|
Quán
Niệm Hơi Thở
(Anapana Sati)
Bình
Anson
Ghi chú: Các
đoạn chính của bài nầy được trích dịch từ một
quyển cẩm nang tu thiền của ngài thiền sư U Acinna, người
Miến Điện ("Light of Wisdom", W.A.V.E., Malaysia,
1996), cùng với một vài kinh nghiệm của người dịch, đã
có duyên may được tu học với sư cô Dipankara, đệ tử
của ngài U Acinna, trong năm 1997 tại Perth, Tây Úc.
-oOo-
Các
bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana
sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào,
hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là
ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi
thở ? Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi
thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là
nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài
thiền quán khác biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán
danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và các tâm sở có liên
quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi
thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán
niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và
tuệ giác tri.
Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở,
hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú
tâm vào hơi thở sau một vài buổi thiền, thì có thể tập
đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ phát triển
định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau:
"thở vào ... thở ra ... một", "thở vào ...
thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ...
cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm
từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên,
thiền sinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu.
Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh
(Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác
ngộ. Các bạn cần phải cương quyết không để phóng tâm,
tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở.
Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8
rồi trở lại 1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi
thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn. Thông thường
thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm
được an định và vững chắc.
Sau đó, khi tâm an định, bạn có
thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế.
Nếu bạn thở vào một hơi dài, bạn biết đó
là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết
đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi
ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Nếu bạn
thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở
đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu
cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thở dài.
Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi
thở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố
gắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài"
hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm,
thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi.
Chỉ cần biết nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng
phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm xúc vào lỗ mũi hay
môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân
thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm
theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không
thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi
nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong
một, hai, hoặc ba giờ.
Đến đây, định tướng
(nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu định tướng không phát
sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền
sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu
đến cuối. Bạn không nên đặt tên là: "chặng
đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt
tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở
ra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi
từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định
(lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào
bên trong thân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì
như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể
sẽ phát sinh.
Bây giờ, cho dù định tướng có
hiện ra hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế.
Trong giai đoạn nầy, bạn tạo một ước nguyện trong tâm:
"Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn".
Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng,
nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình ép hơi thở để nó
nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu,
bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó
trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó, qua thiền lực,
hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, như thể
là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà
cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm
đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy là không có
"tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ,
chỉ còn có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm
được an định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì
trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các
chuyện thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện
(kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái
cận định (upacara samadhi).
Đến đây, tùy theo giới hạnh
của từng cá nhân, định tướng sẽ hiện ra.
Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướng khác nhau.
Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh
sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một làn
chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một
cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm
cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một
viên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong các
hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn
(sanna, perception) tạo ra.
Lúc ban đầu, định tướng có
thể giống như có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm
được an định vào hơi thở, hơi thở và màu khói xám
trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó,
nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu
sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu trắng, nhưng
nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành
định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi
thở và định tướng là một, không khác biệt, khi bạn chú
mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng,
và khi bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú
mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hành thiền tốt và
nghiêm túc.
Nếu định tướng trở nên vững
bền và nếu bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi
thở (anapana nimitta), mà không chú tâm vào hơi thở nữa,
tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong
giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm
cách chuyển hóa định tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy
nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng. Nếu làm như
thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định
tướng có thể sẽ biến mất.
Tuy nhiên, nếu định tướng
hiện ra quá xa đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ
lực để chuyển sang mức thiền định hơi thở (anapana
jhana samadhi). Tại sao? Bởi vì đây là một nguyên tắc quan
trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận giải có đề
cập rằng việc luyện tâm thiền định niệm hơi thở
(anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán
niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ
thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi
chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do
đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh không nên chú
tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một nơi
cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa
nhập vào hơi thở.
Khi định tướng có màu khói xám
thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái
sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như
một nhúm bông gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta).
Đây là một trạng thái định khá cao. Nếu màu trắng nầy
được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và chú
mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến
màu sắc của nó, mà chỉ chú tâm vào đó như là một
loại định tướng mà thôi.
Thí dụ như một ly nước và có
một hạt ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như
thể đem tâm vào định tướng. Không nên điều tra, trạch
vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng
hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu
sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an định và chú mục vào
định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ
chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là
tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữ an định
và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ,
hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền
chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc
đó. Năm thiền chi đó là:
- Tầm (vitakka): đem tâm hướng
về định tướng,
- Tứ (vicara): bám sát vào định
tướng,
- Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
- Lạc (sukha): cảm giác an lạc,
sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
- Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm
về một điểm (đó là định tướng)
Cũng cần biết thêm ở đây là có
khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên,
là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái
(nivarana) ngăn che. Đó là:
- Tham dục (kamachanda)
- Sân hận (vyapada)
- Hôn trầm (thiramiddha)
- Trạo cữ (udhaccakukucca)
- Nghi ngờ (vicikiccha)
Thiền sinh phải duyệt xét từng
triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong
lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ
thì việc đắc thiền mới thành tựu.
Khi năm thiền chi đều cùng hiện
diện đầy đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng
thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là
đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng 1 đến
2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường
tận.
Trong các buổi thiền kế tiếp,
thiền sinh tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong
tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục:
- Thuần thục phân biệt:
phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau
khi xuất thiền
- Thuần thục nhập định:
phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình
muốn
- Thuần thục quyết tâm:
phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà
mình đã định trước
- Thuần thục xuất định:
phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình
muốn
- Thuần thục xét duyệt:
phải thuần thục xét duyệt các thiền chi. Tương tự như
mục số 1.
Thiền sinh nên nhận thức rằng
tầng thiền thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham
dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và nghi ngờ. Thiền
sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ
trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không
an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từ ước
muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi
Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ
tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng
thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và
Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì
năm loại thuần thục tương tự như trên.
Sau đó, thiền sinh nhận thức
rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn
bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh
tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh
sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn
hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam
Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự
như trên.
Sau đó, thiện sinh nhận thức
rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham
thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên, với ý định bỏ
Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như
thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư.
Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay
thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiền sinh ở trong trạng thái
"xả niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào
các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầu như tan
biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc,
gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một
cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền,
thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.
Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên
biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền
như trên chỉ là một giai đoạn sơ khởi, tạo định
lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ
minh sát và tiến đến giải thoát. Trong tiến trình tu học,
thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải tiếp tục
nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi,
quán niệm ân đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp,
quán thân thể (32 bộ phận), quán các danh pháp, quán lý duyên
sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm.
Bình
Anson,
Perth, Tây Úc, tháng 12-1997 |