Sayadaw)

Vào thủa ấy Ðức Thế-Tôn ngự tại Benarès (Ba-La-Nại). Sau khi truyền dạy và gửi sáu mươi vị đệ tử A-La-Hán đầu tiên đi các nơi với lời kêu gọi:"...vì lòng từ-bi, hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh-phúc cho Chư-thiên và nhân loại. Mỗi người hãy ra đi một ngã. Này hỡi các Tỳ-Khưu, hãy công bố đời sống thiêng liêng cao thượng (Brahma Cariya, lối sống phạm hạnh), vừa toàn thiện, vừa trong sạch..." Chính Ngài cũng ra đi, về hướng Uruvelã (Ưu Tần Ðà Loa) để hoằng dương Giáo-pháp. Trên đường đi, một hôm Ðức-Phật dừng chân và tách vào rừng, tĩnh tọa dưới một cội cây.

Lúc bấy giờ trong làng có ba mươi thanh niên cũng dắt vợ vào cụm rừng ấy để ăn uống vui chơi. Trong nhóm trai trẻ này có một chàng không có vợ, dẫn theo người bạn gái. Trong khi ai nấy vui đùa với nhau, không để ý, cô bạn gái lén bỏ đi, đem theo nhiều món đồ quý giá. Lúc hay ra cả ba mươi thanh niên cùng nhau chạy đi tìm khắp rừng. Khi đôn đáo quanh quẩn thì họ thấy Ðức-Phật ngồi dưới gốc cây bèn đến gần hỏi thăm:

"Bạch Ðức Sa-Môn, Ngài có thấy chăng một thiếu phụ vừa đi ngang qua đây?"

-" Này các con, tại sao các con tìm một người phụ nữ để làm gì?"

Họ bạch lại tự sự. Ðức-Phật hỏi:

"Các con nghĩ thế nào, tìm một phụ nữ và tự tìm ra mình, đàng nào hơn? (Ở đây, "tự mình tìm ra mình" có nghĩa là nhìn vào bên trong mình để tìm hiểu thực tướng của chính mình)

- "Bạch Ngài, tự tìm ra mình hẳn là hơn".

"Vậy, các con hãy ngồi lại đây. Như-Lai sẽ giảng giải Giáo-pháp cho các con".

Và tất cả đều quỳ xuống đảnh lễ Ðức Thế-Tôn rồi ngồi lại một bên chăm chú lắng nghe.

I. Tự tìm ra mình

Thông thường, để tìm chân-lý, người ta được dạy nên hướng mắt nhìn ra ngoài, hoặc nhìn lên trên. Ðể tìm chân-lý về kiếp nhân sinh người Phật-tử được dạy nên nhìn trở vào bên trong mình. Thay vì hướng ngoại hay hướng thượng, Phật-giáo dạy ta hướng nội bởi vì Ðức-Phật dạy tất cả chân-lý đều nằm vỏn vẹn trong tấm thân nhỏ bé này. Xưa kia cũng nhờ ngày đêm trầm tư mặc tưởng, gom tâm quán xét từng yếu tố vật chất và tinh thần của bản thân mình mà Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm) tìm ra chân-lý và trở thành Ðức-Phật Gotama (Cồ-Ðàm), bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác, Chánh Biến Tri.

Khi người Phật-tử quán trạch bản thân mình một cách sâu sắc thì nhận thức rằng con người là sự cấu hợp của hai thành phần, vật chất và tâm linh hay sắc và danh. Phần vật chất, cơ thể vật chất hay sắc, không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi mà là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn, luôn luôn trở thành một cái gì khác. Phần tâm linh, tâm hay danh, cũng luôn luôn biến đổi như một sự tiếp nối liên tục. Như vậy, sự kết hợp của tâm và thể xác hay danh và sắc, cấu thành chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người, không phải là một thực thể tự mình phát sanh và tự mình có khả năng tồn tại mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ngoài "Danh" và "Sắc" là hai thành phần cấu tạo chúng sanh Phật-giáo không thừa nhận có một linh hồn, xem như một thực thể đơn thuần không biến đổi, hay một bản ngã trường tồn mà con người thọ lãnh một cách bí ẩn, từ một nguồn gốc cũng bí ẩn không kém. Vô-ngã (Anattã) có nghĩa là không có một thực thể vĩnh cửu trường tồn, không biến đổi, trong bất luận vật gì hay chúng sanh nào.

Nên hiểu rằng Phật-giáo không phủ nhận sự hiện hữu của một cá nhân, theo ý nghĩa thông thường. Phật-giáo chỉ phủ nhận trong định nghĩa cùng tột, một chúng sanh bất biến, một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, vĩnh tồn, chớ không phủ nhận có sự liên tục trong tiến trình biến đổi.

II. Tục đế và Nghĩa đế

Theo Phật-giáo có hai loại thực tế:

- Thực tế biểu hiện ra bề ngoài là chân-lý mặc ước, thông thường (Sammuti Sacca, Tục Ðế hay Thế Ðế).

- Thực tế cùng tột là chân-lý trừu tượng, tuyệt đối (Paramattha Sacca Nghĩa Ðế hay Chân Ðế).

Khi nhìn trên mặt bàn với mắt thường, ta thấy rằng mặt bàn bằng phẳng, bóng láng. Cũng mặt bàn ấy, nhìn xuyên qua ống kính hiển vi, ta sẽ thấy rằng nó không còn trơn tru nữa mà gồ ghề, có chỗ lồi cao có hủng thấp. Bây giờ, nếu ta dùng một loại kính điện tử có khả năng phóng đại cực mạnh, thì dưới mắt ta mặt bàn bằng phẳng nhẳn nhịu trước kia chỉ còn giống như núi cao chập chờn và thung lũng sâu thẩm, có khi còn có cả sinh vật sống trên đó nữa. Và nếu ta phân tích sâu thêm nữa, đến mức cùng tột cái mặt bàn chỉ là những năng lực và tính chất, hay nói cách khác chỉ là những rung động. Vậy, nên tin những gì mà mắt thường vẫn thấy, tai thường vẫn nghe hay chỉ tin vào những gì sự phân tích sâu sắc đến mức cùng tột cho thấy? Cả hai đều là thực tế và Phật-giáo phân biệt có hai thực tế.

Trong đời sống thông thường nhà khoa học gọi nước là nước, nhưng ở phòng thí nghiệm ông ta sẽ gọi là H2O. Cùng một thế ấy, Phật-giáo không phủ nhận thực tế trong đời sống hằng ngày và trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka) Ðức-Phật dùng những danh từ mặc ước, thông thường như người, thú, đàn ông, đàn bà hay ông A, ông B, vv... để dạy một lối sống đạo đức, một nếp sống hằng ngày khả dĩ đưa đến tiến bộ tinh thần. Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận những gì thật sự có, đúng như sự vật là vậy, mà mắt thường không thể trông thấy. Vì lẽ ấy trong Tạng-Luận (Abhidhamma Pitaka), phần triết lý cao siêu của Phật-giáo, Ðức-Phật truyền dạy giáo lý cùng tột và dùng những danh từ trừu tượng, có tánh cách chuyên môn, như ngũ-uẩn, tứ đại, lục-căn, vv...

Phạn ngữ "Paramattha Sacca" được phiên dịch ở đây là chân-lý cùng tột hay chân đế, hoặc nghĩa đế. Parama được giải thích là không thể còn biến chất nữa (Aviparĩta), trừu tượng (Nibbattita); Attha là vật, Sacca là chân-lý hay đế. Vậy Paramattha Sacca là chân-lý trừu tượng không còn phân tích được nữa. Một cái lọ bằng đồng không phải là thực tế cùng tột (Paramattha) bởi vì bên trong cái lọ, trong chất đồng, có sự thay đổi từng giây, từng phút, từng khoảnh khắc. Lại nữa, ta có thể uốn nắn hay nấu cái lọ để lấy đồng làm ra một món đồ khác, như cái tô chẳng hạn, tức là biến cái lọ thành cái tô. Bây giờ, nếu ta phân tích cả hai món đồ đồng ấy đến mức cùng tột, cuối cùng ta sẽ đi đến những năng lực và những tính chất căn bản mà Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma) gọi là Sắc nghĩa đế (Rũpa Paramattha). Những tính chất và năng lực ấy vẫn còn có thể biến đổi, nhưng đặc tính riêng biệt của những "Sắc" (Rũpa) ấy vẫn là nền tảng căn bản của hai món đồ. Và nếu ta nấu đồng ấy ra trở lại nữa để làm món đồ khác, thì thể chất của nó hay "Sắc" ấy vẫn còn giữ nguyên vẹn đặc tính. Như vậy, những tính chất và năng lực của đồng là thực tế cùng tột.

III. Tôi là ai?

Công trình phân tích rốt ráo cho thấy rằng con người là sự cấu hợp của 5 thành phần hay 5 nhóm gọi là ngũ-uẩn hay ngũ-ấm: Sắc-uẩn, Thọ-uẩn, Tưởng-uẩn, Hành-uẩn và Thức-uẩn (xin xem lại phần Vô-thường, và phần Khổ, đoạn Hành Khổ - Sankhãra Dukkhatã). Sắc là phần vật chất. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là phần tinh thần. Danh từ triết học Phật-giáo gọi một cá nhân là Santati, có nghĩa là một triều lưu, một sự liên tục chảy trôi không ngừng của những hiện tượng "Tâm-vật lý".

3.1 Sắc (Rũpa)

Hay cơ thể vật chất là thành phần của con người biểu lộ hiển nhiên ra ngoài mà ai ai cũng có thể cảm nhận. Danh từ "Rũpa" phát nguyên từ căn "Rup" có nghĩa là đổi thay. Theo Phật-giáo, Sắc gồm 28 loại, trong đó có 4 là thành phần căn bản gọi là Tứ Ðại Chánh Yếu (Cattãri Mahã Bhũtãni), mà ta thường gọi tắt là Tứ Ðại. Tứ Ðại bao gồm: Ðất, Nước, Lửa, Gió.

a) Ðất (Pathavi) là thành phần của vật chất có đặc tính duỗi ra, không đúng hẳn theo nghĩa thông thường của chữ Ðất. Sở dĩ được gọi như vậy là vì thành phần này, cũng như Ðất, là nền tảng của ba thành phần kia. Nếu không có thành phần Ðất (Pathavi) thì một vật không thể chiếm không gian. Cứng và mềm là hai đặc tính tương đối của thành phần Ðất, vì mềm là hình thức cứng ở độ thấp. Trong Ðất, trong Nước, trong Lửa, cũng như trong Gió theo nghĩa thường được hiểu vẫn có thành phần Ðất, có đặt tính duỗi ra và chiếm không gian.

b) Nước (ãpo) là thành phần của vật chất có đặc tính làm dính liền lại, không đồng nghĩa hẳn với chữ "Nước" như ta thường hiểu. Do ngũ quan ta có thể cảm giác nhận thức thành phần Ðất (Pathavi) nhưng ta không thể dùng mắt, tai, lưỡi, mũi và thân để tiếp xúc với và cảm nhận thành phần Nước (ãpo). Chính thành phần này làm cho những phần tử rời rạc của vật chất dính liền lại và cho ta ý niệm hình thể. Nên hiểu rằng lạnh không phải là đặc tính của thành phần Ðất và Nước trong Sắc liên quan với nhau thật là mật thiết.

c) Lửa (Tejo) là thành phần nóng trong vật chất, không đúng hẳn theo nghĩa thông thường của chữ "Lửa". Nóng và lạnh là hai đặc tính tương đối của thành phần Lửa (Tejo), vì lạnh là một hình thức nóng. Thành phần Lửa (Tejo) có năng lực làm cho vật chất trở nên chín mùi hay nói cách khác, tạo sinh lực cho vật chất. Vật chất được tồn tại hay bị tiêu hoại đều do thành phần Lửa (Tejo). Trái với ba thành phần kia trong Tứ Ðại, Lửa (cũng được gọi là Utu) có năng lực làm cho vật chất tự mình hồi sinh.

d) Gió (Vãyo) là thành phần trong vật chất có đặc tính di động, không phải theo nghĩa chữ' "Gió" như ta thường hiểu. Chính thành phần Gió (Vãyo) trong vật chất tạo sự vận chuyển và được xem là năng lực xuất phát hơi nóng. Sự di động và nhiệt lực trong phạm vi vật chất cũng tương đương với tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.

Tứ Ðại Chánh Yếu: Ðất, Nước, Lửa, Gió là những đơn vị căn bản của vật chất (Sắc: Rũpa). Tứ Ðại luôn luôn pha lẫn với 24 chuyển hóa của nó và luôn luôn dính liền nhau, liên quan với nhau rất mật thiết. Trong một loại vật chất thành phần này có thể trội hơn thành phần khác, như trong Ðất, thành phần Ðất (Pathavi) trội hơn ba thành phần kia; trong Nước, thành phần Nước (ãpo) trội hơn; trong Lửa, thành phần Lửa (Tejo) và trong không khí thì thành phần kia. Trong mỗi thể chất vật lý, từ vật nhỏ nhất đến những vật to lớn khổng lồ, đều có đủ bốn thành phần chính yếu ấy, không thể thiếu một. Ba thành phần không thể tồn tại nếu không có thành phần thứ tư.

Như vậy, Sắc hay cơ thể vật chất của con người bao gồm những đặc tính và những năng lực trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi chảy như một giòng suối. Ta không thể chỉ một phần nào trong thân và nói rằng cái này tồn tại. Vì khi ta nói đến chữ "tại" thì nó đã biến đổi và trở thành cái gì khác rồi.

Còn phần tâm linh thì sao? Trong guồng máy phức tạp của con người, cùng phối hợp với phần vật chất còn có phần tinh thần vô cùng quan trọng được gọi là Danh (Nãma).

Danh gồm: Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ, Tưởng và Hành là ba Tâm Sở (Cetasika). Thức là Tâm Vương (Citta).

3.2 Thọ (Vedãna)

Hay cảm giác là một loại tâm sở phổ thông, cũng được gọi là tâm sở biến thành, nằm trong tất cả các loại tâm. Thọ là một cảm giác, chỉ cảm nhận suông mà không bao hàm sự nhận diện hay hình dung đối tượng. Thọ phát sanh do sự tiếp xúc giữa:

- Lục-Căn : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
- Lục-Trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

Thí dụ: Như tay tôi sờ vào một ly nước tức có sự tiếp xúc giữa thân căn (tay tôi) và thân trần (ly nước). Khi tay chạm vào cái ly tôi hay biết có vật trơn tru, cứng, tròn... Ðó là Thọ, có sự cảm kích xuyên qua giác quan mà chưa nhận diện ra đó là gì, cũng không hình dung đó là cái ly. Cùng thế ấy, khi nhìn cái hoa tức có sự tiếp xúc giữa nhãn căn (thành phần nhạy của mắt) và nhãn trần (đối tượng của sự thấy, ở đây là cái hoa) tức tôi hay biết có hình thể, màu sắc... như thế ấy, nhưng chưa nhận diện, chưa hình dung là cái hoa. Ðó là Thọ, chỉ thâu nhận cảm kích xuyên qua giác quan mà chưa biết đó là gì.

Thọ (Vedanã) có một vai trò rất trọng yếu trong cuộc sống của con người. Thọ biến đổi luồng tâm và tác hành như một năng lực có khả năng nâng đỡ hoặc hoại diệt đời sống. Thí dụ: Như Thọ-hỷ, Thọ-lạc thì nâng đỡ, giúp cuộc sống được thoải mái, dễ chịu còn Thọ-ưu, Thọ-khổ thì gây trở ngại.

Nói rằng Thọ phát sanh do sự tiếp xúc giữa căn và trần có nghĩa rằng Thọ là một pháp hữu-vi, chỉ hiện hữu do nhân và duyên tạo điều kiện. Trước kia, ở phần Vô-thường ta thấy rằng: "Các pháp Hữu-vi đều vô-thường", "Chúng được sanh ra, kết hợp lại, rồi tan rã". Như vậy, Thọ chỉ tồn tại tạm thời, vừa phát sanh liền trụ và diệt trong khoảnh khắc.

3.3 Tưởng (Sannã)

Là uẩn thứ ba trong ngũ-uẩn. Danh từ "Sannã" do "San" và căn "" kết hợp, có nghĩa là biết nhận thức (so với "Cognoscere" trong chữ La-Tinh). Tưởng (Sannã) cũng là một tâm sở phổ thông hay biến hành, nằm trong tất cả các loại tâm vương.

Ðặc điểm chánh của Tưởng (Sannã) hay tri giác là nhận thức một vật do dấu hiệu trên vật ấy hay nhận ra một vật do những cảm giác phát sanh giống như những cảm giác đã có trước kia. Như người thợ mộc cưa, bào, đụt, đẽo những cây cột, cây kèo, đòn vong... rồi làm dấu trên đó. Lúc dựng nhà ông ta nhận ra dấu hiệu này thì biết là đầu trên cây cột, gặp dấu kia thì biết nó là cây đòn vong... Sự nhận diện ra nhờ dấu hiệu ấy là Tưởng (Sannã). Trong thí dụ tay sờ ly nước kể trên, Thọ chỉ thâu nhận cảm giác cứng, trơn tru, tròn, lạnh... mà không nhận diện hay hình dung ra nó là gì. Lúc bấy giờ tôi nhớ lại đã có những cảm giác tương tợ và nhận ra đó là cái ly. Sự hồi nhớ và nhận ra là Tưởng (Sannã). Tưởng phát sanh do thọ tạo điều kiện và như vậy Tưởng là pháp hữu-vi, luôn luôn biến đổi theo định luật vô-thường.

Trong Phật-giáo có ba danh từ có ý nghĩa tương-tự: Tưởng (Sannã), Thức (Vinnãna) và Tuệ (Pannã). Cả ba đều có nghĩa hiểu biết, nhưng ở mức độ khác nhau, cần phải được phân biệt rõ ràng. Một em bé hai ba tuổi thấy đồng tiền, nhận ra đó là đồng tiền, nhưng không hiểu giá trị nó. Một người đứng tuổi thấy đồng tiền thì biết giá trị của nó là thế nào nhưng không biết thể chất của đồng tiền ra sao, làm bằng gì... Một khoa học gia thấu triệt từng chi tiết các hóa chất và đặc tính của mỗi loại kim khí dùng để đút đồng tiền. Tưởng (Sannã) hay tri giác, như em bé, thấy vật gì tròn, nhỏ, dẹp, màu vàng... nhận ra đó là đồng tiền nhưng rõ ràng không biết giá trị của nó. Thức (Vinnãna) như người đứng tuổi biết giá trị và lợi ích của đồng tiền mà không hiểu bản chất hay các thành phần cấu hợp đồng tiền. Trí tuệ (Pannã) là tri kiến phân giải của chuyên viên, thấu triệt mỗi thành phần hợp thành đồng tiền.

3.4 Hành (Sankhãra)

Là uẩn thứ tư trong ngũ-uẩn. Có tất cả 52 tâm sở. Thọ là một, Tưởng là một tâm sở khác. 50 Tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhãra). Trong 50 tâm sở này có tâm sở "Tác ý" (Cetanã: ý muốn làm, ý nghĩ đưa đến hành động) là quan trọng hơn hết. Cetanã là tâm sở phối hợp các tâm sở đồng phát sanh với nó trên đối tượng của tâm. Giống như vị Tăng Trưởng hay người thợ chánh, vừa làm công việc của mình vừa điều hành công việc của những người khác, tâm sở Tác ý (Cetanã) vừa tác hành nhiệm vụ của mình vừa phối trí sinh hoạt của các tâm sở khác, cũng đồng phát sanh với mình.

Ðứng về phương diện tâm lý Tác ý (Cetanã), quyết định các hoạt động của những tâm sở đồng phát sanh cùng với nó. Về phương diện đạo đức, nó quyết định hậu quả dĩ nhiên phải đến. Một cách chính xác, chính Cetanã là nghiệp. Do đó, nếu không có Tác ý (Cetanã) tức nhiên không có nghiệp (Kamma). Một em bé cầm dàn thung nhắm bắn trái xoài. Em bắn trật trái xoài và viên đá bay lệch một bên trúng nhằm con chim đậu phía sau. Chim chết. Nhưng em bé không tạo nghiệp sát sinh vì hành động của em không tác ý, em không cố tình bắn chết con chim.

Trong các loại tâm tại thế, Tác ý (Cetanã) là tâm sở có ý nghĩa quan trọng nhất, còn trong các loại tâm siêu thế thì có tâm sở Trí tuệ (Pannã). Tâm tại thế có khuynh hướng tích trử nghiệp, tâm siêu thế có chiều hướng tận diệt nghiệp.

Trong Thập Nhị Duyên Khởi chính tâm sở Tác ý (Cetanã), bao hàm trong danh từ "Hành" và Hữu".

Trong một loại tâm luôn luôn có 7 tâm sở phổ thông và một số nhiều hay ít các tâm sở khác. Trở về thí dụ ly nước, do tưởng, tôi nhận ra là ly nước rồi thì có một số tâm sở phát sanh như sự chú tâm, ý muốn uống ... phát sanh cùng một lúc. Ðó là hành-uẩn.

3.5 Thức (Vinnãna)

Là uẩn thứ năm. Thức (Vinnãna) đồng nghĩa với Tâm (Citta) và Danh (Nãma). Khi chia chẻ chúng sanh làm hai phần, vật chất và tâm linh, thì danh từ Danh (Nãma) được dùng để chỉ phần tâm linh. Khi đề cập đến ngũ-uẩn thì thức-uẩn được gõi là Thức (Vinnãna). Còn danh từ Citta lúc nào cũng được dùng để chỉ các loại tâm khác nhau và trong vài trường hợp lẻ tẻ, hai danh từ CittaNãma đều có nghĩa là tâm, thường được dùng lẫn lộn.

Tất cả ba uẩn Thọ, Tưởng, Hành, đồng phát sanh và đồng hoại diệt cùng một lúc với thức-uẩn. Tất cả bốn đều phát sanh từ một căn nguyên và cùng có chung một đối tượng.

Theo triết học Phật-giáo không có khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là luôn luôn phải có một loại tâm duyên theo một đối tượng, vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chập tư-tưởng hay một sát-na tâm. Các bản chú giải ghi nhận rằng trong thời gian một cái nhoáng, hằng tỷ chập tư-tưởng có thể phát sanh và hoại diệt. Khi một chập tư-tưởng diệt tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những chập tư tưởng liên tục nối tiếp và thời gian tồn tại của một chập tư-tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được.

IV. Ảo kiến

Bốn loại hiện tượng tâm linh: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hợp với một hiện tượng vật lý (Sắc) là sự kết hợp vô cùng phức tạp của năm thành phần cấu tạo một chúng sanh. Mỗi cá nhân đều do năm uẩn ấy cấu thành. Trong khi những thành phần của năm uẩn luôn luôn biến đổi thì có cách nào mà sự tổng hợp của năm uẩn ấy, tức con người lại có thể không biến đổi từng khoảnh khắc. Trong hai khoảnh khắc kế tiếp không thể có một người nguyên vẹn, không đổi thay bởi vì trong người ấy cả thành phần vật chất lẫn thành phần tâm linh đều không ngừng biến đổi. Khi tôi viết trên giấy hai chữ "tôi viết" thì người viết chữ "viết" đã không còn là người viết chữ "tôi", vì trong khoảng thời gian giữa lúc tôi viết chữ đầu và chữ thứ nhì thì bao nhiêu đổi thay, cả vật chất lẫn tinh thần, đã xảy diễn bên trong tôi. Ðức-Phật dạy: "Na ca so, Na ca anno", không tuyệt đối là một người, cũng không hẳn là hai người hoàn toàn khác biệt. Không là một người vì sự biến đổi bên trong tôi. Nhưng không là hai người hoàn toàn khác biệt vì cả hai đều nằm trong một tiến trình sống, một giòng sinh tồn. Chỉ có một luồng sống, một diễn tiến của đời sống hay một sự liên tục. Tuy nhiên, sự liên tục đổi thay này đã xảy ra nhanh chóng đến độ ta không thể phân biệt một cách hiển nhiên. Chính hai yếu tố, liên tục và nhanh chóng, đã làm cho ta lầm tưởng có một thực thể đơn thuần không biến đổi.

Một cây nhang cháy trong đêm tối chỉ là một đớm sáng. Khi cây nhang được quây thật nhanh theo một vòng tròn thì ta thấy một vòng ánh sáng. Trong thực tế, không có vòng tròn ánh sáng mà chỉ có một điểm sáng di chuyển liên tục và nhanh chóng theo vòng tròn. Xem chớp bóng, ta thấy cảnh vật di động trên màn ảnh. Nhưng thực ra chỉ có những bức ảnh riêng biệt, liên tục tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta cảm giác đang nhìn một loại hoạt cảnh liên tục.

Cùng thế ấy, vì sự biến đổi liên tục của những thành phần của ngũ-uẩn quá nhanh chóng nên ta có cảm tưởng như có những thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi gọi là người, anh, tôi, thú... Thực ra, toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm-vật lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan rã, sanh rồi diệt. Không thể gọi là "Ta" hay "Của ta", hay một linh hồn trường cửu, một bản ngã vĩnh tồn của ta.

Ðức-Phật dạy:

"Như có người kia, không phải mù lòa, đi dài theo sông Ganges (sông Hằng), trông thấy bong bóng nước trên mặt sông, nhìn lại kỷ và quan sát tận tường. Sau khi quan sát tường tận người ấy thấy rằng bên trong bong bóng thật trống rỗng không có thực chất, không có thể chất vững bền.

Cũng dường thế ấy vị Tỳ-Khưu trông thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trong quá khứ, trong hiện tại hay ở vị lai, bên trong mình hay ở ngoài thô kịch hay vi tế, cao thượng hay thấp hèn, xa hay gần và vị Tỳ-Khưu nhìn lại kỷ càng và quan sát tường tận ngũ-uẩn. Sau khi quan sát ngũ-uẩn một cách tận tường, vị Tỳ- Khưu thấy nó rỗng không, không thực, không có thể chất vững bền ...

Sắc giống như một khối bọt.
Thọ như bong bóng nước.
Tưởng như một ảo ảnh.
Hành, mỏng manh như tào lá chuối.
Thức như trò ảo thuật. (Samyutta Nikãya, Tạp A Hàm)

Trong bộ Trung A Hàm (Majjhima Nikãya) bài số 62 có ghi lại tích chuyện như sau:

- Ngày nọ thầy Sa-di Rãhula (La Hầu La tức con của Thái-tử Tất-Ðạt-Ða) đi theo Ðức-Phật trì bình. Phong độ oai nghiêm quý trọng của hai vị tu-sĩ xem tựa hồ như thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con quý phái, như thiên nga của Ðức vua dắt con bơi lội trên mặt hồ trong hoàng cung, như hổ chúa oai phong và hùm con lẩm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình vô cùng đẹp đẽ, cả hai Ngài đều thuộc dòng mã thượng vương tôn, cả hai Ngài đều từ ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng dung nhan Ðức Thế-Tôn thầy Sa-di Rãhula, nghĩ rằng: "Ta cũng đẹp đẽ như Ðức Thế-Tôn, cha ta. Thân hình của Ðức-Phật vô cùng đẹp đẽ và thân hình của ta cũng vậy".

Ðức-Phật đọc ngay tư-tưởng ô nhiễm ấy. Ðang đi, Ngài dừng chân ngay lại dạy như sau: "Bất luận hình dáng đẹp đẽ hay xấu xí, hay thế nào đi nữa, cũng phải được quan sát như vầy: cái này không phải của ta (N'etam mama); cái này không phải là ta (N'eso hamasmi): cái này không phải là linh hồn của ta (Na me so attã).

V. Kinh Vô-Ngã tướng

Sau khi Ðức Thế-Tôn vận chuyển bánh xa Pháp-Bảo, thuyết giảng thời Pháp đầu tiên có tên là Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhamma Cakka Sutta) cho năm vị đạo-sĩ Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahãnãma Assaji (thường được gọi là năm thầy Kiều Trần Như) tại vườn Lộc Uyển thì Ngài Kondanna (Kiều Trần Như) đắc qủa Tu-Ðà-Hườn. Trong mấy ngày kế đó, khi nghe Ðức-Phật giảng thêm, Pháp nhãn (Dhammacakkhu) của bốn vị kia cũng không còn vướng bụi. Cả bốn vị đều thành đạt tri kiến vô-nhiễm và chứng ngộ rằng " cái gì đã có sanh tức phải hoại diệt " (có nghĩa đã đắc quả Tu-Ðà-Hườn). Thấy tất cả năm vị đã sẵn sàng lãnh hội Ðức Thế-Tôn giảng bài Pháp thứ nhì, được biết là Anatta Lakkhana Sutta, Kinh Vô-Ngã Tướng. Nghe xong thời Pháp cả năm vị đều chứng đạo quả A-La-Hán. Thời Pháp này được ghi trọn vẹn trong bộ Digha Nikãya (Trường A Hàm), tập Mahã Vagga và trong bộ Samyutta Nikãya (Tạp A Hàm), tập Khandha Vagga.

Bài kinh quan trọng này có thể được phân giải như sau:

5.1. Phần Vô Ðề:

"Tôi có nghe như vầy. Một thời nọ, lúc Ðức Thế-Tôn ngự tại vườn Lộc-Uyển, Isipatana (Chư Thiên Ðọa Xứ), gần Benarès (Ba-La-Nại). Ngài dạy nhóm năm vị đạo-sĩ như sau: ..."

Trên đây là phần tuyên ngôn của vị Ðại-Ðức A-La-Hán Ànanda (A Nan) trong kỳ kết tập Tam-Tạng đầu tiên, trước năm trăm vị A-La-Hán đệ tử Phật.

5.2. Phần Thứ Nhất:

"Này hỡi các Tỳ-Khưu , Sắc (Rũpa, chỉ cơ thể vật chất này) là Vô-ngã (Anattã, không có một linh hồn trường cửu). Này hỡi các Tỳ-Khưu, nếu trong sắc này có một bản-ngã (xem như một thực thể không biến đổi do Thần-Linh tạo nên hay phát xuất từ một Ðại Hồn, Paramatma, tinh hoa của Thần-Linh) thì sắc này ắt không phải chịu đau khổ. "Sắc này phải như vầy", "sắc này không nên như thế này", trường hợp tương-tợ có thể xảy ra. Nhưng vì sắc này không có bản-ngã nên nó còn phải chịu khổ đau và không thể có trường hợp ra lệnh, "cái này phải như thế này, cái này không được như thế kia".

Cùng một cách ấy Ðức-Phật giảng giải từng điểm một, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, giống như Ngài giải về đoạn sắc ở trên và chỉ rõ rằng không có một bản-ngã hay một linh hồn vĩnh cửu trong uẩn nào.

Nếu vật gì là của tôi, tôi phải có thể biến đổi nó ra thế nào hay sai khiến nó phải như thế nào, tùy theo ý tôi. Nếu "Sắc", hay cơ thể vật chất này là tôi thì tức nhiên tôi phải có khả năng làm cho nó phải như thế nào, mập hay ốm, to hay nhỏ, cao hay lùn... như ý tôi muốn. Nếu "Sắc" là của tôi, tức nhiên tôi phải có quyền năng sai khiến, truyền lệnh cho nó phải như thế nào, tùy theo ý muốn của tôi.

Trên thực tế, có như vậy không? Ðược thọ thai là một tế bào vô cùng vi tế, "Sắc" nở nang dần đến lúc lọt lòng mẹ và từ đó, trưởng thành, khỏe mạnh lên, rồi bắt đầu suy yếu, tàn tạ đến già, đến ch?t và cuối cùng tan rã. Ðó là tiến trình biến đổi tự nhiên của sắc-uẩn, hay cơ thể vật chất này, mà dầu muốn dầu không tôi không thể làm cách nào khác. Với trí thông minh của con người đôi khi ta có thể sửa đổi một phần ít oi nào trong tiến trình biến đổi này. Nhưng dầu ta có uy quyền đến đâu, cũng không thể ra lệnh cho "Sắc", hay thân này, hãy dừng lại, đừng tiến triển nữa, hãy cưỡng lại định luật vô-thường, hãy đừng bệnh hoạn, đừng yếu đuối, đừng già nua, đừng chết, đừng tan rã. Một vua Tần-Thủy-Hoàng, có đầy đủ quyền uy của một quốc vương hùng cường, độc đoán cai trị một dân tộc lớn mạnh và văn minh nhất thời bấy giờ, vẫn không tìm đâu ra phương thuốc trường sinh bất tử. Chí đến Ðức-Phật và chư vị A-La-Hán, khi nào còn mang thân ngũ-uẩn, còn sống trong thế-gian hữu-vi, thì còn phải chịu định luật vô-thường chi phối. Ðức-Phật vẫn có một lương y tên Jĩvaka. Vậy ta không thể nói chính thân này là ta, ta là thân này, hay thân này là của ta.

Kế đó là Thọ-uẩn. Thọ có ba: Thọ-lạc, Thọ-khổ và Thọ vô-ký. Khi Thọ-khổ phát sanh ắt ta không vui mà khát khao mong muốn cho nó chấm dứt. Ngược lại, khi Thọ-lạc đến, ta cố gắng bám níu, giữ chặt nó lại làm của riêng cho mình đời đời, giống như nắm lấy một nắm nước và đồng thời muốn giữ nước vĩnh-viễn nằm trong tay. Tại sao "Thọ' không thể tồn tại lâu dài? Bởi vì "Thọ" phát sanh do điều kiện: Sự tiếp xúc giữa căn và trần, như đã thấy ở phần trên, mà cả hai đều là pháp hữu-vi, luôn luôn biến đổi. Như vậy, nếu cố chấp Thọ là ta, ta là Thọ và mong muốn cho Thọ-lạc được trường tồn thì chắc chắn là ta phải thất vọng, đau khổ.

Rồi đến Tưởng-uẩn, tri giác. Cũng như Thọ "Tưởng" là pháp hữu-vi, phát sanh do những gì trước đó tạo duyên. Tôi nghe một tiếng động, nhận ra là cánh cửa đập. Cái gì là nền tảng cho sự nhận ra, hay "Tưởng" ấy? Trước tiên tôi phải có lổ tai (Nhĩ-Căn), rồi phải có tiếng động (Nhĩ-Trần), chạm vào phần nhạy của lổ tai. Từ xúc chạm ấy phát sanh sự nhận ra là tiếng cánh cửa đập. Như vậy "Tưởng" không phải tự mình hiện hữu. Khi tiếng động chấm dứt, chập "Tưởng" ấy cũng chấm dứt. Như vậy, "Tưởng" không có khả năng tự mình tồn tại, mà luôn luôn tùy thế đổi biến.

Ðến đây ta thấy rằng trong sắc cũng như trong Thọ, Tưởng, Hành, không có gì tồn tại vững bền, có thực chất hay chứa đựng gì có thể gọi là "Ta" hay "Bản-ngã" của ta. Còn uẩn thứ năm, Thức thì sao? Thức là tâm vương. Thọ, Tưởng, Hành là tâm sở. Theo định nghĩa: "Năm mươi hai trạng thái tâm đồng liên hợp với tâm vương, đồng sanh, đồng diệt với tâm vương, cùng có chung một đối tượng và cùng xuất nguyên từ một căn với tâm vương, được gọi là tâm sở (Cetasika)", thì Thức, tâm vương, không thể tồn tại riêng rẽ, không có Thọ, Tưởng và Hành mà tất cả đồng sanh, đồng diệt cùng một lúc. Do đó, Thức cũng phù-du, chỉ tồn tại trong một Sát-na tâm.

5.3. Phần Thứ Nhì:

"Vậy chư Tỳ-Khưu nghĩ như thế nào, thân này thường còn hay Vô-thường?

- Bạch Ðức Thế-Tôn, là Vô-thường (Anicca).

Cái gì Vô-thường là Khổ đau hay hạnh-phúc?

- Bạch Ðức Thế-Tôn, là Khổ.

Vậy, có hợp lý chăng, nếu nghĩ đến cái gì Vô-thường, Khổ và tạm bợ phù du với ý tưởng, "cái này của tôi, đây là tôi, đây là linh hồn của tôi"?

- Bạch Ðức Thế-Tôn, chắc chắn là không hợp lý".

Trong phần trên ta thấy rằng từng uẩn một cũng như toàn thể năm uẩn đều không phải là "Ta" hay "của Ta". Ta không thể muốn nó phải như thế nào, cũng không thể sai khiến, cưỡng bách nó phải như thế nào. Ta không thể sửa đổi tính cách biến đổi không ngừng của nó. Nó không thể tồn tại y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Ðoạn này Ðức-Phật nêu lên những câu hỏi để chính năm thầy Tỳ-Khưu khẳng định đặc tướng vô-thường của ngũ-uẩn. Rồi Ðức-Phật hỏi tiếp để năm thầy quả quyết rằng vô-thường là biến đổi, bất ổn định, không bền vững, không thể đưa đến hạnh-phúc thật sự, vững bền, ổn cố, lâu dài, mà chỉ có thể đưa đến bất toại nguyện, tức đau khổ. Cuối cùng Ngài đưa năm thầy đến kết luận rằng cái gì vô-thường, bất toại nguyện và phù du tạm bợ không thể có thực chất vững bền, không thể thật sự là "ai" hay "của ai".

5.4. Phần Thứ Ba:

"Như vậy, này hỡi các Tỳ-Khưu, tất cả các sắc, dầu ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, ở bên trong hay ở ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được nhận thức với tri kiến chân chánh theo thực tướng của nó, "cái này không phải của tôi, đây không phải là của tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi".

"Tất cả Thọ, Tưởng, Hành, Thức, dầu ở quá khứ... không phải là tự ngã của tôi".

Ba đặc tướng liên quan với nhau rất mật thiết của đời sống là Vô-thường, Khổ, Vô-ngã. Bất luận đâu đâu, bất luận ở vào thời đại nào, ba đặc tướng này vẫn nổi bật một cách hiển nhiên trong thế-gian.

Riêng phần đặc tướng Vô-ngã, Ngài dạy rằng dầu trong Tam Giới (Tại thế) hay ngoài (Siêu thế), không nơi nào có thể tìm ra một linh hồn, hay một bản-ngã, trường tồn bất biến. Kinh Dhammapada, Pháp Cú, có ghi ba câu kệ liên tiếp như sau:

"Tất cả các pháp hữu-vi đều Vô-thường... Sabbe Sankhãrã Aniccã..."
"Tất cả các pháp hữu-vi đều là Khổ... Sabbe Sankhãrã Dukkhã..."
"Tất cả các pháp đều Vô-ngã... Sabbe Dhammã Anattã..."

Ta có thể thận trọng ghi nhận rằng trong hai câu đầu, Ðức-Phật dùng danh từ "Sankhãrã" có nghĩa là "pháp hữu-vi", hay vật hữu lậu, vật tùy thế, những gì được cấu thành do nhân và duyên. Trong thực tế "pháp hữu-vi" bao hàm tất cả những gì trong thế-gian hiện tượng này. Ðến câu thứ ba, Ðức-Phật dùng chữ "Dhamma", dịch là "pháp" mà ý nghĩa bao trùm cả hai: những pháp tại thế và những pháp siêu thế. Ðiều này có nghĩa rằng bất luận ở đâu, dầu ở trạng thái Niết-Bàn cũng không có một linh hồn trường tồn không biến đổi. Chẳng những không có cái "Ta" (Atmam) trong năm uẩn mà cũng không có trong bất cứ nơi nào khác.

5.5. Phần Thứ Tư:

"Bậc Thánh đệ tử đã được giáo truyền đầy đủ thấy vậy thì nhờm chán Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; dứt bỏ, không luyến ái những gì không đáng được ưa thích và do sự dứt bỏ ấy, đã giải thoát. Rồi tri kiến trở nên sáng tỏ, "Ta đã được giải thoát". Vị ấy thấu hiểu rằng giòng sanh tử đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được thành tựu, những gì phải làm đã được hoàn tất viên mãn, không còn trở lại trạng thái này nữa".

Vị đệ tử của Ðức-Phật đã được thọ huấn đầy đủ và thành đạt các từng Thánh, đã thấy rõ ba đặc tướng vô-thường, khổ, vô-ngã của đời sống nên nhờm chán, ghê sợ những kiếp sinh tồn, sinh tử, tử sinh, triền miên tiếp diễn trong vòng luân hồi. Sự ghê sợ và nhờm chán đã thúc đẩy Ngài quyết tâm dứt bỏ, không bám níu vào những gì huyền ảo, không thực, không đáng được ưa thích. Ngài không chấp ngã cho rằng "người làm điều này là tôi, cái gì làm việc kia là tôi, vì Ngài đã thấu triệt rằng không có người hành động mà chỉ có hành động, không có người tư-tưởng mà chỉ có sự tư-tưởng, chỉ có một luồng tâm-vật lý trôi chảy mà không có một thực thể đơn thuần nguyên vẹn. Hiểu biết như vậy Ngài không chấp ngũ-uẩn là mình, mình là ngũ-uẩn và do tri kiến sáng tỏ, giải thoát ra khỏi cảnh vô-thường và đau khổ. Ngài đã thành đạt Niết-Bàn, chấm dứt giòng sinh tử, tử sinh, từ phàm trở nên Thánh.

Ðến đây, ta có thể thắc mắc: "Như vậy thì cái "Ta" nào mà sẽ gặt hái hậu quả của những hành động do cái "không phải là ta" ấy làm ra?" Hiểu theo nghĩa cùng tột và một cách chính xác, chính tâm sở Tác ý (Cetanã) tạo nghiệp, và Thọ (Vedanã) gặt quả. Ngoài ra không có "người" tạo nghiệp và "người" gặt quả.

5.6. Phần Thứ Năm:

"Ðức Thế-Tôn giảng giải như vậy và các vị Tỳ-Khưu lấy làm hoan-hỷ, tán dương và thọ lãnh giáo huấn".

VI. Tháo gỡ Thằng thúc

Có mười thằng thúc (Samyojana, dây trói buộc, kiết sử) cột chặt chúng sanh vào vòng sinh tử luân hồi.

Khi chứng ngộ Niết-Bàn lần đầu tiên hành giả được gọi là Tu-Ðà-Hườn (Nhập Lưu, Sotãpanna), người bước vào giòng suối chảy đến Niết-Bàn lần đầu tiên. Ngài đã dứt bỏ ba dây trói buộc là thân kiến (Sakkãya Ditthi ), ảo kiến về tự ngã của mình), hoài nghi (Vicikicchã, không quyết định, không dứt khoát tin tưởng nơi Phật, Pháp, Tăng) và giới cấm thủ (Sĩlabbata Parãmãsa, lầm lạc, tin tưởng những nghi thức tế lễ thần linh). Trong ba thằng thúc này thân kiến là dây trói buộc quan trọng nhất. Với vị hành giả đã dứt bỏ thân kiến, hay ngã kiến, mọi khái niệm có tính cách trí thức về một cái "Ta" đã tan biến. Ðặc tính của vị Tu-Ðà-Hườn là: Niềm tin nơi Tam-Bảo luôn luôn tiềm tàng vững chắc; không bao giờ phạm giới nào trong ngũ giới; không bao giờ còn tái sanh vào bốn khổ cảnh vì đã vững bước trên con đường giác ngộ. Ngài còn phải tái sanh trở lại vào cảnh người tối đa là bảy lần.

Vị Tư-Ðà-Hàm (Sakadãgãmi, Nhất-Lai chỉ còn tái sanh trở lại một lần nữa mà thôi) làm giảm suy, chưa hoàn toàn dứt bỏ, hai thằng thúc Kãmarãga, lòng tham duyên theo Dục-giới và Patigha, bất toại nguyện, bất mãn, sân-hận).

Vị A-Na-Hàm (Anãgãmĩ, Bất-Lai, trạng thái không bao giờ trở lại) tận diệt hai thằng thúc mà vị Tư-Ðà-Hàm chỉ làm giảm suy chớ chưa hoàn toàn tận diệt. Từ đây vị Thánh Bất-Lai không còn tái sanh trở lại vào cảnh người hay cảnh trời Dục-giới vì đã hoàn mãn tận diệt mọi tham ái duyên theo Dục-giới.

Vị A-La-Hán tận diệt năm thằng thúc còn lại là Ái Sắc (Rũparãga, ham muốn duyên theo cảnh Sắc-Giới), Ái Vô-Sắc (Arũparãga, ham muốn duyên theo cảnh Vô-Sắc-Giới), Ngã-Mạn (Mãna), Phóng Dật (Uddhacca) và Vô-Minh (Avijjã).

Nên ghi nhận rằng tất cả mười thằng thúc đều có liên quan đến cái "Ta". Tất cả là những khía cạnh khác nhau của cái "Ta" biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trên con đường giải thoát, mười dây trói buộc (thằng thúc) phải được tháo gỡ và diệt trừ dần dần làm bốn giai đoạn.

VII. Con đường thoát khổ

Người kia nhà nghèo, có một con nhỏ và một túp lều ở vùng ngoại ô. Hôm nọ, anh đi làm để con ở nhà. Có tên gian manh, thừa lúc không ai, vào nhà định vơ vét tài vật. Nhưng khi lục soát cùng khắp mà không thấy gì đáng giá thì anh ta tức giận nổi lửa đốt nhà và dắt luôn đứa nhỏ đi theo.

Ðến khi đi làm về người cha nghèo thấy nhà cửa chỉ còn là một đóng tro mà con thì đâu mất. Tin chắc rằng đứa nhỏ đã bị chết thiêu trong đám hỏa hoạn, anh moi đóng tro tàn để tìm những gì còn lại của đứa con yêu quý và bỏ vào bị. Kể từ đó anh luôn luôn mang theo mình cái bị và trum trủm giữ gìn như một bảo vật, ngủ cũng để bên mình và thiết tha trìu mến.

Ngày tháng trôi qua, đứa bé lớn lên, tìm cách trốn tên gian manh tìm về với cha. Người cha đang ở trong nhà thấy có người đến tự giới thiệu là con mình thì lấy làm ngạc nhiên, quả quyết phủ nhận. Em nào phải là con tôi. Tôi chỉ có một con và chỉ vào bị anh khẳng định: đây là con tôi. Anh nhất quyết như vậy. Không làm sao giải thích cho anh biết rằng anh chỉ tưởng tượng là như vậy chớ kỳ thực tro kia không phải là con anh.

Nghe qua câu chuyện có thể ta nghĩ rằng anh kia quá dại dột, quả thật là mê lầm. Ðúng vậy. Nhưng bất hạnh thay! Hầu hết chúng ta là như vậy và vì thế chúng ta còn ở đây. Chúng ta mãi mãi sống trong ảo mộng và cho đó là thực tế. Chúng ta sống với những khái niệm và quả quyết rằng đây là "Ta", kia là cha "của Ta", mẹ "của Ta", anh, chị, cô, bác, họ hàng "của Ta", nhà "của Ta", xe "của Ta"....trong khi "chính thân này còn không phải là ta thì con cái nào của ta? Sự nghiệp nào là của ta?

Chắc mỗi người chúng ta còn nhớ rằng lúc thiếu thời, vào một buổi chiều nào đó, chúng ta nhìn lên trời thấy một cái móng (cầu vòng) màu sắc rực rỡ, đóng trên một vừng mây. Lúc ấy chúng ta rất cảm kích, tưởng chừng như mình có thể đến gần và sờ, nắm được cái móng, vì nó rành rạnh còn hơn rạn cây mờ mờ trong đám khói ở phía sau. Trên thực tế, nó không có gì thực chất mà chỉ là những làn ánh sáng chiếu xuyên qua triệu tỷ giọt nước ly ty, vởn vơ trong không gian.

Từ thủa ấy đến nay còn biết bao lần khác, trong bao nhiêu trường hợp khác nhau, ta đã lầm tưởng cái giả là thực. Hằng ngày vào buổi sáng ta thấy mặt trời lú lên từ chân trời ở hướng Ðông và buổi chiều, sụp xuống ở hướng Tây. Một cách quy ước, ta đồng ý với nhau, nói là mặt trời mọc buổi sáng và lặn buổi chiều. Thực ra không có mặt trời mọc và mặt trời lặn mà chỉ có quả địa cầu vừa quây theo một trục, vừa vận chuyển chung quanh mặt trời. Chính giác quan hạn hẹp của chúng ta đã đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Ta có cảm tưởng là vậy nhưng thực tế không phải là như vậy.

Hiểu một cách giản dị, đó là Vô-Minh (Avijjã, không minh mẫn, không sáng suốt), hay Si Mê (Moha, ảo kiến, thấy sai lầm). Trạng thái Si Mê bao phủ tâm như đám mây mù mịt làm cho tâm không thể thấy đúng thực tướng của sự vật là như vậy mà thấy bóng tưởng hình, thấy ảo tưởng thực, thấy những giọt nước kế tiếp trôi chảy tưởng là con sông, thấy những hột cát chồng chất trải dài tưởng là bãi biển, thấy những yếu tố luôn luôn biến đổi của ngũ-uẩn tưởng là "Ta", chấp ngũ-uẩn là "Ta", "Ta" là ngũ-uẩn. Và đó là nguồn gốc của tất cả những điều phiền phức, những mối lo âu, những quấy nhiễu, những điều bất hạnh, những trường hợp đau khổ.

Tại sao?

Khi cái được gọi là "Ta" bám níu, duyên vào người hay vật mà nó ưa thích tất có sự thân yêu, sự luyến ái hay trìu mến.

Có phải chăng

"Thân yêu ... trìu mến ... luyến ái ... tham dục ... ái dục sanh sầu muộn, sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn dập tắt thân yêu ... trìu mến ... luyến ái ... tham dục ... ái dục không còn sầu muộn, càng ít lo sợ " (Pháp Cú, câu 212-216).

"... Phiền-não không bao giờ đến với người không luyến ái danh sắc và không còn dục vọng" (Pháp Cú, câu 221).

Khi cái "Ta" bất mãn với người hay vật không ưa thích tất có sự ghét bỏ, giận dữ hay thù hận. Ðức-Phật dạy:

"Nó lăng mạ 'tôi', đánh đập 'tôi', chiến thắng 'tôi', cướp giựt của 'tôi', lòng sân-hận không nguôi trong tâm của người còn ôm ấp những ý tưởng tương tợ." (Pháp Cú, câu 3)

"Trên thế-gian này, sân-hận không bao giờ dập tắt sân-hận. Duy có tình thương mới diệt tâm sân. Ðó là định luật nghìn thu". (Pháp Cú, câu 5)

Và ở một trường hợp khác Ngài dạy:

"Ai chế ngự được tâm sân đang phát sanh, như hảm một chiếc xe đang ngon trớn, người ấy, Như-Lai gọi là người đánh xe thiện nghệ. Nhưng kẻ khác chỉ là người cầm cương". (Pháp Cú, câu 222)

Khi cái "Ta" thất bại tất có sự đau khổ, âu sầu, phiền muộn, hối hận và tuyệt vọng sâu xa, có thể đưa đến cảnh quyên sinh hay gây án mạng cho người khác.

Khi cái "Ta" lâm nạn, tất có sự lo âu sợ sệt.

Tại sao ta lo sợ? Phân tích đến mức cùng tột chỉ có một câu trả lời: chúng ta lo sợ vì mang nặng trong lòng những tư-tưởng "Ta" và "của Ta". Chúng ta trong mong chờ đợi, bồn chồn muốn cho ta và những gì ta yêu quý được chu toàn trong một thế-gian biến đổi. Kẽ nào dùng cát để cất nhà trên bãi biển phải nơm nớp lo sợ sóng biển. Kẻ nào lấy tiền của làm vật bảo đảm phải luôn luôn làm nô lệ cho tiền của. Kẻ nào tìm lẽ sống trong công cuộc làm ăn và để hết tâm trí vào đấy như một việc nhất quyết phải thành tựu cho kỳ được, kẻ ấy không thể yên ổn trong lòng. Vậy là ta lo sợ cho "Ta", cho tiền của "của Ta", cho con cái ta, bạn bè ta, cho những cái gọi là "của Ta".

Khi cái "Ta" bị giới hạn trong ích kỷ hẹp hòi, tất có sự chia rẽ, ganh tỵ, thèm muốn, tham vọng.

Khi cái "Ta" được thổi phòng, tự cao, tự đại, tất có ngã-mạn kiêu căng.

Người thực hành Bát-Chánh-Ðạo, trang nghiêm trì giới, chuyên cần nhiếp tâm an trụ và phát triển trí tuệ minh sát sẽ thấu đạt thực tướng của vạn pháp và sẽ có quan điểm chân chính về kiếp sinh tồn. Người ấy nhận thức rằng tất cả sự vật trên thế-gian huyền-ảo và tạm bợ nhất thời này tựa hồ như "giọt sương buổi sáng, lóng lánh trên lá cây ngọn cỏ và sớm tan biến khi những tia nắng bình minh bắt đầu rọi xuống, như bong bóng nước, như lằng gạch trên mặt nước, như cái chớp trong đêm tối, như một khối bọt, như ảo cảnh, như giấc mơ..."

Lúc bấy giờ người ấy đã vượt ra khỏi cái "Ta". Cái được gọi là "Ta" đã chan hòa và đồng nhất với tất cả, tất có lòng vị tha bất cầu lợi, có tình huynh đệ tương thân tương ái với tất cả chúng sanh, có tâm từ vô-lượng vô-biên, có lòng bi-mẫn dồi dào và có sự thuận hòa điều hợp với tất cả. Ánh Sáng, Trí-Tuệ dần dần đánh tan đêm tối của si mê, không còn tham ái, sân hận, người ấy đã thoát ra khỏi mọi hình thức ái dục, tiến đến đạo quả Thánh và cuối cùng, đến sự giải thoát toàn vẹn ra khỏi vòng luân hồi, khỏi mọi hình thức đau khổ, như lời Phật dạy:

"Như nhìn bọt nước, như nhìn ảo-ảnh, nếu người kia nhìn thế-gian này như vậy, Tử-Thần không còn thấy người ấy nữa".

Cũng vì lẽ ấy mà khi vị Bồ-Tát có danh hiệu là Quán Tự Tại thực hành sâu vào trí-tuệ Ba-La-Mật và soi thấy năm uẩn đều không thì tất cả khổ nạn đều qua: "Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Ða thời chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách".

-ooOoo-

Ðầu trang | 01 | 02 | 03

Chân thành cám ơn Bác sĩ Nguyễn Tối Thiện đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2002)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 11-04-2002